Nguyễn Thượng Long
“…Có lẽ là nhờ có nhân duyên mà từ những ngày tết 2014 đến gần đây, tôi đã có nhiều lần được trò chuyện cùng cụ Lê Hồng Hà, lại được cụ tin cẩn trao gửi tôi lưu giữ nhiều bản thảo đã công bố và cả chưa công bố của cụ. Bài phỏng vấn này là một tóm tắt không đầy đủ sau những đối thoại có ghi chép gần đây giữa tôi và cụ.
Buồn thay hai năm trước, tại thành phố biển Đà Nẵng -“Nơi đáng sống nhất hành tinh này” (NBT), bệnh tật và tuổi tác đã quật ngã cụ Trần Lâm (1925), nguyên Thẩm Phán Toà Án nhân dân tối cao và những tai ương đó, lại diễn ra tại phòng cấp cứu Bệnh viện hữu nghị Việt Xô Hà Nội với cụ Lê Hồng Hà (1926), nguyên Chánh Văn Phòng, nguyên uỷ viên Đảng Đoàn Bộ công an.
Biết rằng chẳng một ai nằm ngoài vòng “Luân Hồi Sinh Tử”, tôi vẫn ngày đêm nguyện cầu cho những người thầy, người bạn vong niên của tôi là cụ Trần Lâm và cụ Lê Hồng Hà vượt qua được những khắc nghiệt đang đến. Mong sao những gì mà các cụ để lại không phải là những tia chớp loé cuối cùng của những “Ngọn Hải Đăng”đã từng một thời kiêu hãnh trước đêm đen đầy bất công, bất trắc và đau khổ này”.
(Trích trong “Những nỗi buồn Mã đáo” 2014 – NTL)
“Đánh giá đúng tình hình, phân tích thấu đáo tình hình đất nước và tìm con đường tiến lên là một vấn đề cực kỳ phức tạp, khó khăn. Công việc này đòi hỏi một sự lao động trí óc bền bỉ, nghiêm túc của mọi người. Nếu ai ai cũng xác định được ý thức công dân của mình, sẵn sàng nói lên những gì mà mình muốn nói, thì hố sâu ngăn cách giữa mọi người … kể cả chia rẽ đến thế nào, rồi cũng có thể được lấp đầy…”. (LHH)
Lập luận này cụ Hà vẫn thường nói với tôi trong những lần tôi đàm đạo cùng cụ. Và lần đó tôi đã mạo muội đặt trước cụ một số câu hỏi liên quan tới đất nước, tới thời cuộc … như thế này:
NGUYỄN THƯỢNG LONG (NTL): “Không chỉ là một chứng nhân, cụ còn là người trực tiếp can dự vào những biến cố trọng đại suốt từ cuộc cách mạng tháng 8 đến nay, nếu cần một cái nhìn xuyên suốt, một sự ngoái lại cần thiết, cụ có thể bầy tỏ những điều gì?”
LÊ HỒNG HÀ (LHH): Tôi nghĩ rằng, khi truyền thống yêu nước của dân tộc trong lịch sử được phát huy đúng lúc… nhân dân ta đã làm thành công cách mạng tháng 8 và thống nhất được đất nước. Công lao này trước hết thuộc về nhân dân, trong đó có sự đóng góp quan trọng của các nhà yêu nước, đặc biệt là ĐCS Việt Nam, đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Các nhà yêu nước ngày đó họ nói tiếng nói của người dân, nghĩ những gì mà người dân hằng nghĩ, lo những gì mà người dân đã lo và dám làm những gì mà người dân muốn làm.
Nhưng, do vội vã lựa chọn học thuyết Mác Lê, một học thuyết không tưởng… lại chỉ dựa vào những phiên bản méo mó của Stalin và Mao Trạch Đông, do quá ảo tưởng về con đường xây dựng XHCN để tiến đến “Thiên Đường Cộng sản”, do quá sai lầm khi chọn “Chuyên Chính Vô Sản” và “Đấu Tranh Giai Cấp” làm kim chỉ nam cho các động thái cải biến xã hội như: Cải Cách Ruộng Đất – Cải Tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh – Trấn áp phong trào Nhân Văn Giai Phẩm của trí thức văn nghệ sĩ – Đàn áp một cách bất công và tàn bạo cái gọi là “Nhóm xét lại chống Đảng” – Vu vơ trong cuộc đấu tranh ai thắng ai? – Nhầm lẫn khi lấy kinh tế quốc doanh làm chủ đạo – Tập thể hoá cưỡng bức nông nghiệp và thủ công nghiệp… nên ĐCS đã hoàn toàn thất bại.
