Phản biện bài viết “cần trả lại chân lý khoa học cho kết luận về nguyên nhân cá chết”

TS. Tô Văn Trường

Chuyên gia độc lập về Tài nguyên nước & Môi trường

Bài viết “Cần trả lại chân lý khoa học cho kết luận về nguyên nhân cá chết” của Tiến sĩ Nguyễn Đức Thắng đã được đăng tải rộng rãi trên các trang mạng xã hội trong và ngoài nước trong mấy ngày qua, gây xôn xao công luận vì cho rằng kết luận của Chính phủ đã công bố ngày 30/6/2016 dựa trên cảm tính, suy diễn chủ quan.

Đây là bài báo có hàm lượng khoa học cao, có chính kiến, thể hiện sự quan tâm nghiêm túc của tác giả đối với nguyên nhân cá chết ở miền Trung.

1. Về phenol, cyanua là những độc tố mạnh

Tác giả cho rằng nguyên nhân làm cá chết cấp tính hàng loạt chia làm 2 loại cụ thể sau:

“a) Bị tiếp xúc/phơi nhiễm với độc tố, đến đủ nồng độ gây chết LC50.

b) Bị chết do thiếu oxy.

Hai nguyên nhân này khác nhau cơ bản về bản chất hóa học và cơ chế gây chết. Kết luận đã công bố thuộc về nguyên nhân a), vì phenol và cyanua được coi là những độc tố mạnh. Suy diễn này đã bỏ qua điều kiện bắt buộc cần có là nồng độ của phenol và cyanua trong nước biển khi đó phải lớn hơn hoặc bằng LC50”.

“Thực tế nồng độ phenol và cyanua có trong tất cả các mẫu nước mà Đoàn điều tra thu thập và của cả 4 tỉnh miền Trung tự lấy đem phân tích, đều vô cùng nhỏ, vô cùng thấp, đều dưới 0,005mg/L rất an toàn cho tôm, cá (nhỏ 10.000 lần so 50mg/L – LC50 trung bình của cyanua – và nhỏ 5.000 lần so với 25mg/L – LC50 trung bình của phenol)”.

Bình luận

Theo tôi hiểu, vì các mẫu nước được lấy vào thời điểm khá xa, sau khi ngưng xả và chất độc đã được hoà loãng ở mức độ tối đa, do đó nồng độ rất thấp là điều dễ hiểu. Chất độc được đưa ra từ ống xả thải ngầm của Formosa có thể theo hình thức gần giống thải một lần (plug flow) hoặc thải đều đều trong một quãng thời gian dài (steady state). Vì vậy, vẫn có khả năng trong một khoảng thời gian nào đó đã tồn tại một vùng nước đủ lớn có nồng độ chất độc đủ cao. Nếu cần thì phải lập mô hình toán mô phỏng sự phát tán các chất độc này trong không gian 3 chiều mới có thể xác định trên đường di chuyển của chúng vào khoảng thời gian nào chất độc đạt đủ LC50 để giết cá.

Vả lại, độc chất học hiện đại xem LD50 và LC50 có giá trị lịch sử, và là một thông số có giá trị tương đối để tham khảo. Hiện nay, giới khoa học dựa vào dụng cụ Microtox dùng phytobacteria để xác định độc tính nhằm tránh sự sai biệt do kích cỡ sinh vật, giới tính, giống loài, tuổi, thức ăn… vốn liên quan đến cytochrome trong cơ thể chúng, hoặc dùng độc chất học phân tử (molecular toxicology) để có kết quả chính xác hơn. Một điểm cần lưu ý là LC50 48,72 hay 96 giờ khác nhau. Trong điều kiện thực tế trên biển, làm gì có sinh vật biển nào đứng yên một chỗ để tiếp xúc với nồng độ LC50 trong 96 giờ như thí nghiệm trong điều kiện hồ kính (aquarium) ở Phòng thí nghiệm.

