Hạ Đình Nguyên
Thật thú vị, khi tự hỏi: “Ông Trọng thuộc loại người nào?”.
Trong khi làm vườn, quét sân, đốt lá, hay nhổ cỏ tôi luôn tự hỏi mình, tôi có thiên kiến, định kiến, thành kiến gì với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chăng, mà cứ nghe ông phát biểu, là tôi bị cảm lạnh hoặc mất ngủ! Mất ngủ mỗi lần nghe ông nói, từ khi ông lên làm Tổng Bí thư cho đến nay. Rồi cố quên ông đi, nhưng mới đây nữa, với Hội nghị Trung ương lần 4 vừa kết thúc, lại phải nhìn ông và nghe ông đọc diễn văn, dù có người bảo, nghe làm gì cho mệt!
Vốn là công dân bình thường, rất xa Hà Nội, không quen biết hay quan hệ hay… tư thù cá nhân gì với ông, vậy mà cứ khó chịu. Lại tự hỏi, vì sao ông ấy có thể trở thành Tổng Bí thư của một Đảng có chiều dài lịch sử như thế? Do đâu ông lại được tái nhiệm lần thứ hai? Và vì sao mấy trăm người ở Ban Chấp hành Trung ương lại nhất tề bầu ông? Tôi nghĩ đây là thắc mắc và cũng là nỗi ray rứt của nhiều người, chứ không riêng ai. Có lẽ lời giải đáp mù mờ nhất, mà cũng khả dĩ ổn nhất, ấy là do vận nước đã đến hồi… phải như thế! Có thể ông là nút thắt cuối cùng của một tiến trình suy sụp “đúng quy trình”?
Sự lên ngôi của ông là kết quả của tiến trình đi xuống tiệm tiến 20 năm, và đến ông, liệu là sự kết thúc một thời đại mà ông gọi là “rực rỡ nhất lịch sử”?
Và thật là thú vị, khi đọc tựa đề bài viết của tác giả Thuận An cách đây không lâu: “Ông Nguyễn Phú Trọng là loại người nào?“. Đây là một câu hỏi cần thiết, và nó có chút tương ứng cái tính tò mò có sẵn trong tôi về con người nổi tiếng và đặc biệt ấy. Tìm hiểu về ông cũng là điều lý thú, về tính đặc trưng hiếm có ở cá nhân ông, lại bởi ông không phải là người dân đơn thuần, mà là người ở vị trí cầm vận mệnh của đất nước này, theo nguyên tắc ông là người của công chúng.
Ngoài cái lý lịch mặt trắng thư sinh(1) từ nhỏ đến lớn ông bám vào con chữ mà nổi lên thành một lãnh tụ số một của Đảng Cộng sản Việt Nam, hẳn ông phải là người thế nào chứ! Ông ấy nổi tiếng về những câu/ý mà ông phát biểu. Nhiều lắm, và rất điển hình. Nhưng chỉ xin dẫn vài điều có thể là đặc trưng về tính cách của ông đang còn gây ấn tượng đậm đà trong dư luận.
Đặc điểm 1: Lập trường cách mạng kiên định với tầm thế giới.
Sau khi đắc cử chức Tổng Bí thư lần I với lời hứa là sẽ “đột phá” cái gì đó rất lằng nhằng, ông xuất ngoại sang Cuba với bài diễn văn làm chấn động trong chính trường thế giới, đến độ bà Tổng thống Brasil, với vai chủ nhà đứng ra mời khách, đã vùng vằng bực dọc, hủy bỏ chuyến đón tiếp ông mà không xin lỗi tiếng nào. Đoàn đại biểu do ông dẫn đầu phải quay về sớm, chuyên viên trong đoàn phải bở hơi tai đăng ký xin lại lịch trình bay phức tạp qua gần 20 nước. Bài diễn văn độc đáo đã bộc lộ ý chí mãnh liệt của ông: Muốn tái dựng phong trào Cách mạng xã hội chủ nghĩa, ít nhất là ở quy mô các nước đang phát triển, mà Việt Nam đang là tấm gương chiếu sáng (đọc lại bài diễn văn ấy là thấy ngay). Trong khi Liên Xô sụp đổ, Trung Quốc rời bỏ chủ nghĩa xã hội để trở thành chủ nghĩa bá quyền mèo trắng mèo đen, ông nuôi tham vọng đưa Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của ông, sớm trở thành ngọn cờ đầu của phe xã hội chủ nghĩa. Bà Tổng thống Brasil quá mừng rằng đã (suýt) được tiếp xúc với một linh hồn từ thế kỷ 19 mới hồi sinh. Sự kiện này tuy đã thành một sự cố gây dư luận ồn ào trong nước và ngoài nước, nhưng nó biểu trưng tính cách mạng kiên định nơi ông, như ông đã thấm nhuần trong sách giáo khoa của trường Đảng. Dân gian thường nói: kẻ điếc thì “dũng cảm”, vì không nghe được tiếng súng. Ông đã kiên trì đề cao và nâng niu, trang trí lại cái chủ nghĩa mà nhân loại đã sợ chết khiếp gần thế kỷ nay!
