Rupert Neudeck và “Một Con Tàu cho Việt Nam”

Thục Quyên

clip_image001

Tôi vừa viết vào quyển sổ phúng điếu Tiến sĩ Rupert Neudeck:

Nur wenige Menschen sind wirklich lebendig und die, die es sind, sterben nie.

Rupert, Auf Wiedersehen!

Có rất ít người thật tình sống, và những người đã thật tình sống thì không bao giờ chết.

Rupert, hