Lê Văn Ninh
Cách đây 1 năm 3 tháng, ngày 9/6/2015, ông Vũ Ngọc Hoàng, nguyên Phó Ban Tuyên giáo Trung ương của ĐCSVN đã cho đăng 1 bài báo trên Vietnamnet: “Bàn về sự bóc lột và thâu tóm quyền lực”. Khi đó ông Hoàng đứng về phía ông TBT Nguyễn Phú Trọng, chĩa mũi dùi công kích vào nhóm lợi ích trong Đảng (người ta cho rằng nhóm này do ông Nguyễn Tấn Dũng đứng đầu). Ông Hoàng nêu ra 3 hậu quả, nếu không kiểm soát được quyền lực. Đó là:
– Đảng chân chính (?) sẽ không còn. Nhà nước sẽ biến chất;
– Dân tộc bị bóc lột, bị tước đoạt quyền lực và bị tước đoạt tài sản của cải;
– Xã hội không có dân chủ, không có tự do, không có bình đẳng.
Từ đó, ông Hoàng đặt vấn đề phải điều chỉnh cơ chế kiểm soát quyền lực và chống “tự diễn biến trong Đảng”.
Sau khi bài báo này được công bố, ngày 13/6/2015, ông Tô Văn Trường đã gửi bài “Mạn đàm với ông Vũ Ngọc Hoàng”. Ông Trường cho rằng ông Hoàng không lý giải được nguyên nhân gốc rễ là “Chế độ Đảng trị” gây ra và do đó ông Hoàng bế tắc cách giải quyết.
Xin lưu ý, trước đó đã có nhiều người đề xuất giải pháp kiểm soát quyền lực, nhưng đều đã bị bỏ qua:
-Ngày 3/3/2013, ông Phạm Xuân Hằng, nguyên Phó chủ tịch UBTƯMTTQVN thông qua báo Vietnamnet, đã kiến nghị: “Cần có Luật về Đảng”.
– Ngày 3/11/2013, ông Nguyễn Đình Hương, nguyên Phó Ban Tổ chức Trung ương của ĐCSVN đã gửi bài đăng trên Vietnamnet: “Cần có phanh tốt để kiểm soát quyền lực”.
-Cũng ngày 3/11/2013, trên Vietnamnet, Luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên phó chủ nhiệm văn phòng Quốc hội kiến nghị: “Một Đảng cầm quyền như ĐCSVN nên chấp nhận cạnh tranh. Chấp nhận cạnh tranh chính là chấp nhận sự tự rèn luyện, để Đảng ngày càng trưởng thành, trong sạch, vững mạnh”.
Đến nay, ngày 22/9/2016, ông Vũ Ngọc Hoàng lại vừa gửi đăng 1 bài báo trên Vietnamnet, nêu lại vấn đề tha hóa quyền lực và vì sao phải kiểm soát quyền lực.
Bây giờ nhóm lợi ích của ông Nguyễn Tấn Dũng đã bị loại, nhưng theo ông Hoàng: “Trong Đại hội 12 của ĐCSVN, ông Trọng ít nhất đã 2 lần nhấn mạnh đến vấn đề kiểm soát quyền lực, tuy vậy cho đến nay, quyền lực về cơ bản chưa được kiểm soát”(?). Ông Hoàng nói: “Bằng các thủ đoạn chính trị, có những người, những nhóm đã cướp đoạt quyền lực của nhân dân, biến nhân dân thành đối tượng bị cai trị. Quyền lực bị tha hóa đã dẫn đến đạo đức xã hội xuống cấp, văn hóa suy đồi, dân tộc mất dần sức mạnh nội sinh, xã hội trì trệ, quốc gia không thể hưng thịnh, không đủ sức mạnh để bảo vệ Tổ Quốc” (tức là sự tha hóa quyền lực đã dẫn cả hệ thống chính trị và xã hội đến tình trạng thối rữa như một cơ thể đang bị ung thư di căn khắp lục phủ ngũ tạng).
Khác với bài báo cách đây 1 năm, trong bài báo này, ông Hoàng đã cảnh báo mức độ nghiêm trọng do sự tha hóa quyền lực gây ra. Ông nói nó sẽ dẫn đến sự tự sụp đổ chế độ. Ông dẫn chứng sự sụp đổ của ĐCSLX vào năm 1991 là do tha hóa quyền lực dẫn đến tự sụp đổ chứ không do kẻ địch nào phá bằng “diễn biến hòa bình”, và ông nói từ bài học của ĐCSLX, nếu ai đó cho rằng cứ nắm chắc lực lượng vũ trang là tránh được sụp đổ thì đó là những suy nghĩ rất ấu trĩ.
Nhưng cũng giống như bài báo cách đây 1 năm, ông Hoàng không lý giải được nguyên nhân gốc rễ gây ra tha hóa quyền lực của ĐCSVN là do lỗi hệ thống. Ông rất ngây thơ đặt ra câu hỏi: “Tại sao khi có quyền lực thì người cầm quyền dần dần trở nên hư hỏng?” và như bài báo trước, ông vẫn bế tắc về cách giải quyết.
Do đó, xin có một câu hỏi với ông Vũ Ngọc Hoàng: “Ông và Đảng của ông có thật tâm muốn thoát khỏi tha hóa quyền lực và tự sụp đổ không?”. Nếu Đảng của ông thật tâm muốn thoát khỏi sự tự sụp đổ thì xin góp vài lời sau đây:
1- Phải hiểu đúng về quyền lực và nguyên nhân tha hóa quyền lực;
2- Từ bỏ mục đích chiếm đoạt quyền lực nhà nước và dùng quyền lực để cướp bóc chiếm đoạt, trong học thuyết của Marx;
3- Từ bỏ những nọc độc của chủ nghĩa Marx ở giai đoạn Lênin;
4- Từ bỏ ảo tưởng về chủ nghĩa cộng sản trong học thuyết của Marx;
5- Tại sao ông Trọng không dám mô tả hình dạng cái xã hội chủ nghĩa do ông định hướng?;
6- Chuyển đổi sang chủ nghĩa xã hội dân chủ và đa nguyên theo mô hình Bắc Âu là lối thoát danh dự của ĐCSVN;
1. Phải hiểu đúng về quyền lực và nguyên nhân tha hóa quyền lực
Ông Hoàng mở đầu bài báo ngày 22/9/2016 bằng câu “Quyền lực như con ngựa bất kham”. Có thật vậy không? Theo giải thích của Max Weber (1864-1920), một trong những người có công lớn nghiên cứu về quyền lực xã hội thì có thể hiểu tóm tắt như sau: “Quyền lực (Power) là khả năng áp đặt ý chí của một cá nhân đối với cá nhân khác, tác động đến khả năng động viên các nguồn lực, để đạt đến một mục đích của cá nhân áp đặt ý chí đó”. Cũng theo Max Weber, quyền lực có nguồn gốc kinh tế và nhiều yếu tố phi kinh tế, chẳng hạn: truyền thống gia đình, học vấn, tôn giáo, uy tín cá nhân. Một người chủ gia đình muốn duy trì truyền thống gia phong tốt đẹp của gia đình, anh ta (hoặc chị ta) cần có quyền lực. Bản thân quyền lực không phải là con ngựa bất kham. Nó không tốt cũng không xấu. Nó tác động tốt hay tác động xấu là do người có quyền lực thực thi quyền lực với mục đích nào.
