Hà Nội, ngày 18 tháng 7 năm 2016
Kính gửi:
– Quốc hội khoá 14 của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Đồng kính gửi quý vị:
– Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam,
– Trần Đại Quang, Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
– Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
– Nguyễn Thị Kim Ngân, Chủ tịch Quốc hội khoá 14
Xin thưa,
I
Vì những thảm hoạ môi trường đã, đang xảy ra và những hệ luỵ đang uy hiếp sự tồn vong của đất nước, tôi là công dân Nguyễn Trung, xin trân trọng đề nghị Quốc hội khoá 14 tiến hành trưng cầu ý dân cho ba vấn đề sau đây:
(1) Đóng cửa và xoá bỏ khu công nghiệp Vũng Áng Formosa đang tồn tại và hoạt động theo giấy phép hiện hành.
(2) Chuyển cảng biển Sơn Dương với tính chất là một bộ phận cấu thành của khu công nghiệp Vũng Áng Formosa thành cảng biển BT (Build and Transfer – xây dựng và chuyển giao) của nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, do chủ thể Khu công nghiệp Vũng Áng Formosa xây dựng và chuyển giao cho phía Việt Nam theo luật pháp của nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam dành cho thể thức “xây dựng & chuyển giao (BT)”.
(3) Quốc hội khoá 14 ra lời kêu gọi nhân dân đứng lên đoàn kết bảo vệ môi trường: Toàn dân dốc sức cứu môi trường bị xâm hại như cứu hoả cho đất nước, đồng thời nỗ lực bảo vệ, tôn tạo môi trường hiện còn gìn giữ được; cùng nhau hậu thuẫn, thúc đẩy và giám sát trong cả nước việc thực thi pháp luật và các chủ trương chính sách đã ban hành liên quan đến bảo vệ môi trường; tham gia sửa đổi hệ thống luật pháp và các chủ trương chính sách hiện hành liên quan đến nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong tình hình mới của đất nước; tranh thủ mọi sự giúp đỡ có thể của cộng đồng thế giới cho việc cứu và bảo vệ môi trường của đất nước.
II
Xin được kiến giải như sau cho ba việc cần phải làm đã nêu trên:
1. Về đóng cửa khu công nghiệp Vũng Áng Formosa
Xem xét mọi mặt những sự việc đã xảy ra và các hệ luỵ trong thực tiễn nước ta từ nhiều năm nay, gần đây nhất là tình trạng bế tắc và những gánh nặng nhiều mặt ngày càng lớn đất nước đang phải chịu đựng do việc khai thác bauxite Tây Nguyên; đánh giá sự lũng đoạn nham hiểm từ bên ngoài và tình trạng yếu kém chưa từng có do tha hoá tệ hại của hệ thống chính trị và quản trị quốc gia, lại trong bối cảnh đất nước đang cùng một lúc phải đối phó với nhiều khó khăn chồng chất – từ tình trạng đất nước đang bên miệng hố chiến tranh của khu vực và nguy cơ bị xâm lược, đến biết bao nhiêu thách thức kinh tế – chính trị – văn hoá – xã hội dồn dập, cá nhân tôi thấy phải đóng cửa ngay khu công nghiệp Vũng Áng Formosa.
Đây là giải pháp vô cùng cấp bách, đỡ tổn thất nhất và bớt đau đớn nhất cho đất nước, ngõ hầu mở được lối thoát cho quốc gia ra khỏi tình thế nguy hiểm hiện nay. Thực tế đang cho thấy: Ung nhọt Vũng Áng Formosa còn tồn tại thêm một ngày, đất nước sẽ thối vỡ thêm một ngày.
Cần dứt khoát cấm việc sản xuất thép tại đây, vì các lý do:
(a) công nghệ sản xuất thép Formosa đem về Vũng Áng lạc hậu và gây ô nhiễm nặng rất khó xử lý, lại thêm sự quản lý và giám sát từ phía nước ta có quá nhiều yếu kém và lỗ hổng,
(b) từ hàng chục năm nay cung đã vượt cầu khiến thị trường thép trên thế giới hầu như đóng băng, mặt khác quy mô sản xuất thép của Vũng Áng Formosa quá lớn và những ưu đãi ngoại lệ đến khó hiểu nó được hưởng có thể đè bẹp công nghiệp thép hiện có trong nước ta,
(c) toàn bộ khu công nghiệp Vũng Áng Formosa hiện nay hàm chứa và đang phát sinh quá nhiều hiểm hoạ mọi mặt – bao gồm cả lĩnh vực an ninh quốc phòng – vượt tầm xử lý hiện nay của nước ta,
(d) sự tồn tại của Vũng Áng Formosa đẩy nước ta lún sâu vào tình trạng là bãi thải công nghiệp cho nước ngoài, gia tăng sự lệ thuộc kinh tế – chính trị của đất nước, tạo điều kiện cho bên ngoài lũng đoạn ngày càng sâu vào nội tình nước ta…
Để giảm thiểu tổn thất cho phía nước ta cũng như cho bên đầu tư nước ngoài, sau khi quyết định đóng cửa khu công nghiệp Vũng Áng Formosa, có thể đàm phán cấp phép mới cho khu kinh tế này theo đúng pháp luật hiện hành và thuận chiều với con đường phát triển của nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại như đã ghi trong Hiến pháp 2013 – bao gồm cả những vấn đề liên quan đến bảo vệ môi trường–, kiên quyết loại bỏ các ưu đãi vượt, phá luật hoặc xâm hại chủ quyền và an ninh quốc gia.