Đặc điểm 2: Biểu trưng người miền Bắc và có lý luận.
Ở tầm nội trị, để chuẩn bị cho sự thành công Đại hội 12 của mình, ông khoanh vùng về việc bầu cử: “Tổng Bí thư phải là người miền Bắc, phải là người có lý luận”. Và câu nói cũng nổi tiếng: dân chủ đến thế là cùng, vì mọi điều tiếng không hay ông đều bỏ ngoài tai.
Buồn cười thật!
Đành rằng miền Bắc Việt Nam là có trước miền Nam, dân Việt từ miền Bắc mà Nam tiến theo chiều dài lịch sử mở nước và dựng nước, nhưng đâu đơn giản là kẻ ra đi (Nam tiến) kém hơn người ở lại? Sao ông cả gan dám nói về đề tài mà ông không từng học hành? Tri thức cải biên Lê-Mao của ông không bao gồm môn lịch sử, xã hội học, dân tộc học… Trong lịch sử Việt Nam chưa có một ông vua hay quan nào dám phát biểu như vậy. Trong thời đại này, cái ý tưởng ấy lại càng dị hợm hơn. Nó lạc hậu về mọi loại kích thước.
Và lại nữa, phải là người “có lý luận”. Cái lý luận thì xưa nay vốn vô cùng vô tận. Mà thế nào là “có lý luận”? Mà có nhất thiết phải là lý luận Lê-Mao theo cái ông học và cách ông hiểu, mới được gọi là lý luận chăng? Ông muốn kích hoạt cho tinh thần người miền Bắc nhằm tạo vây cánh, hay chỉ muốn loại trừ những người ở phía Nam mà lý luận bốc đồng như thế? Đằng nào thì cũng không ổn! Phát biểu ấy, nếu ông sinh hoạt trong một chi bộ nghiêm khắc nào đó, có thể bị kiểm điểm ít nhất là ba ngày chưa xong, và bị hạ tầng công tác, vì ngoài cái tính nói càn, lại mắc phải tội kỳ thị địa phương, gây mất đoàn kết trong bộ Đảng và trong nhân dân.
Xóm tôi ở có khối người “có lý luận”, kể cả lý luận Mác-Lê, mà thuộc loại origin nữa, họ học và đọc từ nguyên bản chứ chẳng phải từ sách chế, mà hà tất phải là người Bắc mới có. Mà cũng có cả người Bắc di cư vào từ 1945, 1954, 1975 và liên tục cho đến nay, không thiếu, mà cũng giỏi lý luận lắm. Xác định cái sự “có lý luận” bởi cái bằng “Mác-Lê – Xây dựng Đảng” như ông, thì cũng có người có nốt, tuy ít người thích học, và cũng không dám khoe khoang. Theo ý ông, dù người có lý luận như ông mà không phải là người Bắc là không được, mà dù người Bắc như ông mà không có lý luận – giống như ông – cũng không được. Thì chỉ còn ông thôi, đúng không? Cũng có nhiều người bàn luận về chuyện này, và họ cười ngất trong quán xá và các chỗ vui chơi.