Trong các loại quyền lực, có 3 loại quan trọng, gồm: quyền lực chính trị, quyền lực công (còn gọi là quyền lực xã hội) và quyền lực nhà nước. Mỗi loại quyền lực có đặc trưng riêng và chúng tác động đan xen vào nhau. Quyền lực công mang tính chất công cộng, bao trùm toàn xã hội và toàn lãnh thổ quốc gia. Vì tính chất bao trùm như thế, nhân dân là chủ thể của loại quyền lực này không thể trực tiếp thực thi quyền lực mà phải trao quyền lực cho một cơ quan tối cao của xã hội làm thay, gọi là Nhà nước. Cái cơ quan tối cao đó bây giờ đứng trên xã hội, độc lập với xã hội. Nó dần dần bị chi phối bởi tầng lớp thống trị, tức tầng lớp cầm quyền. Chúng dùng bộ máy nhà nước, vừa thực hiện chức năng công quyền, vừa làm lợi riêng cho tầng lớp thống trị và bảo vệ đặc quyền đặc lợi của tầng lớp thống trị. Quyền lực công ban đầu, do nhân dân ủy quyền dần dần bị biến thành quyền lực chính trị thuần túy của tầng lớp thống trị. Chúng tạo ra luật pháp để bắt buộc mọi người phải thừa nhận sự thống trị của chúng.
Một đặc điểm của tổ chức quyền lực nhà nước của mọi quốc gia là một bộ máy có nhiều cấp, tổ chức bao trùm rộng khắp toàn xã hội. Những người được giao nhiệm vụ thực thi quyền lực này là những người có chức vụ, quyền hạn nhất định, được giao các phương tiện công để thực hiện quyền lực, trong đó có nhiều phương tiện đặc quyền, chỉ bộ máy nhà nước mới có. Công chức hành chính nhà nước có quyền ra quyết định hành chính bắt buộc thi hành ngay, có quyền cưỡng chế hành chính, có quyền trưng dụng, trưng mua tài sản. Thẩm phán các tòa án có quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, lao động, kinh tế, hành chính. Kiểm sát viên có quyền công tố và kiểm sát chung. Thủ trưởng các cơ quan nhà nước có quyền quản lý, sử dụng tài chính, công sản nhà nước. Người đứng đầu các tổ chức kinh tế, dịch vụ nhà nước có quyền quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước giao cho họ. Sự khác biệt giữa cơ quan tổ chức nhà nước với các cơ quan không phải là cơ quan công quyền là ở chỗ toàn bộ quyền hạn của cơ quan, tổ chức, chức vụ nhà nước được pháp luật quy định, làm cho nó trở thành quyền lực hợp pháp và tối cao. Trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước, khoảng cách giữa đúng thẩm quyền và lạm quyền chỉ là gang tấc và thường có khuynh hướng lạm quyền. Quan chức được giao quyền lực công thu lợi từ sự lạm quyền gọi tham nhũng. Như vậy tham nhũng là sản phẩm của xã hội có nhà nước. Nó là một hình thức tha hóa (biến dạng) của quyền lực nhà nước (ban đầu do nhân dân ủy quyền).
Tuy vậy, trong mỗi chế độ nhà nước ở các quốc gia khác nhau thì tính chất và mức độ tham nhũng có khác nhau.
* Chế độ Đảng Cộng sản cai trị đang là tấm khiên che đỡ cho sự tha hóa quyền lực và tham nhũng.
Sự ra đời của nhà nước pháp quyền là thành quả văn minh hóa tổ chức và hoạt động của nhà nước, chống lại sự tha hóa quyền lực nhà nước và đó là một phương thức quan trọng để chống tham nhũng.
Nhưng đừng ảo tưởng rằng cứ xây dựng nhà nước pháp quyền là sẽ đẩy lùi được sự tha hóa quyền lực và tham nhũng.
Ở nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Việt Nam còn có một thứ “siêu quyền lực”, đứng trên cả Hiến pháp và pháp luật. Một mặt, theo điều 16 chương 2 Hiến pháp 2013 thì “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”. Nhưng mặt khác, theo Điều 4 chương 1 Hiến pháp thì “ĐCSVN lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện”. Với đặc quyền đó của Đảng, ngay từ những năm 90 của thế kỷ trước, Bộ Chính trị của ĐCSVN đã ban hành các Chỉ thị số 68, Chỉ thị số 86, rồi sang năm 2000 có Chỉ thị số 52, năm 2007 Có chỉ thị số 15, nhân danh bảo vệ Đảng, buộc các ngành tư pháp (Công an, Kiểm sát, Tòa án) trước khi khởi tố, điều tra, xử lý đảng viên của Đảng phạm tội, phải báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của cấp ủy Đảng đang quản lý đảng viên đó. Ông Trọng lại cảnh cáo “ném chuột nhưng không được để vỡ bình”. Do đó, đã từ lâu, ở Việt Nam, sự tha hóa quyền lực và tham nhũng đã trở thành một hệ thống tự bảo vệ vững chắc.
Ở các quốc gia cộng sản, những đảng viên cộng sản trong bộ máy nhà nước, từ cấp phường xã đến cấp trung ương đã trở thành tầng lớp thống trị, có những đặc quyền khác với dân thường. Trừ những vua, chúa ở các triều đại phong kiến tập quyền và những nhà cầm quyền độc tài như Gadaffi ở Lybia, những nhà lãnh đạo ham hố quyền lực nhất, gắn liền với sự chuyên chính hà khắc và sự suy thoái của quốc gia, thường thấy ở các quốc gia cộng sản, như Brezhnev ở Liên Xô [3] và Lê Duẩn ở Việt Nam [4]. Vì thế, trong lịch sử thế giới hiện đại, nhiều cuộc đấu tranh chống tha hóa quyền lực nhà nước và chống tham nhũng đã diễn ra ở nhiều nước, thường gắn liền với chống chế độ chuyên chế, chống nhà cầm quyền và đỉnh cao là những cuộc khởi nghĩa của nhân dân. Như vậy, muốn tìm cách chống sự tha hóa quyền lực và tham nhũng thì phải nghiên cứu về cách tổ chức và vận hành nhà nước ở từng quốc gia cụ thể.
2. Từ bỏ mục đích chiếm đoạt quyền lực nhà nước và dùng quyền lực để cướp bóc chiếm đoạt, trong học thuyết của Marx
Trong lịch sử văn hóa của nhân loại, tư tưởng của Karl Marx [1] đến nay vẫn còn một vị trí xứng đáng, với giá trị viễn tưởng, hứa hẹn trên bình diện nhân văn. Một phần của Marx và bức tượng bán thân của Marx tại Nghĩa trang Highgate, phía bắc London, thủ đô nước Anh, quốc gia tư bản chủ nghĩa phát triển sớm nhất thế giới, vẫn có nhiều người trên thế giới đến thăm viếng. Marx đã có những tác phẩm nổi tiếng thế giới, trong đó phải kể đến bộ Tư bản và Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (do Marx và Engels đồng tác giả). Đó là những tác phẩm vừa uyên bác, vừa ảo tưởng, mang theo mầm mống tư tưởng độc hại cho nhiều thế hệ. Marx đã có một số phê phán đúng về mặt tiêu cực của chủ nghĩa tư bản nhưng ông đã hoàn toàn sai khi tiên đoán về chủ nghĩa cộng sản. Các ý tưởng của ông về tương lai của loài người đã bị biến hóa, gây ra những hậu quả khủng khiếp cho loài người trong thế kỷ vừa qua.
Trong phần 1 của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Marx đã đơn giản hóa các mối quan hệ xã hội và cho rằng xã hội mà ông đang chứng kiến chỉ có 2 giai cấp lớn, hoàn toàn đối lập nhau là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Marx đã hết lời ca ngợi giai cấp tư sản. Rằng giai cấp tư sản đã đóng một vai trò hết sức quan trọng trong lịch sử loài người. Chỉ chưa đầy một thế kỷ, giai cấp này đã tạo ra lực lượng sản xuất nhiều hơn, đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại. Rằng giai cấp tư sản luôn luôn cách mạng hóa công cụ sản xuất, dẫn đến cách mạng hóa toàn bộ những mối quan hệ xã hội. Rằng giai cấp tư sản đã làm cho sản xuất và tiêu dùng trong tất cả các nước mang tính chất thế giới. Những thành quả hoạt động tinh thần của một dân tộc trở thành tài sản chung của tất cả các dân tộc. Giai cấp tư sản đã lôi cuốn tất cả các dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn minh. Một bộ phận lớn dân cư đã thoát khỏi vòng ngu muội của đời sống thôn dã.
