Nam Nguyên, phóng viên RFA
Phơi lúa đóng bao ở tỉnh Hậu Giang, ảnh minh họa chụp hôm 2/3/2016.
Kêu gọi phá đê bao, bỏ vụ ba cứu ĐBSCL
Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn vẫn muốn sản xuất thật nhiều lúa để có gạo xuất khẩu, trong khi báo chí và các nhà khoa học cảnh báo “nguy cơ tan rã Đồng bằng sông Cửu Long cần xác định lại chiến lược an ninh lương thực”.
Thời báo kinh tế Saigon Online ngày 22/6/2016 đưa tin, ông Lê Quốc Doanh Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn, kêu gọi các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long mở rộng sản xuất vụ lúa hè thu và thu đông 2016 lên mức tối đa, ở những nơi nằm trong phạm vi an toàn để bù vào sản lượng sụt giảm trong vụ đông xuân 2015-2016 vừa qua. Nhà báo lưu ý rằng, việc mở rộng diện tích sản xuất lúa, nhất là ở vụ thu đông tức vụ lúa thứ ba bên trong các đê bao, có thể dẫn đến nguy cơ khiến hạn và xâm nhập mặn tiếp tục hoành hành trong vụ đông xuân 2016-2017 sắp tới.
Trong dịp trả lời chúng tôi TS Dương Văn Ni, Khoa Môi trường Viện Đại học Cần Thơ từng phân tích:
Hệ thống đó góp phần tăng sản lượng lúa nhưng mà mặt khác nó làm cho lượng nước dự trữ tự nhiên của đồng bằng sông Cửu Long mất đi rất là nhanh chóng.
– TS Dương Văn Ni
“Đồng bằng sông Cửu Long có hai vùng trữ lũ rất lớn là Đồng Tháp Mười và tứ giác Long Xuyên, nhưng trong những năm gần đây do chạy theo sản lượng lúa đã đắp rất nhiều đê bao để ngăn không cho nước lũ tràn vào khu vực này, để tăng diện tích canh tác lúa vào mùa lũ. Cái đó làm cho lượng nước ngọt Đồng bằng sông Cửu Long không được giữ lại, do đó khi mùa hạn đến thì lượng nước ngọt tại chỗ của đồng bằng sông Cửu Long không còn để mà đẩy bớt mặn ra. Một mặt khác, các công trình thủy nông của đồng bằng sông Cửu Long trong những năm gần đây lại thiên về xu thế là làm sao tiêu nước ra thật nhanh vào mùa mưa và ngăn chặn nước vào mùa lũ, để tăng diện tích canh tác lên. Hệ thống đó góp phần tăng sản lượng lúa nhưng mà mặt khác nó làm cho lượng nước dự trữ tự nhiên của đồng bằng sông Cửu Long mất đi rất là nhanh chóng. Và do đó khi thiếu nguồn cung cấp nước từ phía thượng nguồn thì đồng bằng sông Cửu Long rơi vào tình trạng hạn nặng rất là nghiêm trọng…”
Báo Thanh niên Online trong những ngày từ 20 tới 23/6 có loạt bài viết cho thấy Đồng bằng sông Cửu Long đang nghèo đi, xét từ góc độ phù sa. Nguyên nhân bao gồm việc các đập thủy điện từ Trung Quốc và các nước thượng nguồn cùng nhau khống chế dòng Mê kông, khiến lượng nước về đồng bằng sông Cửu Long không những ít đi mà còn mất cả lượng phù sa trong đó.
Bên cạnh đó, chính sách xây dựng đê bao để làm thêm lúa vụ ba ở đồng bằng sông Cửu Long từ giữa thập niên 1990 đến nay, cũng đã làm cho tình hình đất nghèo phù sa càng thêm trầm trọng. Qua chính sách đê bao để tăng vụ, Việt Nam đã gia tăng sản lượng gạo, mỗi năm xuất khẩu 6-7 triệu tấn gạo. Nhưng kết quả nghịch lý là người nông dân vẫn cứ nghèo. Tờ Thanh niên trích lời chuyên gia Nguyễn Hữu Thiện cho biết, GDP Tổng sản phẩm nội địa đầu người của Lào năm 2013 là 1.638 USD/người/năm, trong khi năm 2014 GDP bình quân đầu người của Đồng bằng sông Cửu Long chỉ mới đạt 1.242 USD/người/năm.