Thực tế phải thừa nhận ông là người miền Bắc, và có lý luận – dù cái lý luận ấy ra sao – ông vẫn rất độc đáo và không thể không nổi tiếng: trong lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam, nay mới có một Tổng Bí thư như thế!
Đặc điểm 3: Một người không tham vọng quyền lực.
Để hướng dẫn/khống chế đại biểu trong chuyện bầu cử Quốc hội, ông đã ra chỉ thị rất ngon lành: “không đưa vào danh sách ứng cử những người có tham vọng quyền lực”.
Và cái Chỉ thị 244 do ông đạo diễn đã trắng trợn tước quyền dân chủ của Đảng viên đại biểu: “không được ứng cử, không được quyền chấp nhận đề cử” những ai bị khoanh vùng bởi Bộ Chính trị mà ông là người chủ trì.
Đây là chỉ thị để cả Đảng thi hành. Không những chỉ là Quốc hội, ông cũng đã đưa ra tiêu chí này khi tiến hành tổ chức Đại hội Đảng 12. Đi sâu để phân tích cái “Có tham vọng quyền lực” thì tác giả Thuận An đã nói kỹ xin không lặp lại, nay có lẽ cả quan và dân cả nước đang quẩn chân không biết làm sao để chứng minh thế nào là “có tham vọng quyền lực” nằm trong bụng của ai đó để “không bầu vào Quốc hội”? Và không có cái tham vọng ấy thì phải có cái gì thay vào đó chứ?
Chắc cái ấy là loại siêu quyền lực xã hội chủ nghĩa vốn rất khó hiểu chăng?
Thế mà mọi việc cũng đã xong xuôi. Ông thuyết phục được mọi người trong Đảng, và mọi người trong Đảng đã để cho ông thuyết phục. Điều đáng kinh ngạc lần này là ở cái Đại hội Đảng do ông cầm đầu, đã bầu ông. Liệu có gì bí ẩn bên trong Đảng, hay bên ngoài… biên giới Quốc gia? Chẳng ai tiếc rẻ gì những kẻ ra đi, nhưng lại ngỡ ngàng về người ở lại.
Có thể phác họa sơ bộ về ông với bốn điểm đậm đặc sau:
– Cách mạng xã hội chủ nghĩa triệt để (cho Thế giới thứ 3)
– Người miền Bắc (Việt Nam)
– Có lý luận (Mác-Lênin theo cách mà ông hiểu)
– Không có tham vọng quyền lực (để làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam)
Đại hội còn có thêm nhu cầu đoàn kết trong Đảng. Thế là ông lập tức có khả năng đáp ứng thêm nhu cầu thứ năm này nữa, nên chi toàn Đại hội đã nhất tề bầu ông tiếp tục giữ vai trò Tổng Bí thư thêm một năm hoặc là nửa nhiệm kỳ nữa (nghe nói thế!).
Ông đã đắc cử vẻ vang như chưa từng có.
Các đối thủ miền Nam của ông, vì không có lý luận mà lại có tham vọng quyền lực, và tất nhiên không phải là người miền Bắc, phải lập tức khăn gói về quê, kẻ thả câu, nuôi yến (anh Sáu) người đi chùa (anh Ba), hay người ca tân cổ giao duyên (anh Tư). Chỉ còn lại mình ên, cực chẳng đã, ông phải chấp chính cái quyền lực tuyệt vời ấy – mà vốn thực lòng ông không hề muốn, như ông đã từng gay gắt lên án và cũng từng than thở. Ông cố thắp lên “ngọn nến trong sương mù Mác-Lê” như cách nói của ai đó trong một bài báo.
Thông qua lý luận, ông tin rằng chẳng còn ai là xứng tầm đối thủ của ông trong Ban Chấp hành Trung ương mới, ông lại có những 73 mùa xuân già cỗi có lý luận, chắc chắn là ông khiển được, trên dưới sẽ một lòng, nhất hô bá ứng, giữ vững càn khôn đại cục, chủ nghĩa Mác-Lê sáng quắc, tình hữu nghị Việt-Trung đời đời vàng chói, với 16 chữ, với các thông cáo chung “chiến lược và toàn diện” mà ông từng ký kết. Biển Đông vẫn bình yên, đều đều vỗ sóng xanh (để ông thong dong tổ chức bầu cử như lời ông nói). Trên biển, trên bờ, cả trên các thảo nguyên bạt ngàn phấp phới những bóng cờ đỏ, vàng vàng những sáu sao, ghi hình trên 40 điểm như những vết lở lói, rải đều các nơi nhạy cảm trên cơ thể Việt Nam.