Mặt khác từ sự cảm thông với nỗi nghèo khổ của tầng lớp thợ thuyền ở thời kỳ chủ nghĩa tư bản sơ khai trong thế kỷ thứ 19, Marx đã kêu gọi giai cấp vô sản lật đổ giai cấp tư sản.
Cũng trong phần 1 của Tuyên ngôn, Marx kêu gọi giai cấp vô sản thành lập sự thống trị của mình bằng cách dùng bạo lực lật đổ giai cấp tư sản.
Trong phần 2 của Tuyên ngôn, Marx nói toạc ra rằng mục đích trước mắt của những người cộng sản là tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản và giai cấp vô sản giành chính quyền. Marx viết: Những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất là “xóa bỏ chế độ tư hữu”. Những người vô sản không có tài sản. Họ chẳng có gì là của mình để bảo vệ cả. Họ phải phá hủy hết thảy những cái gì đang đảm bảo và bảo vệ chế độ tư hữu.
Trong phần 4 của Tuyên ngôn, để tập họp lực lượng, cổ vũ những người cộng sản và giai cấp vô sản lao vào cuộc cách mạng vô sản, dùng bạo lực đổ máu để giành chính quyền từ tay giai cấp tư sản, Marx kích động: “Những người cộng sản coi là điều đáng khinh bỉ, nếu họ không công khai tuyên bố rằng mục đích nhằm đến vấn đề cơ bản của phong trào cách mạng chống lại giai cấp tư sản là vấn đề chế độ sở hữu. Mục đích đó chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện hành bằng một cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản chẳng mất gì hết ngoài xiềng xích và họ sẽ giành được cả thế giới”.
Năm 1888 Quốc tế ca ra đời [2], càng tăng thêm tính kích động cho lời cổ vũ của Marx về cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa, đã được dịch lời sang tiếng Việt: “Đấu tranh này là trận cuối cùng… Bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình…”. Những lời kích động, cổ vũ của Marx trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và trong Quốc tế ca đã trở thành động lực, gắn kết các đặc quyền của tầng lớp thống trị, xuất thân từ các đảng viên cộng sản với Đảng. Họ trung thành với Đảng vì họ được hưởng những đặc quyền này, và do đó ham hố quyền lực nhà nước, khó rời bỏ quyền lực nhà nước, khó tránh được sự tha hóa quyền lực và tham nhũng. Chống tham nhũng là khó khăn vì triệt để chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước cộng sản sẽ dẫn đến triệt tiêu động lực này. Từ bỏ động lực này do Marx đã thiết kế hay chấp nhận tự sụp đổ. Đảng Cộng sản Liên Xô đã có câu trả lời vào năm 1991. Nay đến lượt Đảng của ông Hoàng phải tự trả lời.
3. Từ bỏ những nọc độc của chủ nghĩa Marx ở giai đoạn Lenin
34 năm sau khi Marx mất, một người Nga là Vladimir Illych Lenin đã kế thừa Marx, lãnh đạo thành công cuộc cách mạng vô sản vào tháng 10 năm 1917 ở Nga (theo lịch Nga Julius), lật đổ chính phủ dân chủ tư sản Kerensky, thành lập chính quyền Xô Viết, đưa Đảng Cộng sản Bolshevik lên nắm chính quyền, để xây dựng chủ nghĩa cộng sản hiện thực ở nước Nga (và sau này ở Liên Xô). Từ đó Chủ nghĩa Marx đã gắn liền với quyền lực chính trị.
Lênin không được thế giới coi là một nhà triết học như Marx nhưng trong phong trào cộng sản, ông được coi là một nhà tư tưởng lớn. Ông cho rằng mọi vấn đề triết học cơ bản đã được Marx và Engels giải quyết rồi. Lý luận của Lênin nhằm vào việc chỉ ra tính Đảng trong triết học Mác, gắn liền với cương lĩnh chính trị và ý tưởng về một đảng cách mạng trên con đường giành quyền lực và thực thi quyền lực. Học thuyết Marx thời kỳ Lênin về cơ bản là chính trị. Trong những sáng tạo lý luận của Lênin có 2 luận điểm quan trọng và là 2 nọc độc giết người:
– Một là “Luận điểm về tính Đảng và tính giai cấp trong mọi hoạt động đời sống xã hội”. Lênin cho rằng mọi hiện tượng xã hội đều mang theo tính Đảng và tính giai cấp. Luận điểm này có 1 công thức để xác định chân lý là: cái gì có lợi cho cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đều là chính nghĩa, có hại cho cuộc đấu tranh đó đều là phi nghĩa. Luận điểm này được coi là “sợi chỉ đỏ “xuyên suốt tư tưởng của Lênin. Luận điểm đó mang tính vị lợi, đã đem lại nhiều tai họa đối với hiện thực cuộc sống ở các quốc gia cộng sản. Theo luận điểm này, chân lý được diễn giải vô nguyên tắc, miễn sao phù hợp với lợi ích trước mắt của phong trào, không có gì làm cơ sở để đánh giá đúng hay sai, đã bị các nhà cầm quyền lợi dụng quy kết kẻ thù bừa bãi nhằm triệt hạ đối thủ.
Ở Liên Xô, Stalin đã lợi dụng luận điểm này để quy tội hàng triệu người bất đồng chính kiến với ông ta là kẻ thù của nhân dân, thủ tiêu không cần xét xử. Ở Việt Nam, hàng chục ngàn người đã bị quy tội oan và bị giết trong cuộc cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức ở miền Bắc vào những năm 1953-1956, với khẩu hiệu “thà giết nhầm còn hơn bỏ sót” và hàng trăm người đã bị đàn áp trong phong trào Nhân văn Giai phẩm và trong Vụ án Xét lại.
– Một sáng tạo lý luận thứ hai của Lênin là khái niệm “chuyên chính vô sản”. Ông định nghĩa chuyên chính vô sản là chức năng của nhà nước vô sản sau khi giành được chính quyền, xây dựng chủ nghĩa cộng sản hiện thực ở Nga. Đó là trấn áp tất cả những người bị quy tội là phản cách mạng (kể cả đối với những nông dân chống lại tập thể hóa nông nghiệp). Điểm đặc trưng của khái niệm chuyên chính vô sản là sự cưỡng bức và trấn áp mà không phụ thuộc vào bất kỳ quy tắc pháp luật hay giới hạn đạo đức, tôn giáo nào và đặc biệt đề cao sự “trấn áp kẻ thù tư tưởng”, phải tẩy não. Lênin đề cao sự tàn bạo của anh em Robespierre và những người Jacobins [5], cùng với “Triều đại khủng bố” của Robespierre trong cách mạng Pháp 1789. Ông cho rằng sự khủng bố và sự hy sinh to lớn về nhân mạng là sự cần thiết tất yếu của các cuộc cách mạng vô sản.