2. Về việc chuyển cảng Sơn Dương của khu công nghiệp Vũng Áng Formosa thành cảng biển BT của Việt Nam
Các đặc quyền khu công nghiệp Vũng Áng Formosa được hưởng, cách vận hành của nó mang tính loại trừ hoặc vô hiệu hoá sự quản lý và quyền giám sát của nước chủ nhà, cùng với thời hạn thuê đất 70 năm và những hình thức lũng đoạn khác đã xảy ra, về nhiều mặt khu công nghiệp Vũng Áng Formosa đậm nét của một vùng đất tô nhượng ngay trên vị trí chiến lược của nước ta.
Thực tế địa kinh tế và địa chính trị hiện nay của nước ta và trong khu vực không cho phép nước ta chấp nhận thực trạng này, nhất là đất nước ta đang ở trong tình trạng bên miệng hố chiến tranh của khu vực và cùng một lúc đang phải đối phó với nhiều thách thức hiểm nghèo từ nhiều phía.
Trong bối cảnh như vậy, không thể chấp nhận có một cảng nước sâu có tính chất chiến lược của đất nước và trong khu vực Biển Đông là cảng Sơn Dương lại nằm trọn trong tay nước ngoài – cụ thể ở đây là Khu công nghiệp Vũng Áng Formosa – với các thành phần tham gia có không ít nghi vấn.
Nhất thiết phải khắc phục ngay thực trạng đất nước trên thực tế đang “bị thọc sườn” như vậy, bằng việc chuyển đổi ngay cảng Sơn Dương với tính chất là cảng riêng của khu công nghiệp Vũng Áng Formosa thành cảng Sơn Dương “BT”, do nhà nước Việt Nam trực tiếp vận hành với các thể thức “BT” của luật pháp Việt Nam dành cho nhà đầu tư nước ngoài.
3. Về việc Quốc hội khoá 14 kêu gọi nhân dân cả nước đứng lên bảo vệ môi trường
Do những nguyên nhân chủ quan của trình độ phát triển, chế độ chính trị và con người, những nguyên nhân của tự nhiên, nhìn chung tình trạng ô nhiễm và huỷ hoại môi trường ở nước ta có thể nói đang ở mức báo động. Biến đổi khí hậu như đang diễn ra càng làm cho tình hình thêm quyết liệt.
Tuy nhiên cần nhấn mạnh tệ nạn tham nhũng và những hệ luỵ, các hành động ăn cắp và ăn cướp tài nguyên quốc gia, cung cách làm ăn “bóc ngắn cắn dài”, “kẻ ăn ốc người đổ vỏ”, sự bất cập của hệ thống chuyên môn và quản trị quốc gia, cùng với thực trạng chưa tạo ra được sự quan tâm đúng mức của từng người dân cho bảo vệ môi trường đang là những nguyên nhân trầm trọng nhất.
Đất nước đứng trước tình hình môi trường bị ô nhiễm hay phá huỷ đang gây ra những tổn thất ngày càng khó khắc phục, thậm chí đang kìm hãm hoặc kéo lùi sự phát triển của đất nước, mang lại ngày càng nhiều khó khăn và bất hạnh cho nhân dân, an ninh và tiền đồ phát triển của quốc gia bị uy hiếp.
Đặc biệt thảm hoạ Formosa trên vùng biển Miền Trung đang gây ra nhiều hậu quả rất nghiêm trọng và lâu dài chưa lường hết được về các mặt bảo vệ môi trường sống, kinh tế nói chung và kinh tế biển nói riêng, bảo vệ biển đảo quốc gia, an ninh quốc phòng; quy mô vùng biển bị huỷ hoại quá lớn chưa có lý giải thuyết phục. Cần phải công khai minh bạch cho cả nước biết rõ toàn bộ tình hình của thảm hoạ này, phương hướng và các bước đi khắc phục để huy động sự tham gia của cả nước, tranh thủ sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế.
Đã đến lúc Quốc hội khoá 14 cần kêu gọi toàn thể nhân dân đứng lên cứu môi trường bị xâm hại như cứu hoả cho cả nước, chung tay bảo vệ và tôn tạo môi trường còn gìn giữ được. Quốc hội quyết định ngay việc dứt khoát nghiêm cấm mọi hành vi trấn áp tinh thần và nỗ lực của nhân dân đứng lên bảo vệ môi trường.
Tình hình đã đến lúc phải coi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong giai đoạn và hoàn cảnh cụ thể hiện nay của đất nước bắt đầu từ cứu môi trường bị xâm hại như cứu hoả cho cả nước, kêu gọi toàn dân dốc toàn lực và ý chí cho gìn giữ và bảo vệ môi trường để đẩy mạnh đất nước phát triển.