Tuy nhiên, gió bão không ngừng thổi lên từ đất, từ rừng, từ biển, từ trời, và từ người.
Có tiếng rào rào của hàng thảo dân khắp nơi lại cho rằng, cả cuộc đời của ông đã cần mẫn, cạy cục cho cuộc tìm kiếm quyền lực, suốt thời gian từ trước khi lên chức Tổng Bí thư đỉnh cao hôm nay, ông đã liên miên phát động các chiến dịch tìm quyền lực dưới các loại lý luận, gây nên suy thoái mọi mặt của xã hội, mà suy thoái lớn nhất, chính là sự “có lý luận” của ông đã dẫn đầu cho một cuộc suy vi về lý luận. Ông nổi bật lên như kẻ cầm đầu của một dòng chảy bảo thủ vốn và giáo điều đã có trong quy trình của Đảng ông mấy mươi năm qua, ít nhất từ cái suối nguồn “Hội nghị Thành Đô” đến nay. Với nhiệm kỳ 5 năm làm Tổng Bí thư đã qua, người dân cho rằng ông đã đi từ thất bại này đến thất bại khác, và thất bại nào cũng cay đắng cho ông, và cho đất nước. Lại nhờ cái “không tham vọng quyền lực” may ra trời cho, ông đạt được “đỉnh cao quyền lực”. Đại hội 12 mà đồng tình, thì hàng thảo dân cũng đành lòng lý luận: Đảng Cộng sản Việt Nam lúc này xứng đáng có một Đảng trưởng như vậy. Dân Việt Nam lúc này cũng xứng đáng có một ông “vua tốt” như vậy, và cũng đành… chấp nhận nốt một bản “anh hùng ca dang dở” thôi.
Thế rồi lịch sử đã bước sang một trang rất dang dở với sự thành công rực rỡ của ông. Trên 5.200 quân với bụi mờ và tiếng ầm ì của tăng và pháo quần thảo quanh Ba Đình, ở bên trong hội trường, thì vang lên cái lý luận siêu phàm, siêu nhiên, siêu siêu, gọi là trời ơi cũng được, đã làm cho cả nước hồi hộp: “Tình trạng suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” vẫn chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, có mặt còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn, có thể gây ra những hậu quả khôn lường”.
Trong bối cảnh ảm đạm sau bức màn sân khấu, thế là Đại hội đã kết thúc, và một chiến dịch mới ra đời rất bề thế. Và có nguyên một “Ông Đội trưởng” hẳn hoi từ đó bước ra.
Ông Đội trưởng “Đội cải cách”!
Xem tác phẩm “Ba người khác” của Tô Hoài thì phác họa được chân dung của ông “Đội trưởng” Đội cải cách ruộng đất vào thập niên 60 ở Miền Bắc, một chiến dịch nổi tiếng, được Đảng ngợi ca là “long trời lở đất” với vai trò nổi bật của ông Đội trưởng. Ý nghĩa chung của chiến dịch là vô cùng khủng khiếp. Mà kết quả sau đó là có nước mắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, và sự mất chức Tổng Bí thư của ông Trường Chinh. Nhưng chân dung “Ông Đội trưởng” thì không phai mờ qua thời gian!
Và chân dung ấy đang sừng sững tái hiện vào lúc này, với chiến dịch có tên mới là “Cải cách tham nhũng”, cũng hứa hẹn sẽ long trời lở đất chăng?