Tại trường Đại học Sveclov ngày 11/7/1919, Lênin giảng về chuyên chính vô sản như sau: “Chúng ta vứt bỏ quan niệm cho rằng nhà nước là chính quyền của toàn dân. Chúng ta cũng vứt bỏ quan niệm cho rằng nhà nước là sự bình đẳng cho mọi người”. Trong phần 7 bài “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô Viết”, Lênin viết: Trong tất cả mọi bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản thì chuyên chính là tất yếu, phải có nhà nước, phải có cưỡng bức, phải có bàn tay sắt. Giữa nền dân chủ xô viết tức nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và việc dùng đến độc tài cá nhân tuyệt đối không có sự mâu thuẫn nào về nguyên tắc. Người thực hiện chuyên chính vô sản cũng thông qua những cá nhân, để ý chí của hàng ngàn người phải phục tùng ý chí của một người, của nhà độc tài, nhà lãnh đạo Xô viết”.
Stalin đã áp dụng triệt để bài giảng này và ông ta trở thành một lãnh tụ cộng sản độc tài khét tiếng ở Liên Xô và thế giới.
Để bảo vệ luận điểm “tính Đảng” và “chuyên chính vô sản”, Lênin chỉ chấp nhận tính nhất nguyên chứ không chấp nhận tính đa nguyên. Ông nói: chỉ có một lựa chọn duy nhất, hoặc là hệ tư tưởng tư sản, hoặc là hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, không có con đường ở giữa, không có hệ tư tường phi giai cấp. Nhất quyết không chia sẻ quyền lực với bất kỳ một tồ chức chính trị-xã hội nào khác, các nhà tuyên giáo của ĐCSVN, trong đó có Nhị Lê cũng ra sức bảo vệ tính nhất nguyên trong đường lối chính sách của Đảng. Đây là một nhận thức lý luận phản khoa học. Đa nguyên, theo nghĩa tổng quát là sự xác nhận và chấp nhận tính đa dạng trong chính trị cũng như trong khoa học và đây là nột yếu tố quan trọng cho tiến bộ khoa học. Trong triết học, đa nguyên luận thừa nhận sự tồn tại của nhiều nguyên thể khác biệt, độc lập với nhau trong thế giới. Thế giới được hợp thành bởi nhiều bản nguyên. Trong kinh tế-chính trị, học thuyết đa nguyên cho rằng cần có nhiều lực lượng chính trị, nhiều Đảng phái trong một quốc gia, nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và đua tranh với nhau, không có thành phần kinh tế chủ đạo.
Chủ nghĩa Marx ở thời Lênin đã được Lênin hiệu chỉnh và làm biến dạng khá nhiều và gọi là Chủ nghĩa Mác-Lênin. Các đời Tổng bí thư của ĐCSVN đều triệt để thực hành 2 luận điểm về “tính Đảng” và “chuyên chính vô sản” của Lênin, gây nên nhiều oán hận trong lòng dân. Điều này giải thích vì sao hầu hết mọi người dân đều dửng dưng, thậm chí có người còn hoan hỉ khi nghe tin Bí thư tỉnh ủy và Trưởng ban tổ chức tỉnh ủy Yên Bái của ĐCSVN bị giết vào ngày 18/8/2016.
4. Từ bỏ ảo tưởng về chủ nghĩa cộng sản trong học thuyết của Marx
* Lênin đã thừa nhận thất bại của mô hình kinh tế của chủ nghĩa cộng sản hiện thực.
Tuân theo chỉ dẫn trong học thuyết của Marx, sau khi giành được chính quyền, Lênin đã tịch thu toàn bộ tài sản (ngân hàng, xí nghiệp, hầm mỏ, phương tiện vận tải …) của giai cấp tư sản và của Nga hoàng, thành lập chính quyền Xô Viết và các ủy ban tự quản của công nhân để quản lý các xí nghiệp, hầm mỏ và các cơ sở kinh tế khác đã được quốc hữu hóa. Sau 3 năm nội chiến, năm 1920 Lênin trực tiếp thiết kế và lãnh đạo thực hiện mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản, với 3 nội dung cơ bản: “Công nghiệp hóa và điện khí hóa – Tập thể hóa nông nghiệp – Kế hoạch hóa tập trung trên phạm vi toàn Liên Xô và trên cơ sở chế độ sở hữu công cộng”. Nhưng chỉ mới bắt đầu thực hiện ít lâu, ông đã nhận ra sự thất bại không thể tránh khỏi của mô hình này. Chế độ công hữu trên quy mô toàn quốc dẫn đến tình trạng vô trách nhiệm và triệt tiêu sáng kiến cá nhân. Kế hoạch hóa tập trung trên quy mô toàn quốc đẻ ra vô vàn ách tắc trong quá trình vận hành. Hợp tác hóa nông nghiệp làm nông dân bất mãn, sản lượng lương thực sa sút thảm hại. Cuối cùng, điều mà Lênin mong muốn năng xuất lao động của chế độ mới phải cao hơn năng xuất lao động của chế độ cũ trở thành ảo tưởng. Giai cấp vô sản Nga ngày hôm qua, như Marx nhận xét là những người không có gì để mất, là lực lượng cách mạng nhất, đã giúp Lênin thành công trong cuộc cách mạng vô sản thì hôm nay trở thành giai cấp nắm chính quyền, thống trị xã hội. Họ ít được học, không có kiến thức và kinh nghiệm quản lý nền kinh tế. Tình trạng đưa đẩy trách nhiệm, quan liêu, tham nhũng nảy sinh và phát triển ngay trong hàng ngũ những người cộng sản, dần dần trở nên nghiêm trọng đến mức Lênin phải dùng đến hình phạt xử bắn và viết công khai trên báo kịch liệt phê phán những kẻ đặc quyền đặc lợi trong hàng ngũ của Đảng. Ông đã từng viết (trong Tuyển tập Lenin) rằng “sẵn sàng đổi một tá những người cộng sản lấy một chuyên gia tư sản thạo việc”. Trong Tuyển tập Lênin, tập 45, trang 95, ngay từ khi đó ông đã cảnh báo các đảng viên về sự sụp đổ của Liên Xô: “Từ nay, hoặc là chúng ta chứng minh được rằng chúng ta có khả năng làm việc, hoặc chính quyền xô viết không tồn tại nữa”. Sau thất bại này Lênin đã tỉnh ngộ. Ông đưa nền kinh tế chuyển hướng sang “chính sách kinh tế mới” thường viết tắt là NEP. Việc chuyển hướng sang NEP, mời gọi đầu tư từ những nước tư bản là dấu hiệu đầu tiên báo hiệu sự khủng hoảng của chủ nghĩa cộng sản trong học thuyết của Marx. Ở nước CHNDTH và CHXHCNVN, sau khi Đảng Cộng sản lên cầm quyền, thực hiện giáo huấn của Marx xây dựng chủ nghĩa cộng sản, tình hình cũng diễn ra tương tự.
* Phong trào cộng sản đã đi hết vòng đời của nó
Phong trào cộng sản được Marx và Engels khai sinh trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản năm 1848. Từ năm 1917 đến trước Thế chiến 2 có 16 quốc gia cộng sản ra đời, trong đó phần lớn thuộc Liên bang Xô Viết. Sau thế chiến 2 có thêm 16 quốc gia cộng sản ở Đông Âu ra đời. Cùng thời gian này có 16 quốc gia cộng sản ở Châu Á và Châu Phi ra đời. Tổng cộng là 47 nước. Năm 1957 và năm 1960 là những năm cực thịnh của phong trào cộng sản. Năm 1957 có Đại hội 68 Đảng Cộng sản (kể cả những đảng chưa nắm chính quyền) họp ở Moskva thông qua 9 nguyên lý xây dựng chủ nghĩa xã hội do Stalin khởi xướng. Năm 1960 lại có 81 Đảng Cộng sản họp ở Moskva. Nhưng từ năm 1953 đã có dấu hiệu thoái trào của phong trào cộng sản, bắt đầu từ Đông Đức, đột biến suy yếu vào cuối năm 1989 khi bức tường Berlin sụp đổ và tan rã vào năm 1991 khi ĐCSLX bị giải thể, với tuổi thọ của phong trào là 143 năm (1848-1991). Giải thích nguyên nhân phong trào cộng sản sụp đổ nhanh hàng loạt như vậy, nhà bác học hạt nhân Liên Xô Sakharov đã từng bị Brezhnev bỏ tù, nói ngắn gọn: “Cốt lõi của vấn đề mô hình nhà nước xô viết hiện hữu không tồn tại là do nó không tôn trọng con người”.