Điều này chẳng những đúng với đòi hỏi khắc phục thảm hoạ môi trường đang xảy ra trên phần lớn biển Miền Trung, đúng với đấu tranh chặn đứng nạn ăn cắp và ăn cướp tài nguyên quốc gia, đúng với tạo áp lực bảo vệ và thực thi pháp luật – kỷ cương quốc gia nói chung và nhiệm vụ bảo vệ môi trường nói riêng, đúng với những đòi hỏi bảo vệ sức khoẻ và hạnh phúc của nhân dân, xây dựng văn hoá của nếp sống văn minh, đúng với đòi hỏi thực hiện và nâng cao vai trò là chủ đất nước của nhân dân… Có một nhân dân đoàn kết và làm chủ đất nước như thế, Việt Nam là bất khả xâm phạm và sẽ có tất cả!
Tôi chỉ lo hiểu biết của mình không nói lên hết được những điều cần nói ở đây. Song tôi hoàn toàn tin rằng trong hoàn cảnh hiện nay của đất nước, vận động cả nước đứng lên cứu môi trường bị xâm hại như cứu hoả, ra sức bảo vệ và tôn tạo môi trường còn gìn giữ được sẽ là bước đi đầu tiên mở ra con đường đổi đời đất nước và từng người dân.
III
Tôi hình dung được cái giá đất nước phải trả rất lớn và cả nước phải nỗ lực rất gian khổ trên các phương diện kinh tế, chính trị, pháp lý, đối ngoại… cho việc thực hiện ba việc phải làm đã trình bày trên (phần I). Sẽ là vô cùng đau đớn, song tôi cả quyết đấy là con đường “rẻ nhất” (với nghĩa đỡ tổn thất nhất) và là duy nhất mở ra cho đất nước lối thoát khỏi những nguy hiểm nhiều bề hiện nay, nhờ đó nước ta giảm được tụt hậu, và đồng thời có thể tạo ra thế và lực chuyển sang một giai đoạn phát triển mới.
Ba việc cực khó và vô cùng quan trọng này đòi hỏi cả nước phải hy sinh phấn đấu rất lớn, chính vì thế cần tổ chức trưng cầu ý dân để được dân chấp thuận và để cả nước một lòng một chí quyết tâm thực hiện. Cả nước sẽ sát cánh cùng với Quốc hội và Chính phủ phát huy trí tuệ, nghị lực và mọi nguồn lực để tìm ra cách thực hiện – đúng với tinh thần ngàn đời nay của đất nước: Thuận mọi bề không dân đành chịu, khó triệu bề dân liệu cũng xong!
Thiết nghĩ, trong bối cảnh hiện tại của đất nước ta và khu vực, lựa chọn ba việc phải làm như trình bày trên sẽ dấy lên một tinh thần Việt Nam mà đất nước lúc này nhất thiết phải có, để có thể đứng vững trên Biển Đông đầy sóng gió, và để làm được nghĩa vụ của mình vì hoà bình, hợp tác và phát triển đối với cộng đồng khu vực và quốc tế.
Quyết định trưng cầu ý dân về tiến hành ba việc trọng đại này, Quốc hội khóa 14 hiển nhiên sẽ khai phá được cho chính mình con đường nương tựa vào nhân dân để xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân phù hợp với những đòi hỏi mới của đất nước trong bối cảnh của khu vực và thế giới hôm nay.
Thư ngỏ này tôi đồng gửi đến Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trần Đại Quang, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân với mong mỏi quý vị, với tính cách là những đại diện cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị của đất nước, sẽ làm cho Đảng của mình trở thành động lực quyết định của cả nước trong việc thực hiện ba việc phải làm đầy thách thức và khó khăn gian khổ này.
Tôi khát khao được bộc bạch với nhân dân cả nước ba việc hệ trọng phải làm nêu trong thư ngỏ này. Vì vậy, tôi kính mong Quốc hội khoá 14 trả lời kiến nghị của tôi cũng dưới hình thức thư ngỏ để bạch hoá với cả nước ý kiến của Quốc hội.