2. Độc tố học

TS. Nguyễn Đức Thắng phân tích: “Trong độc tố học (toxicology) và sự cố môi trường (environmental accident) có khái niệm trụ cột là LC50 (Lethal Concentration), là nồng độ (mg/L) độc tố làm 50% quần thể cá chết sau một thời gian tiếp xúc nhất định. Có nghĩa là cá sống trong nước có chứa phenol, cyanua sẽ chết cấp tính khi nồng độ của chúng vượt quá giá trị LC50. Độc tố nào có giá trị LC50 càng thấp thì càng độc và ngược lại nếu LC50 càng cao thì càng ít độc, an toàn.

Trong nhân dân, có câu nói có tính qui luật là “Suy cho cùng một chất độc hay không độc còn tùy thuộc vào nồng độ của nó”. Ví dụ, muối hoặc dấm chua chúng ta ăn ít thì không sao, nhưng nếu ta dùng vượt liều gây tử vong sẽ nguy hiểm. Thuốc ngủ nếu ta uống 1 hoặc 2 viên không sao; nhưng ta uống 10 – 20 viên một lúc sẽ khó mà cứu chữa. Ngay cả thuốc bổ (nhâm sung, cao hổ v.v..) cũng sẽ trở thành độc hại nếu ta uống liên tục quá liều bác sĩ chỉ định”.

Bình luận

Về mặt lịch sử của Độc chất học, chính Paracelsus (1493-1541), ông tổ của ngành Độc chất học đã ghi lại: “Tất cả vật chất đều là chất độc, chẳng có chất nào không độc. Phân biệt một chất khi nó gây độc và khi nó dùng như thuốc trị bệnh căn cứ vào liều lượng. (All substances are poisons. The right dose differentiates a poison and a remedy).

3. Nồng độ của phenol, cyanua

TS. Nguyễn Đức Thắng viết: “Nồng độ của phenol, cyanua trong nước biển dưới 0,005mg/L thấp hơn 4 lần so với QCVN 08:2008/BTNMT về chất lượng nước mặt; đối với nước biển thì nồng độ tối đa được phép của phenol (tổng số) và cyanua (CN-) đều là 0,02 mg/L. Không có bất cứ QCVN nào có mục đích làm căn cứ để xác định nguyên nhân cá chết, cho dù nếu nồng độ của phenol, cyanua có lớn hơn nhiều lần 0,02 mg/L. Sai lầm phổ biến, từ Trung ương cho đến địa phương là cứ thấy mẫu nước phân tích có một chất nào đó lớn hơn 2 – 3 lần QCVN 08 thì kết luận luôn độc tố đó là nguyên nhân gây chết cá. Cụ thể Thừa Thiên – Huế lấy mẫu phân tích thấy phenol và cyanua đều dưới 0,005 mg/L, nhưng crom và amoni cao hơn QCVN 08 nên đã loại trừ phenol và cyanua và kết luận nguyên nhân là Crom và amoni.  Căn cứ để xác định nguyên nhân cá chết phải là LC50”.

Bình luận:

Không nên chụp mũ, vơ đũa cả nắm như vậy. Không thể căn cứ thuần tuý vào LC50  để xác định nguyên nhân cá chết mà còn phải chú ý đến LD50 vì cá lớn có thể ăn thịt cá nhỏ ngộ độc đã chết hoặc đang trong trạng thái lờ đờ vì tiếp xúc với chất độc trước đó ở mức dưới tử vong, và vì vậy cá lớn tích lũy sinh học tăng bội chất độc (biomagnification) trong cơ thể một thời gian rồi mới đạt đến ngưỡng tử vong và chết đi. Vả lại, bản chất LC50 là số liệu tiến hành trong phòng thí nghiệm để xếp hạng các chất độc, chủ yếu sử dụng cá nhỏ (chẳng hạn cá rô phi con [Tilapia sp. thường được dùng]).

Do đó, trong điều kiện thực tế trên biển, làm gì có sinh vật biển nào đứng yên một chỗ để tiếp xúc với nồng độ LC50 trong 96 giờ như thí nghiệm thiết kế trong điều kiện hồ kính (aquarium) ở phòng thí nghiệm. Khi tiếp xúc với chất độc nếu chưa chết ngay do độc cấp tính (acute toxicity) thì chúng cũng tìm cách bơi thoát đi nơi khác. Mặt khác, cá chết có kích cỡ lên đến vài chục kí lô thì LC50 cho lũ cá con đâu có ý nghĩa gì. Do đó, cá có thể có kích cỡ khác nhau, giống loài khác nhau nhưng những con tích luỹ chất độc trong quá khứ lên đến ngưỡng tử vong đều chết đồng loạt cả.

Thực ra tiêu chuẩn LC50 là một con số trung bình suy ra từ xác suất (probability) thành muốn nói cho đúng thì phải gọi là “Median Lethal Concentration” và thường được nêu đi đôi với cái gọi LT50 (Time to 50% mortality) tức là thời gian chịu đựng dẫn đến 50% quần thể cá chết.

Người bạn chuyên gia Canada cho tôi biết nghiên cứu có tựa đề “Biological Test Method: Acute Lethality Test Using Rainbow Trout” của Bộ Tài nguyên môi trường của Canada, nói về phương pháp nghiên cứu để định các ngưỡng cửa có thể gây chết cho loại cá gọi là Rainbow Trout, để đạt tiêu chuẩn về giới hạn các độc tố có thể thải ra môi trường. Qua nghiên cứu này, có thể thấy là các yếu tố môi trường bên Canada có thể khác với môi trường bên VN, do đó không thể lấy tiêu chuẩn của Mỹ, Canada hay của Úc để áp dụng cho VN vì làm như vậy cũng như lấy râu ông nọ cắm cầm bà kia. Do đó, VN nếu muốn có tiêu chuẩn LC50 với LT50 của riêng mình thì phải làm nghiên cứu chứ không có cách nào khác.

Theo tôi biết, từ những năm 1990, bên Tập đoàn dầu khí VN (PVN) có dự án nghiên cứu độc tính của dung dịch khoan nền dầu khoáng (sử dụng khi khoan thăm dò và khoan khai thác các mỏ dầu ngoài khơi, trong trường hợp cấu tạo địa chất gây khó khăn, thậm chí làm kẹt mũi khoan, nếu dùng dung dịch khoan nền nước biển). PVN đã nghiên cứu độc tính tại vùng biển VN và thu được kết quả độc tính của cùng 1 loại dung dịch khoan giảm trong môi trường biển Đông Nam bộ VN so với trong môi trường biển Bắc của Nauy. Kết quả này, tương tự kết quả nghiên cứu ở vùng biển vịnh Thái Lan và ở Indonesia. Lý do là điều kiện tự nhiên ở biển Bắc khác nhiều điều kiện của vùng biển nhiệt đới.

Như vậy, nếu có được chuẩn cụ thể của VN để làm cơ sở kết luận về độc tính của chất nào đó trong môi trường VN thì quá tốt. Tuy nhiên, trong khi chưa có thông tin về LC50 của một chất hóa học nào đó tại chỗ thì vẫn có thể lấy thông tin tương ứng của nước khác, chỉ nhằm mục đích so sánh và suy luận, Trong trường hợp cụ thể là phenol, rõ ràng khi LC50 của phenol của Úc cao gấp cả nghìn lần nồng độ phát hiện trong môi trường biển miền Trung thời điểm cá chết thì suy luận phenol không phải nguyên nhân dẫn đến thảm họa là có thể có cơ sở. Tôi nói có thể có cơ sở là bởi vì hiện tượng tính độc tăng do sự cộng lực (synergistic toxicity) trong một điều kiện đặc thù nào đó, có sự hiện diện của các hoá chất khác, rất thường xảy ra và được ghi nhận thường xuyên trong các tài liệu khoa học về độc chất học.

4. Phân tích mẫu

Tác giả phân tích: “Đoàn điều tra đã lấy mẫu nước thu được từ vệt nước màu đỏ gạch ở Quảng Bình ngày 4/5, Hà Tĩnh ngày 5/5 và 12/5 làm thí nghiệm với cá, cho kết quả tỷ lệ cá chết 80-100% trong 3 – 30 phút. Phân tích mẫu nước, hàm lượng sắt trong cặn lơ lửng cao (gần 25%), hydroxit sắt (gần 50%) và chứa phenol. Từ đó suy ra cá chết vì phenol và cyanua.