Sau năm 1991, chỉ tồn tại một số quốc gia cộng sản là CHNDTH, CHXHCNVN, Bắc Triều Tiên, Cuba và Lào. Nhưng không quốc gia nào trong số này còn thực sự trung thành với Chủ nghĩa Mác-Lenin. Ở Bắc Triều Tiên, hệ tư tưởng chính thức của nhà nước là “Tư tưởng chủ thể” (Juche), đã ghi trong Hiến pháp sửa đổi năm 1972, thay thế Chủ nghĩa Mác-Lênin. Ở nước CHNDTH, từ thời Mao, ĐCSTQ với phương châm “vừa đi vừa tìm đường, sai thì sửa”, đã 5 lần thay Chủ nghĩa Mác-Lênin bằng hệ tư tưởng riêng của Đảng này. Thời Mao có “Cương lĩnh 3 ngọn cờ hồng”. Thời Đặng Tiểu Bình có “Thuyết mèo trắng mèo đen”. Thời Giang Trạch Dân có “Thuyết 3 đại diện”. Thời Hồ Cẩm Đào có “Tư tưởng phát triển khoa học, với khẩu hiệu Tam Siêu”. Thời Tập Cận Bình có “Thuyết 4 toàn diện”.
Đáng chú ý là Thuyết 3 đại diện của Giang Trạch Dân, ra đời từ Đại hội của ĐCSTQ lần thứ 16 năm 2002 và đã đưa vào Điều lệ Đảng từ năm 2004. Theo Thuyết 3 đại diện thì thế giới đang ở thời kỳ hậu công nghiệp, nhân loại đang bước vào nền kinh tế trí thức, giai cấp công nhân không còn là lực lượng sản xuất tiên tiến nữa.Thuyết này bác bỏ quan điểm cho rằng Đảng Cộng sản là đội tiền phong của giai cấp công nhân, có sứ mệnh lịch sử là đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản, thành lập nhà nước chuyên chính vô sản. Thuyết 3 đại diện cho rằng ngày nay ĐCSTQ là đảng cầm quyền, phải đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến. Kinh tế tư nhân đóng vai trò chủ đạo. Nền kinh tế được chi phối theo kinh tế thị trường. Trí thức và doanh nhân (tức là nhà tư sản) đóng vai trò lực lượng sản xuất tiên tiến.
Tại CHXHCNVN, chương trình cải cách kinh tế đã được thực hiện tròn 30 năm (1986-2016), kể từ sau Đại hội 6 của ĐCSVN vào năm 1986, được cho là bắt chước chính sách kinh tế mới (NEP) của Lênin. Trước đây Đảng làm theo Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, đánh tư sản, xóa bỏ thành phần kinh tế tư bản tư nhân thì nay Đảng làm ngược lại, công nhận thành phần kinh tế tư nhân, vinh danh các doanh nhân làm ăn giỏi (tức là nhà tư sản dân tộc mà Marx gọi là kẻ thù của giai cấp vô sản), cổ phần hóa nhiều cơ sở kinh tế quốc doanh. Như vậy là Đảng đang sửa chữa sai lầm trong học thuyết Marx về chủ nghĩa cộng sản nhưng Đảng lại lừa bịp cả giai cấp vô sản, gọi đó là “Đổi mới”.
Tại nước Cộng hòa Pháp, quê hương của Công xã Paris và Đại hội Tours là nơi Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu gia nhập Đệ tam quốc tế vào năm 1920 thì vào tháng 2 năm 2013, tại Đại hội lần thứ 36, Đảng Cộng sản Pháp đã quyết định bỏ biểu tượng búa liềm tượng trưng cho nền chuyên chính vô sản trên thẻ Đảng. Sau đó, Đảng Cộng sản Pháp cùng với hầu hết các Đảng Cộng sản Châu Âu theo chủ nghĩa Mac-Lenin đã chuyển sang trào lưu cộng sản Eurocommunism, có lập trường gần gũi với lập trường của phong trào dân chủ xã hội.
* Hiện nay không có cơ sở xã hội để ra đời Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản lần thứ hai.
Ở các quốc gia tư bản Phương Tây, giai cấp vô sản mà Marx quan sát trong thế kỷ 19 đến nay còn không tới tỉ lệ 10% trong cơ cấu lao động xã hội. Mức thu nhập và đời sống vật chất, tinh thần của công nhân đã được nâng cao. Ví dụ ở thành phố Limoges, vùng miền núi Limosine, phía tây nước Pháp là nơi ra đời ngành sản xuất đồ gốm của Pháp ở quy mô công nghiệp, có tên là Thành phố đỏ (La ville rouge), vì ở đây đã nổ ra cuộc bãi công đầu tiên của công nhân ngành gốm vào năm 1906. Ngày nay thành phố này có 263.000 người, 6 trường đại học với khoảng 20.000 sinh viên, 3 zone công nghiệp, 1789 căn hộ của thành phố cho những người thu nhập thấp ở không phải trả tiền thuê, 15.649 căn hộ thuộc diện xã hội hóa. Mức thu nhập bình quân của một hộ gia đình 3 người năm 2010 là 16.792 euros (tương đương 422 triệu VNĐ theo tỷ giá hiện tại). Thử hỏi họ xem họ có muốn đập phá cho tan tành cuộc sống như vậy không.
Dân số thế giới ngày 01/01/2016 đã là 7,3 tỉ người. Dân số Việt Nam đã trên 90 triệu người. Loài người đang thiếu nước ngọt để sinh hoạt. Nguồn nhiên liệu hóa thạch sắp cạn kiệt. Nhiều quốc gia đang tranh giành Biển Đông để khai thác nguồn nhiên liệu “băng cháy” dưới đáy biển. Ở Việt Nam, do không còn lũ và bị hạn hán, vựa lúa tại đồng bằng sông MeKong đang có nguy cơ bị thu hẹp dần. Loài người đã trải qua 3 cuộc cách mạng công nghiệp để thoát khỏi đời sống nguyên thủy man rợ, ăn ở trong hang động, hái lượm, săn bắn thú hoang, tự cung tự cấp và hình thành được nền kinh tế trí thức cùng với đời sống hiện đại, sung túc, văn minh như ngày nay. Nếu thực hiện chủ nghĩa cộng sản như Marx giáo huấn trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản thì phải xóa bỏ tư hữu, tức là xóa bỏ động lực làm giàu cho bản thân và xã hội, san bằng cái nghèo đồng đều cho mọi người, cũng tức là xóa bỏ nền tảng của nền kinh tế trí thức. Như vậy lấy gì để thực hiện ước mơ “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” mà Marx nghĩ ra?
Khi bàn về triết học duy vật, chính Lênin nói: “Thực tiễn là cơ sở nguồn gốc và tiêu chuẩn chân lý của nhận thức nơi con người”. Thế thì thực tiễn đã chứng minh chủ nghĩa cộng sản trong học thuyết Marx chỉ còn là một bóng ma của lịch sử không thể phục sinh. Có lẽ chỉ những người bị bệnh tâm thần, những trí thức lưu manh bất tâm, bất tài, bị tẩy não quá nặng đến mức không thể giải độc được mới còn ảo tưởng về chủ nghĩa cộng sản đã được mô tả trong học thuyết Marx.