Trân trọng,
Nguyễn Trung
(nguyên trợ lý cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt)
Đọc Thư Ngỏ của ông Nguyễn Trung gửi Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng tôi đồng tâm nhất trí với nội dung của Thư Ngỏ. Để biểu tỏ sự đồng tâm nhất trí ấy, chúng tôi cùng ký tên dưới đây:
Đợt 1:
1. Tương Lai, nguyên thành viên Tổ Tư vấn Võ Văn Kiệt, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học Việt Nam
2. Đào Công Tiến, nguyên Hiệu trưởng Đại học kinh tế TPHCM
3. Huỳnh Tấn Mẫm, nguyên Chủ tịch Tổng Hội sinh viên Sài Gòn trước 1975, nguyên Tổng Biên Tập Báo Thanh Niên, hiện là Uỷ viên Uỷ ban Mặt trận Tổ Quốc TP. Hồ Chí Minh
4. Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng Thư ký Hội Trí thức Yêu nước TPHCM
5. Lê Công Giàu, nguyên Phó Bí thư Thành đoàn TP HCM, nguyên Phó Tổng Giám đốc Saigontourist
6. Nguyễn Văn Ly (Tư Kết), nguyên Thư ký của Bí thư Thành ủy TP HCM Mai Chí Thọ
7. Nguyễn Đình Đầu, Nhà nghiên cứu TP.HCM
8. Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh
9. GB Huỳnh Công Minh, Linh mục Tổng Giáo phận Sài Gòn
10. Võ Văn Thôn, nguyên Giám đốc Sở Tư pháp TP HCM
11. Hoàng Dũng, PGS TS, TP HCM
12. Bùi Tiến An, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Chuyên viên Ban Dân vận Thành ủy TP HCM
13. Tô Lê Sơn, kỹ sư, CLB Lê Hiếu Đằng, TP HCM
14. Hoàng Hưng, nhà thơ, nhà báo, nguyên Trưởng ban Văn hoá Văn nghệ báo Lao Động, TP HCM
15. Kha Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng biên tập báo Sài Gòn giải phóng, TP HCM
16. JM Lê Quốc Thăng, Linh mục Tổng Giáo phận Sài Gòn
17. Nguyễn Quốc Thái, nhà báo, TP HCM
18. Nguyễn Trung Dân, nhà báo, TP HCM
19. Hạ Đình Nguyên, cựu tù chính trị Côn Đảo, TP HCM
20. Cao Lập, cựu tù chính trị Côn Đảo, TP HCM
21. Hà Quang Vinh, nguyên PCT UBND huyện Bình Chánh, TP HCM
22. Lê Đăng Doanh, TS, Thành viên Ủy ban Chính sách Phát triển của Liên Hiệp Quốc, Hà Nội
23. Nguyễn Quang A, TS Khoa học Điện tử Viễn thông, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển IDS, nguyên Chủ tịch Hội Tin học Việt Nam, Hà Nội
24. Phạm Gia Minh, TS, Hà Nội
25. Nguyễn Thị Ngọc Toản, cựu chiến binh, Đại tá, Giáo sư Bác sĩ, Hà Nội
26. Nguyễn Thị Ngọc Trai, nhà văn, nhà báo, nguyên Phó Tổng Biên tập Báo Văn Nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội
27. Tô Nhuận Vỹ, nhà văn, Huế
28. Nguyễn Thế Hùng, GS TS, Đà Nẵng
Đợt 2:
29. Nguyễn Duy, nhà thơ, TP HCM
30. Nguyễn Lệ Uyên, nhà văn, Thủ Đức, Sài Gòn
31. Phùng Thành Chủng, Hội Nhà văn Hà Nội
32. Nguyên Ngọc, nhà văn, Hội An
33. Vũ Duy Phú, TS ngành Điện tử – Tin học, người sáng lập Viện Những Vấn đề Phát triển và Diễn đàn Lý luận Phát triển, Hà Nội
34. Lê Thân, cựu tù Côn Đảo, nguyên Tổng giám đốc DRI Dalat, quận 10, Sài Gòn
35. Phan Quốc Tuyên, kỹ sư Tin học, Genève, Thụy Sĩ
36. Hoàng Văn Khẩn, TS Sinh học, Genève, Thụy Sĩ
37. Nguyễn Sỹ Kiệt, TS KHKT Tổng Công ty Dầu khí, hưu trí tại TP HCM
38. Phan Đắc Lữ, Nhà thơ, Thủ Đức, Sài Gòn
39. Huỳnh Đắc Hương, Thiếu tướng, Trưởng Ban liên lạc các chiến sĩ Cách mạng bị địch bắt tù đày, Hà Nội
40. Nguyễn Văn Tuyến, Đại tá, Lão thành Cách mạng, Hà Nội