Nếu đúng như vậy, thì đây là một thí nghiệm chưa khoa học và chủ quan. Vì không đo nhiệt độ, không đo pH, không đo oxy hòa tan, không đo độ mặn, thí nghiệm với bao nhiêu con cá, cá nước mặn hay cá nước ngọt, cân nặng v.v.”.

Bình luận:

Tôi tán thành cách lập luận của tác giả phân tích về thí nghiệm cá nhưng theo tôi biết TS. Nguyễn Đức Thắng chưa được đọc báo cáo chi tiết của đoàn điều tra nguyên nhân cá chết cho nên mới đưa ra từ “NẾU”! Lời phê bình chỉ có giá trị khi tác giả có trong tay đủ số liệu về điều kiện thí nghiệm của Đoàn điều tra (phải ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo).

5. Nồng độ và tổng lượng chất thải

TS. Nguyễn Đức Thắng phê phán: “Đoàn điều tra đã “bỏ quên” một qui luật rất cơ bản nữa của tự nhiên là nước biển và đại dương mênh mông vô tận nên nồng độ từng độc tố, kể cả đổ cả chục tấn vào sẽ bị pha loãng thành rất nhỏ. Cụ thể nước biển và đại dương gồm 96,66% là nước tinh khiết (H2O), xáo trộn đồng đều với 3,02% là muối ăn (NaCl), còn lại 0,32% cho tất tật mọi chất khác có thể (các hợp chất hữu cơ hòa tan độc và không độc, các kim loại nặng v.v.)”.

Bình luận:

Các tài liệu về cơ học lưu chất (Fluid mechanics) và mô hình toán trong môi trường đã phân tích dù dại dương là mênh mông và có thể pha loãng mọi thứ về nồng độ rất nhỏ nhưng muốn gì thì cũng cần phải có thời gian. Trên thế giới vẫn tồn tại những vùng biển sạch và vùng biển dơ là minh chứng rõ ràng không phải cứ đổ xuống biển là nó pha loãng ngay.

6. Về hàm lượng cao của phenol và xyanua trong cá

“Thậm chí không cần cơ sở lý luận của độc tố học nữa (toxicology, LC50), chỉ cần duy nhất một thực tế sau đây đã đủ hoàn toàn làm sụp đổ kết luận đã công bố về nguyên nhân cá chết. Đó chính là nhà máy sản xuất than cốc của Formosa Hà Tĩnh đã đi vào hoạt động từ tháng 12/2015 đã 4 tháng liên tục xả thải hàng ngày 10.000 – 12.000 m3 nước thải, trong đó có khoảng 1000 m3 nước thải của khâu luyện than cốc, có chứa hàng tấn hóa chất độc hại khác nhau; trong đó có khoảng 700 – 800 kg phenol và 40 – 60 kg xyanua vào môi trường, thế mà không một con cá nào chết!!”.

Bình luận

Cần phải tính đến “hiệu ứng dưới tử vong” do trong quá trình tích luỹ sinh học.

7. Cá lớn, cá bé

“Hệ thống xử lý sinh hóa của công ty thời gian này có vấn đề vì chưa được nạp vi khuẩn đặc chủng để xử lý phenol và cyanua. Những đàn cá vẫn bơi lội tung tăng, vẫn “ăn, uống” phenol và cyanua, kim loại nặng vào tích tụ trong cơ thể chúng.

Ngoài ra, theo qui luật của tự nhiên cá lớn ăn cá bé, cá bé ăn cá bé hơn, cá bé hơn các động vật phù dù, các động vật phù du này ăn mọi thứ độc hại có trong nước”.

Bình luận

Ở đây phải nói cho đúng là cá lớn ăn cá bé, cá bé ăn cá bé hơn, cá bé hơn ăn các động vật phù du, các động vật phù du ăn các thực vật phù du, các thực vật phù du hấp thu các độc tố trong môi trường nước.

8. Thuốc bảo vệ thực vật

Tác giả phân tích ví dụ: “Thuốc bảo vệ thực vật DDT với nồng độ coi như không có trong nước, là 0,000003 mg/L. Động vật phù du ăn DDT, lấy mẫu đem phân tích thấy hàm lượng DDT là 0,04 mg/kg; mẫu cá bé cho hàm lượng 0,5 mg/kg, mẫu cá lớn cho hàm lượng 2 mg/kg (hệ số khuyếch đại là 0,66 triệu lần), mẫu chim ăn cá cho hàm lượng DDT 25 mg/kg (hệ số khuyếch đại là 8,3 triệu lần!!).