Nhiều người cho rằng dư luận đáng ân hận vì đã nhầm to khi người ta – xuất phát từ người miền Bắc có lý luận, trước khi lan truyền cả nước – đặt tên cho ông là Lú, bởi thực tế đã không hẳn ông giống như tên gọi này. Với khẩu hiệu chống kẻ có tham vọng quyền lực, ông đã hoàn thành việc chiếm được trọn vẹn quyền lực một cách không thể ngoạn mục hơn. Từ tháng Ba năm nay, bây giờ là tháng 10/2016, trong 7 tháng tiếp tục cầm quyền với tư cách Tổng Bí thư lần hai, cả nước đang trở nên rối mù thêm nữa. Và ngay từ cái ngày Đại hội ở Ba Đình diễn ra thì cụ Rùa Hồ Gươm đột ngột ra đi, như báo một điềm xui: thiên tai, địch họa, nhân họa và cả Đảng họa đã liên miên xảy ra. Cái lỗi hệ thống đã làm nhễu nhão cả khung sườn lãnh đạo quốc gia, từ lý thuyết tư tưởng đến thực tế, kinh tế, giáo dục, đạo đức… mọi sự tệ hại lớn nhỏ xảy ra trên khắp xứ sở. Những bất ngờ, bất định, bất ổn không thể dự đoán trước, ngày càng xảy ra rộn ràng hơn.
Một sự suy sụp triệt để, từ vĩ mô đến vi mô.
Ông Trọng, như một người hùng Don Quixote với chiếc “Cối xay gió” trong tiểu thuyết của nhà văn Tây Ban Nha Miguel de Cervantes(2). Ông cũng khởi sự phát huy quyền lực của mình sâu rộng thêm, và như lẽ thường, ông đang đứng trước các phản động lực ngày càng gay gắt hơn, ông càng xoay người thì gió càng thốc tới, bởi tính “tự diễn biến” của nó mà ông hết sức không ưa.
Và như dân gian thường nói, gió ngược càng mạnh, chiếc diều sẽ bay cao hơn.
Ông sẽ bay cao hơn chăng, có thể cao tít tới trời xanh không chừng! Ông cũng đang trang bị cho mình chiếc áo giáp của phi hành gia, và xông xáo vào khắp các ngả đường làng. Cái ghế Tổng Bí thư Đảng – chiếc áo Chủ tịch Quân ủy Trung ương, chưa đủ! Ông mặc thêm quần cảnh sát, trang bị luôn súng ngắn, dùi cui, roi điện… của ngành cảnh sát(3).
Ông Đội trưởng Đội cải cách tham nhũng chưa có chỉ dấu nào cho thấy sự thành công của chiến dịch. Ông tiếp tục bài vọng cỗ biện chứng mà ông từng đã và đang ca. Qua Hội nghị lần 4 với bài diễn văn chỉ đạo hội nghị và diễn văn kết thúc hội nghị với âm giọng rề rề buồn tẻ, bộc lộ đủ cái lý luận gàn và lòng vòng, mà nội dung thì không còn một chút nắng. Cả mở đầu lẫn kết thúc lại nhạt nhòe, đắm chìm trong cơn mưa lũ bão bùng khắp nước, với cả 100% các loại “lỗi hệ thống” đã nở hoa. Một loài hoa mà có nhà tiến sĩ văn hóa xã hội chủ nghĩa đã đề xuất làm Quốc hoa, tên là “hoa cứt lợn”, hay là hoa “mắc cỡ” gì đó.