41. Lê Hoa, Đại tá, cựu chiến binh chống Trung Quốc, Hà Nội
42. Kim Sơn, Đại tá, Lão thành Cách mạng, nguyên đội viên Cứu Quốc quân, Hà Nội
43. Tạ Cao Sơn, Đại tá, nguyên Tham mưu phó Quân khu, Hà Nội
44. Trần Liên, Lão thành Cách mạng, Hà Nội
45. Nguyễn Nguyên Bình, Trung tá, chuyên viên nghiên cứu Trung Quốc, Hà Nội
46. Hà Tuấn Trung, nguyên Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng, Hà Nội
47. Lê Xu, nguyên Vụ trưởng thuộc Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng, Hà Nội
48. Lê Anh Hùng, nhà báo tự do, Hà Nội
49. Bùi Minh Quốc, nhà thơ, Đà Lạt
50. Thanh Thảo, nhà thơ, cư trú tại Quảng Ngãi
51. Trần Hữu Khánh, hưu trí, TP HCM
52. Phan Bá Phi, Thạc sĩ, chuyên viên cấp cao về Tin học, hưu trí, Seattle, Hoa Kỳ
53. Nguyễn Văn Hiểu, nhà giáo nghỉ hưu, Nha Trang, Khánh Hòa
54. Nguyễn Đức Quỳ, cựu giáo chức, Hà Nội
55. Phạm Ngọc Thái, nhà thơ, Hà Nội
56. Phan Thị Hoàng Oanh, giảng viên đại học, TP HCM
57. Ken Nguyen, retiree, California, Hoa Kỳ
58. Nguyễn Huệ Chi, GS, Hà Nội
59. Đặng Thị Hảo, TS, Hà Nội
60. Nguyễn Đình Nguyên, TS, Bác sĩ y khoa, Australia
61. Trần Đức Quế, chuyên viên Bộ Giao thông Vận tải, hưu trí, Hà Nội
62. Nguyễn Trọng Cảm, San Diego, Hoa Kỳ
63. Vũ An Tịnh, thương gia nghỉ hưu, Toulouse, Pháp
64. Chu Văn Keng, cử nhân Toán, viết văn thơ, Berlin, CHLB Đức
65. Phạm Kỳ Đăng, làm thơ, viết báo, dịch thuật, Berlin, CHLB Đức
66. Trần Đắc Lộc, cựu giảng viên Đại học Khoa học Huế, Praha, Czech
67. Nguyễn Đào Trường, TP Hải Dương, tỉnh Hải Dương
68. Võ Quang Tu, hưu trí, Quebec, Canada
69. Ngụy Hữu Tâm, Hà Nội
70. Hoang Nguyen, GS về Điện lực, Clichy-la-Garenne, Pháp
71. Trần Minh Thảo, viết văn, Bảo Lộc, Lâm Đồng
72. Lê Xuân Thiêm, kỹ sư, TP HCM
73. Đào Minh Châu, Tư vấn Hành chính công & Chính sách công, Hà Nội
74. Trần Văn Huynh, đã nghỉ hưu, Autralia
75. Trần Quang Trung, giảng viên Đại học Kinh tế TP HCM, TP HCM
76. Đào Đình Bình, kỹ sư hưu trí, Hà Nội
77. Lê Văn Tâm, TS, nguyên Chủ tịch Hội Người Việt Nam tại Nhật Bản
78. Trần Thiện Kế, dược sĩ, Hà Nội
79. Nguyễn Chính, luật gia, nhà báo, Nha Trang
80. Nguyễn Văn Lịch, kỹ sư Cơ khí, nghỉ hưu, Đống Đa, Hà Nội
81. Nguyễn Đăng Quang, Đại tá, nguyên cán bộ Bộ Công an, Hà Nội
82. Huỳnh Văn Thắng, quận 3, TP HCM
83. Hà Văn Chiến, cựu chiến binh, Thanh Xuân, Hà Nội
84. Nguyễn Hồng Khoái, cử nhân kinh tế, Giám đốc Cty TNHH tư vấn phát triển doanh nghiệp KN Hà Nội, Hà Nội
85. Tran Hung Thinh, kỹ sư đã nghỉ hưu, Hà Nội
86. Đỗ Minh Hiền, tốt nghiệp khoa Triết học khóa 1 Đại học Tổng hợp Hà Nội 1976-1981
87. Triệu Sang, làm ruộng, Sóc Trăng
88. Hoàng Xuân Huấn, PGS TS, giảng viên trường Đại học Quốc gia Hà Nội
89. Nguyễn Trần Hải, cựu sĩ quan Hải quân Nhân dân Việt Nam, hưu trí, TP Hải Phòng
90. Trần Tiến Đức, nhà báo, đạo diễn truyền hình và phim tài liệu, nguyên Vụ trưởng Vụ Thông tin – Giáo dục – Truyền thông, Ủy ban Quốc gia Dân số và Kế hoạch hóa Gia đình, Hà Nội
91. Pham Minh Duc, kỹ sư cơ khí, Hà Nội
92. Nguyễn Đình Cống, GS, Hà Nội
93. Mai An Nguyễn Anh Tuấn, đạo diễn điện ảnh, Hà Nội
94. Vu The Lap, Australia
95. Lê Văn Tài, kỹ sư, Quy Nhơn, Bình Định
96. Nguyễn Trọng Hoàng, bác sĩ, Paris, Pháp