Nếu lấy kết quả phân tích tất cả các mẫu nước biển 4 tỉnh miền Trung cho phenol và cyanua đều dưới 0,005 mg/l (4  lần  thấp  dưới  QCVN  08:2008/BTNMT, 0,02 mg/L), nhân với hệ số khuyếch đại 0,66×106 x0,005 cho ta 3.300 mg/kg (3,3 g/kg) trong cá lớn!!! Thật kinh hoàng cho quá trình tích tụ và khuyếch đại độc tố này. Mang trong mình một hàm lượng lớn độc tố như vậy nhưng cá vẫn tung tăng bơi lội, vẫn sống để cho người dân đánh bắt và ăn”.

Bình luận

Mỗi hoá chất đưa vào môi trường có một hệ số tích luỹ trong sinh vật và đất, trầm tích… khác nhau và thường nồng độ tích luỹ này diễn ra không theo kiểu phương trình tuyến tính như tác giả đã tính toán ở trên.

Cách phân tích về DDT ở trên sơ sài quá. DDT là một chất bảo vệ thưc vật thuộc nhóm organochlorine có độ bền rất cao trong môi trường (thuộc nhóm POPs: Persistent Organic Pollutants), sự tích tụ và khuếch đại của nó không giống các nhóm khác (ví dụ: nhóm lân [organophosphate], nhóm cabamate hoặc nhóm cúc [pyrethroids]) cũng như khác với các chất tác giả đang quan tâm. Vì vậy, khi so sánh cần đủ số liệu mới tránh khỏi khập khiễng. Nếu bàn về DDT nên tham khảo tài liệu Chương 15 (Chlorinated Hydrocarbon Insecticides) trong Vol. 2 (Handbook of Pesticide Toxicology gồm 3 Vol.). Các chủ biên: Wayland J. Hayes, Jr. và Edward R. Laws, Jr. và cuốn sách Aquatic Toxicology, Molecular, Biochemical and Cellular Perspectives. Chủ biên: Donald C. Malins, Gary K. Ostrander.

9. Bệnh ung thư

TS. Nguyễn Đức Thắng phân tích: “Ở Việt Nam thì người giầu cũng như người nghèo, nếu nhịn ăn, nhịn thở thì chết ngay, nhưng ăn vào, thở vào thì chết từ từ. Góp phần thúc đẩy gia tăng bệnh ung thư chính là quan điểm “sản xuất trước, môi trường tính sau” thấm sâu vào máu rất nhiều cán bộ quản lý, lãnh đạo khắp đất nước”.

Bình luận

Điều này đúng, nhưng ngay cả Nhật Bản vào đầu thế kỷ 20 chăm chú vào sản xuất cũng gặp phải các đại hoạ như ô nhiễm thuỷ ngân (Minamata, tỉnh Kumamoto), ô nhiễm cadmium (trên sông Jingsu, tỉnh Toyama), ô nhiễm chất thải công nghiệp vào thập niên 60, 70 (chôn lấp chất thải công nghiệp tại đảo Teshima), ô nhiễm khí sulfur….

Trình độ của lãnh đạo nước ta chắc là chưa đủ để hoàn toàn thấu hiểu về vấn đề môi trường, Họ thường đùa: “tôi chỉ lo môi ngắn (miệng), không lo môi dài (môi trường)”, “non xanh còn đó, lo gì không có củi đun’…

Ngoài ra, Chính phủ chưa đưa chỉ tiêu về bảo vệ môi trường vào hệ thống các chỉ tiêu thi đua cho các bộ ngành, địa phương nên họ rất xem thường vấn đề bảo vệ môi trường (hoặc chỉ nói miệng cho vui).