Để phác họa thời kỳ rực rỡ nhất này, có bài viết của một quan to vừa rời ghế, là Vũ Ngọc Hoàng, đã tổng kết có phần xác đáng ở các phần chi tiết. Cái tổng thể thì ông Hoàng chỉ đề cập hơi nghiêng nghiêng. Ông Hoàng không nói về cái gì tương tự như “lỗi hệ thống” như ông nguyên Chủ tịch Quốc hội trước đây – Nguyễn Văn An – đã nói, bởi cái cụm từ ông An dùng đã là quá tế nhị, đã có chừa vùng cấm. Thuở ông An nói khi còn ngồi ghế, trong bối cảnh ấy dù không phải là sớm, nhưng cũng gọi là dũng cảm vì đã dám hé lộ nguyên hình của một sự thật căn cơ không tốt đẹp gì. Nhưng cũng chỉ được có từng ấy! Ông Hoàng có thể tăng ga thêm một chút nữa được không? Bởi bây giờ đã khác trước nhiều lắm rồi. Người dân đã chấp nhận đi đầu, bị đánh đập, bắt tù và chảy máu, và đang đứng lên đòi quyến sống, dõng dạc nói lên tiếng nói của mình. Đã có tiếng súng hoa cải của Đoàn Văn Vươn, lại mới có hoa cải ở Đắc Nông, đã có 6 phát súng Colt của Đặng Ngọc Viết, lại có 8 phát K59 ở Yên Bái. Đã có dân của bốn tỉnh miền Trung với Formosa, đã có những ngày Chủ nhật Hà Nội – Sài Gòn như vừa qua… Đã có những người như linh mục Antôn Đặng Hữu Nam với hàng vạn giáo dân của mình đã thắp lên một ngọn đuốc sáng, có MC Phan Anh với tư cách một cá nhân riêng lẻ và mấy lời kêu gọi trên mạng, đã có hơn hai chục tỉ đồng đóng góp trong một thời gian ngắn. Các chỉ dấu ấy chứng tỏ lòng dân không có sự sợ hãi mà người gieo rắc đã mong chờ. Và đa số người dân, bên ngoài được xem là thầm lặng, nhưng bên trong lại chứa đầy nhiệt huyết!
Hãy tin đó là một sức mạnh thật sự có. Sức mạnh của nước.
Đợi chờ gì từ một nơi hoang tưởng nhập nhằng, khi đánh chuột sợ vỡ bình, đánh tham nhũng là ta đánh ta? Đúng như lời ông ấy nói, chống tham nhũng khó thật! Nên chăng, chỉ cải cách cái cách tham nhũng thôi, để không rơi vào thế nghịch, ta lại đánh ta?
Trời mưa trút nước, lũ lụt dâng cao, đồng xanh lúa chết, người và súc vật cùng một thân phận lao đao. Với thứ lý luận phá sản, loài sâu tham nhũng gặp thời, đang có trong tay vùng đất hứa, vẫn sinh sản tốt và đang phát triển ổn định. Như hãng nước mắm hóa chất Masan đang tận dụng nhanh chóng cơ hội phát huy tác dụng, như hãng xe Mai Linh đang làm cánh tay nối dài…
Câu hỏi vẫn còn nguyên đây, Nguyễn Phú Trọng, thực ra ông là ai? Không phải Lú, không phải là Ông Giáo Làng. Nhân loại vẫn sợ người cuồng tín.
Và Đảng của ông đang làm gì trước những hỗn độn rất “chiến lược và toàn diện” này?
Mỗi lần có sự bế tắc trên thực tiễn, thì những chùm từ ngữ mới, cách nói mới xuất hiện, như một giải pháp có tính vô hình, như một sự đánh đố vô nghĩa. Một thời hỗn loạn, có khái niệm “làm chủ tập thể” ra đời. Một thời bế tắc, thì xuất hiện kẻ thù “quan liêu bao cấp”. Cái khó hôm nay thì bên ngoài có “Việt Tân” lãnh tiếng, kế tiếp bên trong là “thằng tham nhũng” nào đó lãnh đủ, vừa được gọi tên thêm là thằng “ta đánh ta”. Lý luận vòng quanh lâu ngày cũng thấy đơn điệu! Vì thế, ông Nguyễn Phú Trọng vừa nhả bóng lại cho Hội đồng Lý luận Trung ương những câu hỏi bắt bí, làm quẩn chân các ông “Hội đồng” vốn đã quẩn chân lâu nay, về những sản phẩm do chính ông chế tác, với cái yêu cầu có chút thần thánh: Yêu cầu Trung ương “tiếp tục đổi mới với tinh thần kiên định và sáng tạo”. Thật là khó lòng phải nhắm mắt (để kiên định), lại vừa phải mở mắt (để sáng tạo). Sau đó, ông vo tròn một gói giải pháp gọi là “Năm là”, và suýt bóng. Nhưng quả bóng đã hóa thành một thứ văn chương rổn rảng, rỗng đến không gì bằng ở mỗi cụm từ của nó:
“Con đường đi lên (!) chủ nghĩa xã hội (?) của Việt Nam dù còn nhiều khó khăn (!), gian khổ (!), nhưng là con đường đúng đắn (?), sáng tạo (?). Lẽ phải thuộc về chúng ta (?). Cần chú trọng đấu tranh trên mặt trận (!) tư tưởng, lý luận; đấu tranh không khoan nhượng (!) bằng những luận cứ khoa học sắc bén (!), giàu sức thuyết phục, bằng sức mạnh của niềm tin (!) không thể lay chuyển(!) vào chân lý, làm thất bại mọi mưu toan, hành động xuyên tạc (!), kích động (!), chống phá (!) Đảng, chế độ và sự nghiệp đổi mới (?) của đất nước”.