Những hệ luỵ của những sai lầm không đơn giản chỉ là những thất bại, mà còn là sự tiêu diệt, làm biến mất những phẩm chất tinh hoa, truyền thống của giống nòi, thay vào đó lại làm xuất hiện những thói quen, những trạng thái tinh thần thấp kém và xa lạ. Đất nước đang ngày càng lún sâu vào những lụn bại vô phương cứu chữa.
Năm 1986, do sức ép của tình hình, đã có sự đổi mới lần thứ nhất, nhưng đó chỉ là sự đổi mới nửa vời, còn nói chung vẫn là kiên định chủ nghĩa Mác Lê, vẫn kiên trì CNXH… nên đến nay, đất nước vẫn đi theo con đường sai lầm, đất nước vẫn tiếp tục tụt hậu so với các nước xung quanh.
Mấy năm gần đây, do hậu quả của những sai lầm nói trên cùng với những biến động bất lợi của tình hình thế giới… đất nước đang rơi vào “Giai đoạn khủng hoảng toàn diện” liên quan tới mọi lĩnh vực (Kinh tế – Chính trị – Đạo đức – Văn hoá Xã hội – Niềm tin của người dân…). Diễn biến xấu đó là ngày càng trầm trọng, xuất hiện nhu cầu phải có một sự đổi mới căn bản, một chuyển biến tất yếu không thể đặng đừng.
NTL: “Có người nói: “Cái bất hạnh lớn nhất đối với người Việt Nam là ở cái vị thế Địa – Chính Trị của đất nước là chẳng ra gì. Từ ngày lập quốc cho đến nay, mảnh đất nhỏ hẹp này là nơi tranh hùng, hơn thua của các cường quốc, các nước lớn (Tàu, Pháp, Nhật, Mỹ, Nga, lại Tàu…) . Họ đến rồi họ ra đi, chỉ để lại xứ sở này những ám ảnh u buồn về những thực nghiệm cái thì thất bại, cái thì dang dở, cái thì chẳng ra gì, lại có cái mà đến hết thế kỷ này vẫn chưa biết là nó sẽ thế nào. Những ngày này, nói về Việt Nam trong bàn cờ quốc tế, cụ muốn nói điều gì?”.
LHH: Tôi nghĩ rằng, sau khi thời kỳ chiến tranh lạnh chấm dứt, các nước lớn đều chú trọng tới việc đẩy mạnh sự phát triển và điều chỉnh chiến lược phát triển, đã tạo ra một tình thế thế giới rất đa sắc mầu và rất phức tạp.
Nhật Bản, Hàn Quốc dù vẫn còn những mâu thuẫn, vẫn tiếp tục khẳng định liên minh chiến lược với Mỹ, vẫn đang đoàn kết để trở thành một lực lượng mạnh ở Đông Bắc Á.
Nước Nga thời Putin vẫn khẳng định mình là vị thế cường quốc trong các vấn đề của thế giới và khu vực.
Ấn Độ, Nam Phi cùng các nước lớn ở Nam Mỹ cũng đang phấn đấu để trở thành những quốc gia phát triển mạnh.
Trung Quốc đã vươn lên đứng hàng thứ 2 thế giới về tổng sản phẩm kinh tế, đang tiến hành bành trướng ráo riết, xâm nhập kinh tế bằng mọi cách, thực thi quyền lực mềm ở các châu lục trong đó phải kể tới nhiều vùng đất cùng Biển Đông của Việt Nam. Họ luôn nhất quán với đường lối bá quyền, bành trướng đối với Việt Nam. Mục tiêu lâu dài là tiếp tục đặt Việt Nam vào thế mất ổn định, qua các biện pháp lấn chiếm về đất đai trên bộ, đánh chiếm Hoàng Sa và một phần Trường Sa, áp đảo về kinh tế, xâm lược về văn hoá, bòn rút tài nguyên, âm thầm và lén lút đưa người vào các địa phương, các địa bàn trọng yếu, biến họ trở thành lực lượng ngầm cho mưu toan đưa Việt Nam trở lại thời kỳ Bắc thuộc mới.
Trong những năm qua, Việt Nam qua hội nhập với quốc tế đã mở rộng được quan hệ về các mặt, rất thuận lợi cho sự phát triển kinh tế và các mặt khác nói chung. Nhưng, riêng với Trung Quốc, nhất là từ Hội Nghị Thành Đô (1991), các nhà lãnh đạo Việt Nam đã nhất quán áp dụng một đường lối nhượng bộ, thoả hiệp, thậm chí là nhẫn nhục đầu hàng, rất có hại cho đất nước, làm mọi người nghĩ đến hiện tượng Lê Chiêu Thống đã từng xảy ra trong lịch sử.