10. Giải pháp hút trầm tích

TS. Nguyễn Đức Thắng phê phán lãnh đạo Đoàn điều tra đã đề xuất Sẽ phải hút hàng ngàn tấn trầm tích, kinh phí hút 1.000 tấn cũng phải mất vài nghìn tỷ đồng. Chúng ta sẽ phải hút suốt chiều dài 209 km và phải hút sâu tối thiểu 50 cm thì mới đảm bảo sạch biển.

“Vì đề xuất của Đoàn điều tra về kết luận nguyên nhân cá chết đã được lãnh đạo chính trị chấp thuận và đã công bố. Bỏ ra 109 nghìn tỷ đồng để nạo vét đáy biển chỉ vì bị phủ một lớp vô cùng mỏng hydroxit sắt có hấp phụ phenol và cyanua, và trầm tích có chứa kim loại nặng vốn đã có từ hàng trăm năm sẽ là một cuộc tàn phá kinh hoàng hệ sinh thái đáy biển, sẽ thêm rất nhiều san hô bị chết. Không cần nạo vét. Biển sẽ tự làm sạch. Hãy dành mọi tiền đền bù nhiều nhất có thể để tập trung hỗ trợ cho ngư dân và thúc đẩy đánh bắt xa bờ”.

Bình luận

TS. Nguyễn Đức Thắng phân tích chính xác, không nên đưa ra giải pháp viển vông nạo vét tốn kém như thế, vì sẽ gây ra “thảm họa kép” xáo trộn đối với lớp trầm tích đã ổn định. Ô nhiễm biển miền Trung khác hẳn vớí trường hợp đại hoạ như ô nhiễm ở Minamata Nhật Bản do thủy ngân đã tích lũy 36 năm.

Trong bài viết tổng hợp về Formosa, tôi đã đề xuất công việc cần làm hiện nay là khảo sát đánh giá những mức độ bị hủy hoại môi trường biển dọc theo ven bờ biển 4 tỉnh bị ô nhiễm để có kế hoạch tương đối xác thực khu vực nào thì có thể để môi trường tự làm sạch và tự phục hồi (natural attenuation/remediation), khu vực nào cần sự hỗ trợ của con người và khu vực nào hoàn toàn phải phục hồi nhân tạo. Không thể chỗ nào cũng “làm sạch biển… trồng san hô…”.

– Cách để đánh giá môi trường biển bây giờ, không phải chỉ đánh giá mức độ ô nhiễm (thời gian qua quá lâu rồi, chỉ còn tồn dư và ô nhiễm thứ cấp) mà cần đánh giá mức độ bị hủy hoại là quan trọng hơn.

– Các phương pháp đánh giá ô nhiễm, theo tôi thì thông qua phân lô, lấy mẫu, phân tích và đánh giá. Còn đánh giá mức độ hủy hoại thì có nhiều cách khác nhau nhưng xác thực nhất là tính phần trăm số sinh vật biển bị hủy hoại tại chỗ và mật độ sinh vật biển có trong hiện trạng (các loài san hô, sao biển, nhím biển, giun/lươn biển và động vật hai vỏ được quan tâm đầu tiên).

– Tuỳ theo đặc điểm của từng hệ thuỷ sinh đặc thù mà hình thành các chương trình phục hồi thích hợp.

– Ở những vùng hệ san hô bị huỷ diệt, cần có kế hoạch phục hồi nhanh bằng cách tạo nơi cư trú nhân tạo cho san hô phát triển như nhiều nước vẫn làm.

– Rà soát, kiểm soát nghiêm ngặt các nguồn xả thải ra môi trường biển ở miền Trung (không chỉ riêng Formosa).

– Quan tâm giúp đỡ ngư dân chuyển nghề thích hợp, ưu tiên hàng đầu là bám biển (kể cả đánh bắt xa bờ) vì ngoài yếu tố kinh tế, còn là chủ quyền biển đảo của tổ quốc.