5 Tại sao ông Trọng không dám mô tả hình dạng cái xã hội chủ nghĩa do ông định hướng?
Trong quá khứ đã từng có gần 100 quốc gia tự nhận là nước xã hội chủ nghĩa, có mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng hơn so với xã hội tư bản, nhưng giữa họ có rất nhiều điểm khác biệt về quan điểm, cách thức cải tạo chủ nghĩa tư bản, mô hình nhà nước, vai trò nhà nước đối với nền kinh tế, mô hình quản lý sản xuất. Tên gọi của các nước này cũng khác nhau. Không có một tiêu chí chung. Có những nước theo Chủ nghĩa Mác-Lenin, do Đảng Cộng sản độc quyền lãnh đạo và cầm quyền. Có những nước không theo Chủ nghĩa Mác-Lenin, chẳng hạn Cộng hòa Ả rập Ai Cập, Cộng hòa nhân dân Bangladesh, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa dân chủ Srilanka…
Trên thế giới hiện có 2 trường phái chủ nghĩa xã hội cơ bản là chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội dân chủ, đều ra đời từ thế kỷ thứ 19. Khi còn sống, Marx chỉ nói đến chủ nghĩa cộng sản, ít nói đến chủ nghĩa xã hội. Thuật ngữ “Chủ nghĩa xã hội” do Lênin nêu ra, coi đó là giai đoạn chuyển tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.
Theo học thuyết của Marx, chủ nghĩa cộng sản chỉ có thể đạt được thông qua một cuộc cách mạng vô sản, thiết lập một xã hội không có giai cấp, không có nhà nước, không có áp bức. Việc sản xuất và phân phối của cải tuân theo nguyên tắc
“Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”, còn trong giai đoạn chủ nghĩa xã hội thì nguyên tắc phân phối của cải là “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Marx chưa bao giờ mô tả chi tiết chủ nghĩa cộng sản sẽ thực hành như thế nào trong vai trò một hệ thống kinh tế, nhưng trong phần 2 của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Marx và Engels viết: “Mục đích trước mắt của những người cộng sản là lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản và giai cấp vô sản giành chính quyền, xóa bỏ chế độ tư hữu. Giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, dùng sự thống trị đó từng bước tước đoạt toàn bộ tư bản từ tay giai cấp tư sản, tập trung các công cụ sản xuất trong tay nhà nước, tập trung tín dụng vào tay nhà nước, tước đoạt sở hữu ruộng đất, nộp tô vào quỹ nhà nước”. Từ đó những người cộng sản ngầm hiểu là nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa sẽ bao gồm sự sở hữu công cộng đối với các tư liệu sản xuất và trong tư tưởng của Lênin thì sự triệt tiêu chủ nghĩa tư bản tư nhân là một tiêu chuẩn chủ yếu của chủ nghĩa xã hội. Theo Lênin, chỉ có sở hữu nhà nước và sở hữu hợp tác xã mới được công nhận là sở hữu xã hội chủ nghĩa. Nhưng Lênin và những người Bolshevik đã thất bại nên chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội chỉ còn là cái bóng ma của lịch sử.
ĐCSVN là Đảng độc quyền lãnh đạo và cầm quyền. Ông Trọng không thể mô tả hình dạng cái xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà ông định hướng giống như xã hội của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa dân chủ Srilanka vì ở đó không có sự cai trị độc quyền của Đảng Cộng sản. Ông trung thành với Chủ nghĩa Mác-Lenin nên ông chỉ có thể giải thích chủ nghĩa xã hội như Lênin giải thích, rằng đó là giai đoạn chuyển tiếp đến chủ nghĩa cộng sản, rồi trở thành một bóng ma của lịch sử. Vậy thì sự tồn tại của ĐCSVN là vô cùng phi lý. Xem ra không ổn. Ông phải giải thích lấp lửng rằng cái xã hội mà ông hướng tới là “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ công bằng, văn minh”. Giải thích như thế cũng chưa xuôi, vì đã loay hoay suốt 30 năm “Đổi mới” mà hiện tại và tương lai của Việt Nam đang rất u tối. Người ta chê ông và Đảng Cộng sản của ông kém cỏi, nên từ bỏ quyền lực, vì không sao dẫn dắt được toàn dân đến gần cái ngưỡng dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh mà các quốc gia Bắc Âu, là các nước theo chủ nghĩa xã hội dân chủ và thuyết đa nguyên, đã đạt được, Ông và Đảng của ông đang bế tắc về lý luận, thiếu tự tin nên ông chỉ còn có thể dựa vào quốc sách tảy não người dân và bộ máy chuyên chính trấn áp, rồi than thở không biết đến hết thế kỷ này có đạt đến cái xã hội chủ nghĩa mà ông định hướng hay không.
6. Chuyển đổi sang chủ nghĩa xã hội dân chủ và đa nguyên theo mô hình Bắc Âu là lối thoát danh dự của ĐCSVN
Loài người, trong đó có Việt Nam đang phải chuẩn bị làm chủ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong thế kỷ thứ 21 này, với đặc trưng của nó là công nghệ về Trí khôn nhân tạo (Artifical intelligence), Rô-bốt hóa, Tự động hóa các quy trình, Dữ liệu lớn (big data), Điện thoại di động, Công nghệ in 3D.
Cuộc cách mạng công nghiệp này sẽ đem lại cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực đối với đời sống chính trị và xã hội của tất cả các quốc gia, không kể là quốc gia tư bản hay đang là quốc gia cộng sản. Đây là kết quả của sự sáng tạo của con người đã được giải phóng, là kỷ nguyên mới của đầu tư. Mặt tích cực của nó là năng xuất và mức sống của con người sẽ được gia tăng. Nhưng theo RFI ngày 30/8/2016, chi phí đầu tư cho tự động hóa ngày càng rẻ. Năng xuất sẽ tăng lên sau khi Robot hóa hoặc tự động hóa quy trình và sự phát triển công nghệ in 3D. Tỉ lệ sai sót sẽ giảm đi. Giá thành Robot đang có xu hướng ngày càng rẻ hơn nhân công, do đó máy móc sẽ thay thế người, dẫn đến thất nghiệp hàng loạt. Đồng thời, đang tạo ra xu hướng các nước đầu tư công nghệ cao ra nước ngoài sẽ đưa các công xưởng của họ ở nước ngoài về chính quốc và giảm sự quan tâm đến xuất khẩu công nghệ ra nước ngoài. Sự kêu gọi đầu tư từ nước ngoài sẽ ngày càng trở nên khó thực hiện. Điều này dẫn đến nhu cầu nhân lực, kể cả nhân lực giá rẻ ở các nước kém phát triển như Việt Nam sẽ giảm đi. Hậu quả là nạn thất nghiệp sẽ xảy ra hàng loạt.
Theo số liệu của Bộ Lao động và TBXH Việt Nam, số người trong độ tuổi lao động đang bị thất nghiệp là 1,07 triệu người, trong đó có 155.000 người đã được đào tạo kỹ thuật từ bậc cử nhân trở lên. Nạn thất nghiệp tăng thêm hàng loạt sẽ tạo ra những bất ổn, loạn lạc trong xã hội, đặc biệt đối với Việt Nam là quốc gia có hệ thống an sinh xã hội yếu kém.
Từ khi loài người bước ra khỏi nền kinh tế tự cung tự cấp, có dư thừa của cải để trao đổi buôn bán, luôn luôn phải giải quyết tốt cặp bài trùng là thúc đẩy sự sáng tạo của con người, để tăng thêm của cải vật chất và tinh thần cho bản thân và xã hội, đồng thời điều chỉnh khoảng cách bất bình đẳng thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, bằng một mô hình kinh tế- xã hội phù hợp, không để tự phát xảy ra phong trào phá hoại máy móc như đã từng xảy ra phong trào Luddites ở nước Anh thế kỷ 19, cũng không phải là xóa bỏ chế độ tư hữu như Marx kêu gọi trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản.