Lúc này vấn đề đặt ra cho đất nước là:
Đi đôi với vấn đề đấu tranh để dân chủ hoá đất nước, loại trừ chế độ độc tài đảng trị, chấm dứt sự thống trị của chủ nghĩa Mác – Lê, chấm dứt con đường XHCN… thì vẫn phải kiên trì đấu tranh để bảo vệ chủ quyền, độc lập của Tổ Quốc.
Đây là vấn đề rất khó, rất phức tạp vì cùng một lúc phải giải quyết hai nhiệm vụ chiến lược trọng đại, khó khăn. Vấn đề này chưa một lần được làm rõ đối với nhân dân và các lực lượng dân chủ trong nước.
NTL: “Dư luận trong và ngoài nước chưa quên, cụ là lý thuyết gia số một về “Quá Trình Tự Vỡ” của Đảng Cộng sản Việt Nam, cụ còn tiên đoán “Phải đến 2016” mới có biến cố chính trị làm đổi hướng đi cho Việt Nam!”. Vì sao lại phải chờ lâu như thế? Cụ nói gì về điều này?”
LHH: Dưới đây tôi thử nêu vài suy nghĩ cá nhân, ngõ hầu giải đáp một vài câu hỏi đang là nỗi niềm trăn trở của nhiều người:
Vì sao vẫn chưa xảy ra sự chuyển biến tự vỡ?
Đó là vì các lực lượng dân chủ đối lập tuy đã hình thành nhưng còn quá yếu so với tình hình. Vì vậy tới đây, một mặt phải ủng hộ việc thành lập các tổ chức dân sự, mặt khác phải hợp đồng phối hợp các tổ chức đó theo một chương trình hành động phối hợp, sớm tạo nên sức mạnh tổng hợp, bỏ qua những khác biệt để cùng hướng tới mục tiêu chung.
Do đó, phải phát hiện, tôn vinh các nhân vật có uy tín, các nhân vật xuất sắc xuất hiện trong quá trình tự phát đấu tranh trong những năm qua. Phải tránh các quan niệm nghi ngờ, hẹp hòi, đố kỵ.
Đến bao giờ có thể xẩy ra chuyển biến?
Về vấn đề này có nhiều ý kiến khác nhau. Có người sốt sắng cho rằng, có thể xảy ra ngay trong 2014 này! Lại có người bi quan lắc đầu cho rằng, còn lâu lắm, phải 5,7, thậm chí phải 10… năm nữa! Theo tôi, xã hội Việt Nam đang hồn nhiên tích đọng những yếu tố để trong vài 3 năm tới (2014 – 2015 – 2016) sẽ có những biến cố có thể làm căn bản chính trị đổi hướng rất bất ngờ.
Sự chuyển biến đó sẽ diễn ra như thế nào? Sẽ là bạo động hay bất bạo động? Tính chất của chuyển biến đó?
Theo tôi, chuyển biến đó không phải là một cuộc đảo chính, không phải là một cuộc chính biến, càng không phải là một cuộc khởi nghĩa vũ trang mà mọi việc phải giải quyết triệt để bằng súng đạn như đã từng xảy ra trong lịch sử. Nó chỉ có thể là một cuộc đổi mới về cơ bản hệ thống chính trị, nghĩa là chuyển đổi hoà bình.
Mục đích của chuyển đổi đó chỉ là loại bỏ sự cai trị của Đảng Cộng sản Việt Nam mà vẫn giữ nguyên sự tồn tại của các cơ quan Chính phủ và Quốc hội.
Sẽ vĩnh viễn chôn vùi cái thể chế song trùng quyền lực giữa cơ quan Đảng và cơ quan chính quyền, không còn chế độ CÁC CẤP UỶ lãnh đạo chỉ huy các UỶ BAN HÀNH CHÍNH, các HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN các cấp. Không còn chế độ Bộ Chính trị, Ban Bí thư … các VUA TẬP THỂ này điều khiển Chính phủ và Quốc hội. Không còn chế độ đặt Cương Lĩnh Đảng lên trên Hiến pháp. Không còn chế độ Quốc hội, Chính phủ phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Chính phủ và Quốc hội sẽ được độc lập hoạt động theo Hiến pháp. Việc cải thiện nhân sự trong Chính phủ – Quốc hội sẽ được tiến hành từng bước theo thủ tục bỏ phiếu tín nhiệm, chứ không phải theo kiểu lật đổ.