11. Về Quy chuẩn VN

Tác giả phân tích:Bộ trưởng Bộ Tài Nguyên, Môi trường tuần vừa qua đã “thú nhận” với báo chí, do phải ưu tiên sản xuất đối với một số ngành công nghiệp, Bộ đã phải hạ tiêu chuẩn xả thải. Gần 10 năm qua Bộ đã ban hành một loạt các QCVN đặc thù, ưu tiên như ngành như sản xuất thép, sơ chế cao su thiên nhiên, công nghiệp chế biến thủy sản, giấy và bột giấy, dệt nhuộm, y tế, cửa hàng xăng dầu và nước thải của các bãi chôn lấp chất thải rắn. Ví dụ: QCVN 40:2011/BTNMT về nước thải công nghiệp nói chung, có tất cả 33 chỉ tiêu. Nhưng QCVN 52: 2013/BTNMT đối với nước thải ngành sản xuất thép rút từ QCVN 40 xuống chỉ còn 12 chỉ tiêu/thông số, loại bỏ đi 21 chỉ tiêu/thông số, ngoài ra còn “nới lỏng” nồng độ một vài thông số; cụ thể tăng lên 5 lần đối với kim loại nặng cadmi và tổng xianua; tăng gấp 1,5 lần đối với tổng nitơ”.

Bình luận

Cần hiểu rõ, và có đủ tư liệu (ghi rõ trong tài liệu tham khảo) quá trình làm QCVN và tất cả tiêu chuẩn của các nước từ phát triển đến đang phát triển quy định thế nào về các thông số trong Quy chuẩn cho ngành luyện thép để tránh nhận xét chủ quan (ít nhất phải biết phiên bản 1 và 2 của WB-IFC).

Kết luận

Đọc kỹ bài viết, tác giả Nguyễn Đức Thắng, không hề phủ nhận Formosa chính là thủ phạm gây ra cá chết ở miền Trung, nhưng muốn làm rõ về nguyên nhân cá chết một cách có luận cứ và minh chứng tin cậy. Về nguyên nhân cá chết do bị ngạt (thiếu oxy) thì ngay trong nhóm chuyên gia yêu môi trường, mọi người đã nói đến ngay từ khi vụ việc mới xảy ra hồi đầu tháng 4/2016.

Các phân tích của TS. Nguyễn Đức Thắng có nhiều điểm đúng, song cũng lộ ra những “lỗ hổng” như bình luận ở trên. Ngoài ra, tác giả còn thiếu phân tích tác động về đồng thời của việc thiếu oxy với việc cá bị nhiễm các độc tố khác (không chỉ có phenol và cyanua).

Xin lưu ý, là khi mỗi Fe(II) chuyển thành Fe(III) và thủy phân thành Fe(OH)3 thì sẽ giải phóng ra 2 ion H+, làm pH giảm nhanh cục bộ nữa. Cộng tất cả những rủi ro ấy lại thì sẽ làm cá chết nhanh và nhiều hơn. Đừng quên là Formosa dùng phản ứng Fenton để xử lý nước xả cốc nên đã sử dụng một lượng rất lớn Fe(II). Nếu hệ thống Fenton không hoạt động mà cứ xả Fe(II) vào thì cũng có thể là nguồn cung cấp Fe(II) nữa, nếu hệ Fenton hoạt động thì thải ra chủ yếu là Fe(III) hay Fe(OH)3).

Bài viết nói trên của TS. Nguyễn Đức Thắng có tác dụng đòi hỏi những người có trách nhiệm về chuyên môn sâu trong đoàn điều tra nguyên nhân cá chết ở miền Trung cần phải tiếp tục nghiên cứu làm rõ để thuyết phục giới khoa học. Ví dụ như cho rằng khi cyanua và phenol kết hợp, trở thành “tấm chăn” khổng lồ hút thêm rất nhiều chất độc khác nên gây ra tình trạng cá chết trên diện rộng, tôi cũng chưa thấy tài liệu nào nói trường hợp hút các chất độc khác kiểu này.

Ngẫm suy, Vũng Áng sẽ trở thành như vùng công nghiệp Ruhr của nước Đức cách đây vài thập niên. Miền Trung giải hẹp như vậy thì khói mù dầy đặc, chất độc hại đương nhiên phải ra biển. (Đấy là chưa nói đến chất thải rắn). Đáng tiếc, là người dân không được cảnh báo trước, còn người có trách nhiệm mải say sưa cho đó là thắng lợi.

Ngày 21/07/2016

T.V.T.

Tác giả gửi BVN

 

 

 

_

This entry was posted in Môi Trường. Bookmark the permalink.