97. Phạm Anh Tuấn, kinh doanh, Czech
Đợt 3:
98. Lưu Trọng Văn, nhà báo, TP HCM
99. Phạm Đình Trọng, Nhà văn, TpHCM
100. Nguyễn Bá Thuận, cựu Hội trưởng Hội Sinh viên Việt Nam tại Nhật Bản (1963), nguyên Hội viên sáng lập Hội Hữu nghị Đan-Việt (1976), thầy giáo về hưu, TP HCM
101. Nguyễn Văn Nghi, TS Sinh học, Hà Nội
102. Trần Kim Thư, Hoa Kỳ
103. Trần Kiên Quyết, Đại tá quân đội đã nghỉ hưu, Thanh Xuân, Hà Nội
104. Trần Kế Dũng, Australia
105. Chu Trọng Thu, cựu chiến binh, cựu giáo chức, Bình Chánh, Sài Gòn
106. Nguyễn Công Đức, kỹ sư điện tử, Hoa Kỳ
107. Đặng Xuân Nữa, nghề tự do, Garden Grove, California, Hoa Kỳ
108. Huu Xuan Dang, nghề tự do, Westminster, California, Hoa Kỳ
109. Peter Xuan Dang, nghề tự do, Santa Ana, California, Hoa Kỳ
110. Peter Dang, nghề tự do, Garden Grove, California, Hoa Kỳ
111. Nguyễn Cường, kinh doanh, Praha, Czech
112. Nguyễn Đắc Thắng, kỹ sư Hoá học, Genève, Thụy Sĩ
113. Trần Thiện Phụng, chuyên gia Tin học, Genève, Thụy Sĩ
114. Sơn Dương, công chức bộ Y tế, Tây Nam Sydney, Australia
115. Nguyen Thi Bich, y tá, Lausanne, Thụy Sï
116. Nguyễn Văn Đức, lao động tự do đã nghỉ, Gò Vấp, TP HCM
117. Đặng Trường Lưu, hoạ sĩ, nhà phê bình mỹ thuật, Hà Nội
118. Đào Tấn Phần, nhân viên lao công, huyện Phú Hòa, Phú Yên
119. Nguyễn Thị Thu Hương, giáo viên, Nha Trang
120. Đỗ Nguyễn Thu Hạnh, kế toán nghỉ hưu, Thuỵ Sĩ
121. Đỗ Thuý Vy, cử nhân kinh tế, Thụy Sĩ
122. Đỗ Tố Vy, cao học kinh tế, Anh Quốc
123. Nguyễn Ngọc Diệp, Cầu Giấy, Hà Nội
124. Ngô Ngọc Hà, hưu trí, Thủ Dầu Một, Bình Dương
125. Nguyễn Thanh Giang, TS Địa Vật lý, Hà Nội
126. Cao Vi Hiển, TP Kon Tum
127. Nguyen Phuc Nguyen, kỹ sư, nghỉ hưu, Hà Nội
128. Đỗ Xuân Khôi, TS, Hà Nội
129. Phạm Đức Nguyên, PGS, Hà Nội
130. Nguyễn Hoàng Vân, giáo dân Giáo xứ Thủ Thiêm, Q2, TP HCM
131. Trần Văn Hoàng, Retired database developper, Toronto, Canada
Đợt 4:
132. Hồ Sỹ Hải, cựu chiến binh, kỹ sư đã nghỉ hưu, Hà Nội
133. Tạ Thị Khôi, TS Hoá, cựu giáo chức Đại học Quốc gia Hà Nội
134. Nguyễn Ngọc Kính, GS, Hà Nội
135. Vương Tử Cốc, cựu chiến binh chống Mỹ, kỹ sư Tin học, Leipzig, Đức
136. Đặng Xương Hùng, cựu cán bộ Bộ Ngoại giao, từ bỏ Đảng Cộng sản, Genève, Thụy Sĩ
137. Nguyễn Tiến Đức, cán bộ hưu trí, TP HCM
138. Trần Thế Việt, nguyên Bí thư Thành ủy Đà Lạt, Lâm Đồng
139. Dương Hội, nhà giáo đã nghỉ hưu, nguyên Chủ nhiệm Khoa Ngoại ngữ Trường Du lịch phục vụ dầu khí Vũng Tàu, TP HCM
140. Bùi Kế Nhãn, nghề nghiệp tự do, cựu chiến binh, cựu thanh niên xung phong, TP Vũng Tàu
141. Nguyễn Hữu Chiến, TS Toán, Hà Nội
142. Phạm Vương Ánh, kỹ sư kinh tế, cựu sĩ quan QĐNDVN, TP Vinh, Nghệ An
143. Nguyễn Thị Liên, giáo sư, Phú Nhuận, TP HCM
144. Tô Thị Nhạn, nguyên Hiệu trưởng trường PTTH Gia Lạc, Hải Dương
145. Phạm Mạnh Tưởng, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 1, Hà Nội
146. Phạm Thị Lan Hương, giáo viên Vật lý, trường PTTH Yên Viên, Hà Nội
147. Đặng Minh Liên, làm việc trong ngành phim, Hà Nội
148. Jacqueline Nguyễn, professeur, Etel, Pháp
149. Nguyễn Hoàng Bá, nhà báo, Khánh Hoà
150. Vũ Hoàng Minh, TS Hóa học, cựu công chức Bộ Tài nguyên & Môi trường, đã nghỉ hưu, Hà Nội