Một cánh đồng thiếu nước ở huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng hôm 2/3/2016. AFP PHOTO.
Trong nhiều năm liền, GSTS Võ Tòng Xuân nhà nông học nổi tiếng ở Đồng bằng sông Cửu Long đã phân tích sự lợi bất cập hại của việc làm lúa bằng mọi giá, mà ông gọi là kém thông minh, qua việc xây dựng đê bao khép kín để làm lúa vụ ba trong mùa lũ. Trong những dịp trò chuyện với chúng tôi, GSTS Võ Tòng Xuân nhiều lần nhấn mạnh
“Làm vụ ba rất là tốn kém, tốn kém về mặt đầu tư và công sức của người nông dân, rồi tốn kém về mặt mất phù sa trong đồng ruộng. Thứ ba là phải dùng phân bón nhiều hơn bình thường, dẫn tới sâu bệnh cũng nhiều hơn. Người nông dân muốn có năng suất mong muốn đã bón phân nhiều hơn, thừa phân bón, nhưng thực tế phân bón không được hấp thu hữu hiệu. Số liệu nghiên cứu của Viện lúa Quốc tế cho thấy rất rõ là khoảng 60% lượng phân bón bị bốc hơi thành khí ammonia hoặc ôxít nitơ nitrous oxide là hai loại khí nhà kiếng rất độc, nó làm trầm trọng thêm biến đổi khí hậu. Người ta không thấy được những điều này, chỉ thấy có thêm hạt lúa, theo tôi làm với bất cứ giá nào thì không phải là thông minh lắm”.
Trong bài “Nguy cơ tan rã đồng bằng sông Cửu Long: Xác định lại chiến lược an ninh lương thực” trên Thanh niên Online, nhà báo Chí Nhân trích lời PGS-TS Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viên Nghiên cứu biến đổi khí hậu Đại học Cần Thơ cho biết, tính đến năm 2012 tổng chiều dài của các con kênh đã được đào ở Đồng bằng sông Cửu Long là 91.064 km, dài gấp đôi đường xích đạo. Đê bao được đắp cao chừng 1,5 tới 2 mét ngăn cách dòng kênh với đồng ruộng. Những con kênh, đê bao được tạo nên để phục vụ mục đích chính là sản xuất lúa vụ 3, bên cạnh các mục tiêu như cải thiện điều kiện sống cho người dân và giao thông…Nhưng mặt trái là kênh, đê tăng làm cho nước thoát ra biển nhanh hơn, gây thiếu nước vào mùa khô, gây ngập ở khu vực đô thị trong mùa mưa lũ là những thiệt hại mà chưa ai tính đến.
Vắt kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên quí giá
Báo Thanh niên dẫn nghiên cứu của ông Nguyễn Hữu Thiện chuyên gia sinh thái Đồng bằng sông Cửu Long cho thấy, 1 ha lúa sản xuất 2 vụ, lợi nhuận đạt 31 triệu đồng/năm. Làm 3 vụ lợi nhuận tối đa cũng chỉ đạt chưa tới 38 triệu đồng/ năm, nhưng phải tốn chi phí đắp đê, duy tu bảo dưỡng, trạm bơm. Vẫn theo chuyên gia Nguyễn Hữu Thiện và báo Thanh niên, tổng chi phí đầu tư làm đê và trạm bơm để có thể sản xuất lúa vụ 3 lên tới hơn 29 triệu đồng cho một ha, chưa kể những hệ lụy như vừa phân tích. Trung bình mỗi năm Đồng bằng sông Cửu Long sản xuất 25 triệu tấn lúa, trong đó xuất khẩu khoảng 10 triệu tấn tương đương 6-7 triệu tấn gạo. Như vậy, ông Thiện cho rằng, tăng vụ tăng sản lượng không hoàn toàn vì vấn đề an ninh lương thực, mà chủ yếu tăng lượng gạo xuất khẩu. Ông Nguyễn Hữu Thiện nhận định, trong khi vùng châu thổ sông Cửu Long ngày càng nghèo đi về mặt dinh dưỡng do giảm phù sa và có thể dẫn tới nguy cơ tan rã trong một tương lai không xa thì trước mắt chúng ta lại đang vắt kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên quí giá này để xuất khẩu.