Nguồn gốc sự thịnh vượng của thế giới hiện đại, xét cho cùng không phải từ nguồn đánh cắp từ người lao động như Marx buộc tội. Tư bản và nền pháp trị đều cần cho sự thịnh vượng nhưng cái cần hơn cả là sự tự do – con người được giải phóng trở nên khôn ngoan và sáng tạo, cộng với sự bình đẳng trước pháp luật và bình đằng về phẩm giá xã hội. Vì vậy, kinh tế thị trường và một “Nhà nước đổi mới” có khả năng điều hòa giữa lợi ích và các động cơ thúc đẩy đầu tư là 2 điều không thể thiếu, để thích ứng với cuộc cách mang công nghiệp lần thứ tư này.
Nhà nước đổi mới đó chắc chắn không phải là thứ nhà nước chuyên chính vô sàn theo chế độ cai trị tuyệt đối và toàn diện của Đảng Cộng sản, thường gọi tắt là “chế độ Đảng trị”, là nguồn gốc đẻ ra và bảo kê cho sự tha hóa quyền lực và tham nhũng. Chế độ Đảng trị cùng với chính sách cán bộ “con ông cháu cha “và chính sách tẩy não (Brainwashing) của ĐCSVN đã đưa đến tình trạng “Hiền tài ẩn dật hoặc rũ áo ra đi, Nguyên khí quốc gia không thể hội tụ”, nên không thể chấn hưng đất nước. Hậu quả là hiên nay theo công bố của Bộ Giáo dục – Đào tạo, Việt Nam đã có 24.000 tiến sĩ, một con số cao nhất Đông Nam Á nhưng chưa có một loại sản phẩm chế tạo nào của Việt Nam có hàm lượng trí thức cao và có giá trị gia tăng cao được gắn thương hiệu xuất khẩu và thế giới chấp nhận, vì thế đất nước vẫn luẩn quẩn trong cái bẫy thu nhập trung bình.
Nhà nước đổi mới đó phải là nhà nước có đạo đức chính trị, vì như Tourqueville [6] thì “không có một nhà nước nào mà luật pháp đủ sức tiên liệu tất cả mọi điều và ở đó các thiết chế thay thế được cho cả lý trí và tập tục. Trong Hiến pháp của các nước, người ta thấy có một điểm chung là ở đó, nhà lập pháp đã phải cầu viện đến lương tri con người và đạo đức công dân”. Một nhà nước như thế chỉ có thể tìm thấy ở những nhà nước theo học thuyết đa nguyên.
Trong thế kỷ 20, các nhà nước phúc lợi ở Bắc Âu, tiêu biểu là Thụy Điển đã làm được tốt vai trò như thế, Tuy nhiên nó chưa phải là hoàn hảo. Điểm yếu của nó là đòi hỏi chính sách đánh thuế cao mà không kích thích sự đầu tư bù đắp vào năng lực đổi mới. Họ đã rút ra được bài học từ thực tiễn và có khả năng sửa chữa chúng. Nó vẩn là một trong những nhà nước có nền quản trị tốt nhất thế giới, vẫn đang vận động và tiến hóa.
Theo bài báo của ông Hoàng ngày 22/9/2016 thì ĐCSVN đang đứng trước nguy cơ tự sụp đổ, gần giống như tình trạng suy thoái của ĐCSLX thời Brezhnev trước khi tự sụp đổ. Gorbachev thực tâm muốn hồi sinh hệ thống Liên Xô đang hấp hối. Gorbachev không muốn loại bỏ ĐCSLX. Ông muốn lái ĐCSLX theo hướng chủ nghĩa xã hội dân chủ. Ông muốn “Đảng sẽ có bộ mặt người”. Nhưng một số lớn bô lão cộng sản bảo thủ đang nắm đặc quyền đặc lợi, đầy quyền uy đã kịch liệt chống lại. Kết cục là ĐCSLX đã tự sụp đổ vào năm 1991. Đó là bài học mà Đảng của ông Hoàng nên học kỹ. Chuyển đổi sang chủ nghĩa xã hội dân chủ và đa nguyên là lối thoát trong danh dự của ĐCSVN, có thể được nhân dân chấp nhận, tránh được họa binh đao đổ máu và những đổ vỡ không cần thiết.
Hà Nội, 30.9.2016
L.V.N.
__________
Ghi chú:
[1]- Karl Heinrich Marx, tức Karl Marx là người Đức gốc Do Thái, sinh ngày 5/5/1818 tại Phổ, mất ngày 14/3/1883 tại London, thủ đô Vương quốc Anh. Những hoạt động chủ yếu của Marx diễn ra trong thập niên 1840, khi chủ nghĩa tư bản đang phát triển mạnh.
Trong các tác phẩm nổi tiếng của Marx phải kể đến bộ Tư bản (Das Kapital) đã công bố tập 1 vào năm 1867 và Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (Das Manifest der Kommunistischen Partei) công bố lần đầu tiên vào ngày 21/8/1848 tại Brussels nước Bỉ. Bộ Tư bản có 3 tập. Tập 1 được xuất bản khi Marx còn sống. Tập 2 và tập 3 do Engels hoàn thành và cho xuất bản. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản kêu gọi hành động cho một cuộc cách mạng vô sản lật đổ trật tự xã hội tư bản, mang lại xã hội cộng sản. Tuyên ngôn có 4 phần: 1. Tư sản và Vô sản; 2. Những người vô sản và những người cộng sản; 3. Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa; 4. Thái độ của những người cộng sản đối với các đảng đối lập.
Marx là đối thủ không đội trời chung với chủ nghĩa tư bản. Ông đã kêu gọi lật đổ chế độ tư bản. Chiểu theo Điều 79 Bộ luật Hình sự 1999 của Việt Nam là quốc gia dân chủ gấp vạn lần so với các quốc gia tư bản thì tội kêu gọi lật đổ chế độ của Marx phải nhận hình phạt tù giam từ 12 đến 20 năm, hoặc tù chung thân, hoặc bị tử hình. Nhưng nước Anh là cái nôi của chủ nghĩa tư bản vẫn bao dung ông, thậm chí cho phép dựng tượng của ông ngay tại thủ đô London, còn Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới.
[2]- Quốc tế ca do P. Degeyter, một người thợ khắc gỗ ở thành phố Lille nước Pháp sáng tác vào năm 1888, được Eugène Pottier phổ lời. Quốc tế ca được một người Nga dịch lời sang tiếng Nga và được dùng làm bài ca chính thức của ĐCSLX. Những người dịch lời Quốc tế ca sang tiếng Việt được cho là Nguyễn An Ninh, Nguyễn Ái Quốc, Trần Phú và lời đã được sửa nhiều lần.