Đến kỳ bầu cử Quốc hội, cần huỷ bỏ chế độ hiệp thương trước đây, không cho phép gạt những người không phải là đảng viên, phải bầu một cách dân chủ, bầu ra một Quốc hội của nhân dân chứ không phải là một Quốc hội của Đảng. Theo tôi, tới đây trong Quốc hội và Hội Đồng Nhân Dân các cấp, số Đảng viên không nên quá 50% đại biểu.
Theo tôi, phải giữ nguyên các cơ quan Chính phủ – Quốc hội là để đảm bảo các hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội… được đảm bảo bình thường.
Mọi chế độ bảo hiểm xã hội, hưu trí, lương bổng cho mọi đối tượng trong xã hội vẫn bình thường, không để xẩy ra xáo trộn, đình trệ…
NTL: “Từ nay đến những ngày mà Việt Nam sẽ có những đổi hướng quan trọng để hoà nhập vào thế giới văn minh, theo cụ chúng ta sẽ phải làm gì?”.
LHH: Theo tôi, dựa vào việc toàn dân phải thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp mới vừa được Quốc hội thông qua, trong đó có nhiều chương điều khẳng định các quyền cơ bản của nhân dân, nhất là quyền lập hội, quyền tự do tư tưởng… khuyến khích và ủng hộ việc thành lập càng nhiều càng tốt các Hội Đoàn thuộc xã hội dân sự như: Hội Dân Oan, Hội Bầu bí tương thân, Hội Báo chí độc lập, Văn Đoàn Việt Nam Độc Lập (Văn Việt). Chú ý nên chọn những tên gọi mộc mạc, bình dân nhanh chóng và dễ được quần chúng tiếp nhận.
Dựa vào các bậc lão thành có nhiều kinh nghiệm, uy tín như cụ Nguyễn Trọng Vĩnh, các nhân vật mới nổi như: Tống Văn Công, Phạm Đình Trọng, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Huệ Chi, Hà Sĩ Phu, Nguyễn Quang A, Nguyễn Tường Thuỵ, Nguyễn Xuân Diện, Lê Hiền Đức… làm hạt nhân để liên hiệp, quy tụ, phối hợp hoạt động của các Hội Đoàn thành một liên minh thống nhất, tạo nên sức mạnh chung… chấm dứt tình trạng lẻ tẻ, rời rạc mang tính tự phát bởi sự lúng túng khi không vượt qua được những dị biệt.
Từng bước đấu tranh đòi sửa sai, thanh minh, khôi phục danh dự, quyền lợi cho các vụ án oan sai trong quá khứ như vụ Nhân Văn Giai Phẩm, vụ án xét lại chống Đảng, các vụ oan sai trong Cải Cách Ruộng Đất, Chỉnh đốn tổ chức, Cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Giải quyết những tồn căn này là không thể nóng vội, nhưng không thể không làm.
Phát động đấu tranh kể cả vận động các tổ chức quốc tế cùng tham gia đòi giải phóng cho tất cả các tù nhân lương tâm, các tù nhân bị kết án sai trái vì Điều 258, Điều 88 của Bộ Luật Hình Sự vẫn còn đang bị giam giữ. Sự tồn tại của những điều này là sự vi phạm Hiến pháp rất nghiêm trọng.
Tổ chức thăm nom, an ủi, giúp đỡ các tù nhân lương tâm đã mãn hạn tù đang sống ở các địa phương, có thông tin tuyên truyền rộng rãi.
Khuyến khích các nhà lý luận viết bài phê phán chủ nghĩa Mác – Lê, phê phán những ảo tưởng về bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Cộng sản. Phải giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi những lý thuyết không tưởng, những tà thuyết đó đã bị thế giới văn minh vứt bỏ.