Mình làm hai vụ lúa thì mình cắt vụ để sâu rầy không tiếp nối, người ta vẫn đạt được năng suất 14-15 tấn như đồng bào di cư ở Cái Sắn huyện Tân Hiệp, ở đây không bao giờ làm ba vụ.
– GS Võ Tòng Xuân
Trong dịp trả lời chúng tôi, Giáo sư Tiến sĩ Võ Tòng Xuân cũng nhiều lần đề xuất chỉ nên làm hai vụ lúa một năm ở đồng bằng sông Cửu Long:
“Mình làm hai vụ lúa thì mình cắt vụ để sâu rầy không tiếp nối, người ta vẫn đạt được năng suất 14-15 tấn như đồng bào di cư ở Cái Sắn huyện Tân Hiệp, ở đây không bao giờ làm ba vụ. Còn mấy ông làm ba vụ ở Đồng Tháp An Giang thì cũng đạt 13-14 tấn cỡ đó mà chi phí cao gấp rưỡi bên Tân Hiệp. Mình phải biết làm kinh tế, chứ mấy ông lãnh đạo cứ đè dân xuống cho họ làm ra thêm lúa để được thăng quan tiến chức. Bỏ đê bao đi mình làm hai vụ, vụ kia để cho phù sa vào mình nuôi trồng thủy sản trong vụ mùa mưa. Thí dụ ở Tam Nông Đồng Tháp làm ba vụ nhưng vụ giữa họ nuôi tôm càng xanh…”
Các nhà khoa học đã mòn mỏi khuyến cáo, cần phá bỏ đê bao trả lại môi trường thiên nhiên cho đồng bằng sông Cửu Long. Nông dân chỉ nên làm hai vụ lúa, mùa mưa lũ về nên để thiên nhiên làm vệ sinh đồng ruộng và bồi đắp phù sa. Nhất là trong giai đoạn hiện nay sông Mê Kông bị khống chế về lượng nước và nước đã bị mất nhiều phù sa qua các đập thủy điện và hồ chứa.
Trong bài trên báo Thanh niên, PGS-TS Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viên Nghiên cứu biến đổi khí hậu Đại học Cần Thơ, dẫn nghiên cứu của Đại học Quốc gia Singapore cho thấy lượng phù sa về đồng bằng sông Cửu Long giảm từ 160 triệu tấn/năm xuống 75 triệu tấn, sau khi Trung Quốc xây dựng và vận hành đập thủy điện Mạn Loan. Chuyên gia ước tính lượng phù sa sẽ tiếp tục giảm xuống chỉ còn khoảng 42 triệu tấn/năm, một khi các đập trên dòng chính sông Mê Kông ở Lào và Campuchia đi vào hoạt động.
Cảnh báo “nguy cơ tan rã Đồng bằng sông Cửu Long cần xác định lại chiến lược an ninh lương thực” qua loạt bài của báo Thanh niên Online, chuyên gia Nguyễn Hữu Thiện kêu gọi, cần đổi mới tư duy về an ninh lương thực với tầm nhìn dài hạn. Cần làm rõ nội hàm an ninh lương thực cho ai và vì ai. Thay vì vắt kiệt sức khỏe của đất, thì cần phải tìm cách duy trì sự màu mỡ của nó để có thể khai thác càng lâu càng tốt. Chuyên gia Nguyễn Hữu Thiện cho rằng đó mới là chính sách an ninh lương thực cho quốc gia về lâu dài.
N.N.