[3]- Leonid Ilyich Brezhnev sinh ngày 01/2/1906 tại Ukraina. Trong số 8 lãnh tụ và Tổng Bí thư của ĐCSLX, trừ Stalin thì Brezhnev tham quyền Tổng Bí thư lâu nhất: 18 năm liền (1964-1982). Ông chết ngày 10/11/1982 trong khi còn tại vị, thọ 76 tuổi. Tên tuổi Brezhnev gắn liền với thời kỳ suy thoái của ĐCSLX và kinh tế trì trệ ở Liên Xô. Ông đã để lại 3 dấu ấn đậm trong lịch sử của ĐCSLX: 1. cuộc can thiệp quân sự vào Afghanistan năm 1979 và sa lầy suốt 10 năm với thương vong binh sĩ Liên Xô lên tới 15.000 người; 2. “Học thuyết Brezhnev” tự cho phép Liên Xô can thiệp quân sự vào nội tình các nước XHCN Đông Âu khi dân chúng nổi dậy; 3. “Hiến pháp Brezhnev” tức Hiến pháp Liên Xô 1977. Trong Hiến pháp Brezhnev có Điều 6 buộc mọi tổ chức nhà nước và xã hội ở Liên Xô phải tuân thủ sự lãnh đạo tuyệt đối của ĐCSLX, mục đích bảo vệ các đặc quyền của Đảng. Nhưng chính điều 6 Hiến pháp này đã gây ra phản tác dụng. Một số lớn đảng viên cộng sản, nhất là đảng viên ở cấp cao đã lợi dụng điều 6 Hiến pháp làm phương tiện tìm kiếm và bảo vệ các đặc quyền đặc lợi, làm giàu bất chính. Tình trạng tham nhũng, hối lộ được Đảng dung túng và phát triển, trở thành khối u ác tính ngay trên cơ thể của Đảng. Càng nhiều tuổi, Brezhnev càng ưa được sùng bái cá nhân. Ông có cả thảy 114 chiếc huân chương các loại. Trong những năm cuối đời, tuy đã già yếu, Brezhnev vẫn không chịu rời bỏ quyền lực. Người ta đã phải cáng ông trên thang máy, đưa ông lên Lăng Lê-nin, để ông dự cuộc diễu hành trước Quảng trường Đỏ.
Sau thời Brezhnev, Gorbachev lên làm Tổng bí thư muốn cải tổ và làm hồi sinh hệ thống Liên Xô đang hấp hối do Brezhnev để lại. Gorbachev thực tâm không muốn loại bỏ ĐCSLX. Ông muốn hướng ĐCSLX đi theo con đường chủ nghĩa xã hội dân chủ để Đảng mang bộ mặt người, nhưng ông đã thất bại, vì như Boris Yeltsin, sau khi rời bỏ ĐCSLX đã phải nói lên một sự thật là “Cộng sản không thể thay đổi mà phải đào thải”.
Theo ông Nguyễn Đình Lộc, nguyên Bộ trưởng Bộ tư Pháp thì Điều 4 của Hiến pháp Việt Nam 1992 và của Hiến pháp sửa đổi 2013 là bản sao Điều 6 Hiến pháp Brezhnev. Ông Nguyễn Phú Trọng đã từng nhận định Liên Xô tan rã có 1 nguyên nhân rất cơ bản là lúc ấy ĐCSLX đã bị tệ nạn quan liêu, tham nhũng, đặc quyền đặc lợi làm cho suy thoái, biến chất, nhưng do bản chất, đặc quyền đặc lợi, ĐCSVN vẫn không thể tránh được vết xe đổ của ĐCSLX.
[4]-Lê Duẩn tức Lê Văn Nhuận, sinh ngảy 7/4/1907 trong một gia đình nông dân ở Quảng Trị. Trước khi trở thành đảng viên cộng sản, ông học hết bậc tiểu học và 1 năm ở bậc trung học. Tính đến nay, trong số 11 Tổng Bí thư của ĐCSVN thì ông là người ham hố quyền lực nhất. Ông đã giữ chức Tổng Bí thư 25 năm liền và 303 ngày (1976-1986). Ông chết ngày 10/7/1986 khi đang tại vị, thọ 79 tuổi. Tên tuổi của Lê Duẩn gắn liền với cuộc nội chiến Bắc-Nam đẫm máu và thời kỳ kinh tế khủng hoảng sắp rơi xuống đáy vực trước năm 1986, lạm phát lên đến 700%, đời sống nhân dân cả nước vô cùng cực khổ. Trong thời gian cầm quyền, TBT Lê Duẩn đã có nhiều lời giáo huấn nổi tiếng cho đảng viên và nhân dân.
– Năm 1976, ông Lê giảng về chuyên chính vô sản ở Việt Nam tại Hội nghị trung ương 25 như sau: “Chế độ ta là chế độ chuyên chính vô sản. Chuyên chính trước hết phải là đường lối của giai cấp vô sản. Cốt tủy của chuyên chính vô sản là ở đó. Đường lối đó là sự kết hợp lý luận Mác-Lenin vào thực tiễn cách mạng của nước mình. Đường lối đó là khoa học nhất, là đúng quy luật, là bắt buộc. Đường lối đó không nhân nhượng với ai, không chia sẻ với ai, không hợp tác với ai. Đó là chuyên chính. Đường lối đó là nhất thiết phải xóa bỏ giai cấp bóc lột, xóa bỏ chế độ sản xuất cá thể, xác lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Nhất thiết phải làm thế, không cho phép ai đi ngược lại. Đó là chuyên chính. Đường lối đó nhất thiết là phải công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Không ai được chống lại. Đó là chuyên chính. Đường lối đó là đường lối của giai cấp công nhân. Ai chống lại những cái đó thì bị bắt. Đó là chuyên chính”.
– Cũng vào năm 1976, ông Lê dạy cách điều hành kinh tế, tài chính-tiền tệ kiểu cộng sản như sau: “Trong mười năm nữa mỗi gia đình ở Việt Nam sẽ có một radio, một tivi, một tủ lạnh. Tôi yêu cầu Thành ủy Hà Nội bán chịu bàn ghế, giường tủ cho công nhân viên rồi thanh toán bằng cách trừ vào lương hàng tháng nhưng các đồng chí đó không thi hành. Tôi hỏi thì trả lời không có tiền. Không có tiền thì in ra. in ra, không sợ lạm phát. Tư bản đế quốc in tiền mới lạm phát, chứ ta chuyên chính vô sản thì sao lạm phát mà sợ”.
[5]- Jacobins là một nhóm chính trị triệt để chống chế độ quân chủ trong cách mạng Pháp 1789. Maximilieu de Robespierre là chủ tịch phái chính trị Jacobins. Ông nhà lãnh đạo cách mạng chuyên quyền độc tài ở “Triều đại khủng bố” của cách mạng Pháp và cuối cùng đã bị xử tử.
[6]- Alexis de Tourqueville (1805-1859) là nhà triết học và là nhà hùng biện, Phó chủ tịch Quốc hội và Bộ trưởng Ngoại giao Pháp năm 1849, tác giả cuốn Nền dân trị Mỹ.
Tư liệu tham khảo
1. “Quyền lực công và sự tha hóa quyền lực”, Tạp chí Nghiên cứu luật pháp, tháng 3 năm 2008.
2. “Về Tư bản luận của Marx”, Phạm Văn Tuấn, vietsciences.free.fr.
3. “Chủ nghĩa cộng sản của Marx”, Thư quán Triết học.
4. Những phương diện của Chủ nghĩa Mác mới (Walter Laquer: The Many Faces of Neo-Marxism, The National Interest, May 2013)
5. “Marx, người ngưỡng mộ và đối thủ của chủ nghĩa tư bản”, Tạp chí Phân tích kinh tế, tháng 5 năm 2015.
6. “Gorbachev, người anh hùng bất đắc dĩ”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, 18/8/2014.
7. Nguồn gốc sự thịnh vượng của thế giới – Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, 31/7/2016
8. “Quản trị kém bất lợi cho phát triển”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, 3/11/2014
9. “Cuộc cách mạng tư duy kinh tế sắp tới”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, 18/4/2016.
10. “Nhìn nhận biện chứng về chủ nghĩa tư bản, mô hình Mỹ và mô hình Bắc Âu”, Tạp chí nghiên cứu quốc tế, 11/01/2016.
11. “Các nước Bắc Âu, siêu mô hình sắp tới”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, 02/01/2016.
12. “Bí quyết thành công của các nước Bắc Âu”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, 26/12/2015.
Tác giả gửi BVN.