Tổ chức phê phán một cách có hệ thống các sai lầm, tội ác mà Đảng Cộng sản đã gây ra cho dân tộc Việt Nam trong mấy chục năm qua (Từ Cải cách ruộng đất, Cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, Hợp tác hoá nông nghiệp – thủ công nghiệp, Trấn áp Nhân Văn Giai Phẩm, Đàn áp vô lối cái gọi là “Xét lại chống Đảng”, quá ảo tưởng về cái gọi là “Con Đường Quá Độ”)… để nhân dân thấy được bên cạnh những thất bại không thể chối cãi như sự tụt hậu thảm hại của Việt Nam với khu vực và quốc tế, sự lệ thuộc cũng là thảm hại của Việt Nam trước Trung Quốc… thì những thắng lợi, thành công nếu có từ cách mạng tháng 8 đến nay… thì trước hết là do những truyền thống quý báu có từ ngàn đời của dân tộc đã được phát huy đúng lúc, đúng cách… là do sự hy sinh của biết bao thế hệ người Việt Nam yêu nước ở trong Đảng Cộng sản, ngoài Đảng Cộng sản… những ngày họ nói tiếng nói của nhân dân, lo cùng nỗi lo của nhân dân, những ngày cảm hứng Tổ Quốc thực sự được họ đặt lên trên hết. Làm sao để nhân dân ý thức được những thành tích hạn chế đạt được từ cách mạng tháng 8 đến nay hoàn toàn không phải là nhờ Mác – Lê cùng bất cứ một giáo điều ngoại lai xa lạ nào khác.
NTL: “Sau những bể vỡ thê thảm về niềm tin của người dân vào cuộc chiến chống tham nhũng qua NQ 4 của ĐCS, điển hình là sự chững lại đến bất ngờ của đại án Dương Chí Dũng liên quan đến ông lớn Phạm Quý Ngọ Thứ Trưởng bộ công an, cứ như thế này thì lý thuyết về sự “TỰ VỠ” của cụ có thể trở thành hiện thực. Vậy theo cụ, cần có một kịch bản nào cho ngày đó?”.
LHH: Nói đến sự “Tự Vỡ” mà không nói gì đến vai trò chủ động của lực lượng tranh đấu cho xã hội Việt Nam có một chuyển đổi trọng đại là chưa hiểu hết về quá trình “Tự Vỡ”. “Tự Vỡ” và những cuộc vận đông trong xã hội có liên quan hữu cơ với nhau. Theo tôi, để tránh những xáo trộn không cần thiết, rất cần có những định hướng căn bản, mà trước hết cần hướng tới các mục tiêu sau:
– Xoá bỏ sự cai trị độc tài của Đảng Cộng sản.
– Xoá bỏ điều 4 trong Hiến pháp.
– Xoá bỏ sự cai trị của các cấp uỷ từ trung ương qua các địa phương thuộc tỉnh, thành, quận, huyện, xã, phường…
Chuyển biến căn bản trên diễn ra trong bối cảnh toàn bộ chế độ bảo hiểm xã hội như: Lương bổng, Hưu trí, phụ cấp cho mọi đối tượng trong xã hội vẫn tiến hành bình thường, không gián đoạn.
Đảng Cộng sản trong 1 – 2 năm tới phải tự sống bằng kinh phí của đảng viên, không thể tuỳ tiện sử dụng ngân sách nhà nước.
Trường đảng trung ương nên sáp nhập với Đại học hành chính quốc gia.
– Các ban ngành của đảng nên sáp nhập vào các cơ quan tương ứng bên chính quyền.
– Các uỷ viên cấp uỷ các cấp nên chuyển sang Hội đồng nhân dân và ứng cử vào các cấp uỷ ban.
– Các cán bộ về hưu bên đảng sẽ được coi như là cán bộ về hưu của viên chức nhà nước hiện nay.
Đảng Cộng sản trở thành một Đảng tham chính, một tổ chức thuộc xã hội dân sự thông thường.
Xã hội vẫn sẽ hoạt động bình thường, không có đàn áp, trả thù, bắt bớ. Trong thời điểm diễn ra chuyển đổi… Quân đội Nhân dân VN được đặt trong tình trạng trung lập với chức năng duy nhất là bảo vệ lãnh thổ, vùng trời, vùng biển. Lực lượng công an chỉ có duy nhất nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự trong xã hội.
Tất nhiên Đảng Cộng sản không dễ mà chấp nhận những chuyển đổi này… nhưng, nếu họ còn nghĩ tới việc đặt quyền lợi của Tổ Quốc, của Dân Tộc lên trên hết thì họ không dễ mà ngăn trở được.
NTL: “Xin cám ơn cụ đã có những bày tỏ công khai và đầy tinh thần trách nhiệm. Kính chúc cụ sức khoẻ và trường thọ. Cầu mong cho đất nước sớm có những thay đổi theo chiều hướng tiến bộ của thế giới văn minh mà cụ hằng mong muốn. Kính chào cụ”.
Hà Nội 10 – 3 – 2014
N.T.L.
Tác giả gửi BVN