Sự hoang tưởng đến đây thì đủ rõ. Tư duy – lý luận bề bộn thế này không thể cứu vớt được ông Tổng Bí thư, dù ông rất tự tin! Là một giỏ chứa đầy những ý nghĩ bảo thủ, trộn với các ý niệm bạo lực, và những nhân danh hơi lớn.
Biết thế, nên ông đã động viên các ông “Hội đồng Lý luận”: “Nghiên cứu lý luận là công việc khó khăn, vất vả nhưng tràn đầy niềm vui sáng tạo (ôi!). Lý luận không phải là khô khan như có người tưởng, trái lại, rất sống động và thú vị (ôi!), bởi nó phản ánh quy luật vận động muôn màu muôn vẻ của cuộc sống (ôi!), bởi đó là sự khám phá chân trời trí tuệ không giới hạn (ôi chà!), nó là kim chỉ nam (ôi chao!) cho hành động của chúng ta”.
Vâng, niềm vui là chính? Quả là nỗi thú vị đắng cay!
Để hòa niềm vui vào công cuộc nghiên cứu lý luận được đề nghị, tôi gợi ý bà con nên nghiên cứu về ông ấy, chắc cũng là rất sống động và thú vị sẽ mênh mông. Để bớt băn khoăn và dễ tưởng tượng, cần gọi đúng tên, cái mà ông Trọng đang chỉ huy, là “Đội Cải Cách Tham Nhũng” mà chính ông thủ vai Đội trưởng. Sau đó, ráng nổ súng lên trời, như lời ông Thủ tướng Phúc đã nói và đang nổ, để bảo vệ Đảng. Và lệnh cho cánh dư luận viên la ầm lên là cuộc cải cách tham nhũng đang “long trời lở đất”. Cứ hãy đem “lý luận” mà trấn áp thực tiễn theo cách không khoan nhượng của ông ấy! (Vì thế ông đã vào vai Công an?)
Cho đến một hôm “Dân ta vùng lên như bão tố. Dân ta vùng lên như cuồng phong…” (Nhạc sĩ Tôn Thất Lập – thời chống Mỹ) để chấm dứt cái phương châm tai họa “đúng quy trình”, trên cơ sở cái quy trình không đúng mà rất hỗn độn ấy.
Để có quy trình đúng là không thể thoát ly tam quyền phân lập. Lúc ấy vĩnh viễn không còn phương châm “nhất Đội nhì Trời” và cũng vắng bóng luôn “Ông Đội trưởng”. Lúc ấy lòng dân sẽ phục sinh, mà không nhất thiết ai đó phải cố lấy lại bằng cách dao búa./.
H. Đ. N.
__________
(1) Xem lịch sử của ông Trọng trong thư gởi Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, của Nguyễn Thanh Giang, có tựa “Quyền lực rất lớn, hiệu lực rất kém“.
(2) Don Quixote nói với những người lái buôn phải khen Dulcinca del Toboso là người đẹp nhất trần gian và kết thúc bằng một cuộc giao đấu của chàng với những người lái buôn, vì họ không chịu khi mà họ chưa từng thấy nàng (như nàng chủ nghĩa xã hội? – người viết). Don Quixote bị đánh nát người và được một bác nông dân đưa về nhà chăm sóc.
Trước khi chết, Don Quixote tỏ ra là một người nhận thức được tai hại của những cuốn truyện hiệp sĩ mà mình đã từng đọc khi viết những dòng di chúc để lại cho đời.
(3) Xem bài viết “Anh Trọng đi làm cảnh sát, tham bát bỏ mâm“ của ông Nguyễn Khắc Mai.
Tác giả gửi BVN.