151. Phạm Xuân Đào, Linh mục, Pháp
152. Đỗ Hữu Thạo, cựu chiến binh, cựu giáo chức, Thanh Hóa
153. Đoàn Viết Hiệp, Antony, Pháp
154. Doãn Kiều Anh, kỹ sư, TP HCM
155. Trần Hà Liên, Lausanne, Thụy Sĩ
156. Nguyễn Hữu Tiến, California, Hoa Kỳ
157. Phùng Hoài Ngọc, thạc sĩ, An Giang
158. Vũ Trọng Khải, PGS TS, chuyên gia độc lập về Kinh tế Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, TP HCM
159. Trương Thế Kỷ, kỹ sư cơ khí, Munich, Đức
160. Bùi Trọng Tuấn, dược sĩ, TP Hải Dương, tỉnh Hải Dương
161. Hà Dương Tường, nhà giáo về hưu, Compiègne, Pháp
162. Nguyễn Bá Lơi, giáo viên hưu trí, Tân Phú, TP HCM
163. Nguyen Thi Ngoc Giao, Virginia, Hoa Kỳ
164. Vũ Quý Khang, nhân viên trường học, Virginia, Hoa Kỳ
165. Luu Minh Van, giảng viên đại học, Hà Nội
166. Hà Văn Thùy, nhà văn, thành phố Hồ Chí Minh
167. Nguyen Pham Nguyen Chuong, nhân viên điều dưỡng, Thụy Sĩ
168. Lan Chi Nguyễn, Nyon, Thụy Sĩ
169. Uông Nguyễn Thị Xuân Hường, Confignon – Geneva, Thụy Sĩ
170. Ý Nhi, Nhà thơ, TP HCM
171. Tu Nguyen, hưu trí, Hoa Kỳ
172. Nguyễn Quốc Ân, cán bộ hưu trí, Hà Nội
173. Hoàng Nguyên Hồng, luật sư, Hà Nội
174. Phạm Huy Việt, cựu đại tá kỹ sư, Nghệ An
175. Nguyễn Phương Chi, biên tập viên chính, đã nghỉ hưu, Tây Hồ, Hà Nội
176. Trần Đình Nam, biên tập viên, đã nghỉ hưu, Tây Hồ, Hà Nội
177. Nguyễn Văn Phượng, quê Thanh Chương Nghệ An, cư trú tại TP Lai Châu
178. Trần Tuấn Tú, giảng viên đại học, Khoa Môi trường, Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia TP Hồ chí Minh
179. Nguyễn Ngọc Hải, nguyên kế toán trưởng Đoàn vận tải, Công ty Thủy sản, Bộ Thủy sản, TP HCM
180. Nguyen H. Liem, PhD, Philosophy Faculty, San Jose City College, California, Hoa Kỳ
181. Trần Văn Tùng, PGS TS Kinh tế, Hà Nội
182. Võ Đức Hiệu, nhà giáo, Sài Gòn
183. Lý Khắc Trung, cán bộ nhà nước nghỉ hưu, Hà Nội
184. Nguyễn Thị Minh Phương, Th.sĩ Tâm lý lâm sàng & y khoa, giảng viên khoa Xã hội học, Công tác xã hội, Đông Nam Á, trường Đại học Mở TP HCM
185. Lê Phước Nhất Sang, kế toán, TP HCM
186. Đỗ Thành Nhân, MBA, kinh doanh, Quảng Ngãi
187. Loan Wade, nurse, Oregon, Hoa Kỳ
188. Cuc Nguyen, hưu trí, Oregon, Hoa Kỳ
189. Ninh Nguyen, hưu trí, Oregon, Hoa Kỳ
190. Hanh M.Tran, Melbourne, Australia
191. Lan Pham, Melbourne, Australia
192. Chi To, Melbourne, Australia
193. Jasmine Tran, Poissy, Pháp
194. Tallys Tran, Colombes, Pháp
195. May Dang, Melbourne, Australia
196. Thao Nguyen, Melbourne, Australia
197. Hoa Nguyen, Melbourne, Australia
198. Huỳnh Thị Kim Liên, nội trợ, Sài Gòn
199. Nguyễn Thu Giang, nguyên Phó Giám đốc Sở Tư pháp TP HCM, TP HCM
Đợt 5:
200. Phạm Toàn, nhà giáo dục, Hà Nội
201. Trần Thị Tuyết, kỹ thuật viên xuất bản, Hà Nội
202. Nguyễn Tâm, kỹ sư điện cơ, Bình Thạnh, TP HCM
203. Hoàng Thị Như Hoa, bộ đội đã nghỉ hưu, Thanh Trì, Hà Nội
204. Nguyễn Tiến Dũng, TS, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Tự động hóa Việt Nam khóa 4, hiện công tác tại Đại học Kỹ thuật Quốc gia Maxkva – Bauman, Liên bang Nga
205. Trần Thuần, nghiên cứu viên sau tiến sĩ tại Đại học Potsdam, CHLB Đức
206. Tran Thi Kim Thanh, kỹ sư, hưu trí, Hà Nội
207. Trương Lợi, kỹ sư, TP HCM
208. Phạm Van Hai, Bình Thạnh, TP HCM
209. Bửu Nam, PGS TS, Huế
210. Vũ Thế Cường, TS Cơ khí, Munich, Đức
211. Nguyển Thị Hiền, Munich, Đức
212. Nguyen Bich Nga, thương gia, Westminster California, Hoa Kỳ
213. Tuyết Hà, nội trợ, Anaheim, Orange county, California, Hoa Kỳ
214. Dương Quốc Huy, cựu chiến binh, Hà Nội
215. Nguyễn Khánh Việt, cán bộ hưu trí, P. Vĩnh Phúc, Q. Ba Đình, Hà Nội
216. Trần Bảo Linh, bác sĩ, Huế
217. Nguyễn Hữu Việt Hưng, GS. TSKH, Hà Nội
218. Nguyễn Trọng Việt, Hà Nội
219. Pham Hung, hưu trí, Canada
220. Nguyễn Ngọc Xuân, Xuyên Mộc, Bà Rịa – Vũng Tàu
221. Bùi Tín, nhà báo tự do, Pháp
222. Phạm Xuân Yêm, Paris, Pháp
223. Phan Dien, 86 tuổi, kỹ sư công chánh hưu trí, cựu giáo sư trường Võ bị Quốc gia Việt Nam, sống ở Hoa Kỳ
224. Pham Van Nam, cựu chiến binh, Hà Nội
225. Lê Xuân Ban, giám định viên, TP HCM
226. Tạ Đắc Thường, lao động tự do, Phúc Thọ, Hà Nội
227. Nguyễn Thị Khánh Trâm, hưu trí,TP HCM
228. Vu Tuan, giáo sư, Hà Nội
229. Nguyễn Văn Trợ, Đại học Cần Thơ
230. Phu Pham, kỹ sư, California, Hoa Kỳ
231. Tô Oanh, giáo viên đã nghỉ hưu, TP Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang
232. Mai Khắc Bân, kỹ sư điện tử, cán bộ hưu trí, Hà Nội
233. Uông Đình Mạnh, Confignon – Genève, Thụy Sĩ
234. Nguyễn Quang Tuyến, nghệ sĩ thị giác, San Francisco, Hoa Kỳ
235. Le Van Minh, nghề cơ khí, Mönchengladbach, Đức
236. Lê Xuân Tri, cựu sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hoà, Seattle, Hoa Kỳ
237. Nguyễn Khắc Kế, kỹ sư, Nha Trang, Khánh Hòa
238. Lê Văn Đức, Australia
239. Bùi Viết Dũng, kỹ sư, Sài Gòn
240. Trần Vấn Lệ, hưu trí, California, Hoa Kỳ
241. Nguyễn Xuân Áng, cán bộ Bộ Ngoại giao đã nghỉ hưu, Hà Nội
Đợt 6
242. Nguyễn Văn Dũng, Chủ tịch Hội người Hải Phòng tại miền Trung CHLB Đức
243. Phan Cung, cựu quân nhân Việt Nam Cộng hòa, Hoa Kỳ
244. Le Dinh Hong, kế toán hưu trí, Vancouver, Canada
245. Le Thi Nhan, hưu trí, Vancouver, Canada
246. Lê Văn Điền, TS, Krakow, Ba Lan
247. Đặng Viết Trường, nhà báo, Hà Nội
248. Tran Van Tan, kỹ sư, Berlin, CHLB Đức
249. Lê An Vi, nghiên cứu độc lập về Văn hóa Việt cổ, Hà Nội
250. Van Phu Mai, cựu giáo chức, Quảng Nam
251. Nguyễn Đức Thanh, kinh doanh, Gò Vấp, TP HCM
252. Lê Minh Hoàng, kinh doanh, Gò Vấp, TP HCM
253. Trần Thị Thanh Tâm , hưu trí, Warszawa, Ba Lan
254. Nguyễn Hữu Tuyên, kỹ sư hưu trí, Sài Gòn
255. Nguyễn Thanh Hà, Giám đốc, Tổng biên tập Nxb Đại học Huế
256. Trần Vũ Việt Trung, kỹ sư, cựu sĩ quan chống Mỹ, chống Tàu, TP HCM
257. Ngô Kim Hoa (Sương Quỳnh), nhà báo tự do, CLB Lê Hiếu Đằng, TP HCM
258. Lại Thị Ánh Hồng, nghệ sĩ, CLB Lê Hiếu Đằng, TP HCM
259. Vũ Đức Dũng, thường dân, Phú Nhuận, TP HCM
260. Nguyễn Lê Thu Mỹ, hưu trí, TP HCM
261. Lý Thành Đạt, khu chế xuất Linh Trung, TP HCM
262. Đỗ Ngọc Quỳnh, nhà giáo đã nghỉ hưu, Bình Thạnh, TP HCM
263. Vũ Thế Dũng, Giám đốc NXB VIPEN, CHLB Đức
264. Võ Văn Nhuần, Houston, Texas, Hoa Kỳ
265. Hoàng Nghĩa Lược, cán bộ nghỉ hưu, ngoài 80 tuổi, Đống Đa, Hà Nội
266. Nguyễn Mậu Cường, nguyên giảng viên trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, Đại học Agostinho Neto, hưu trí tại Luanda, Angola.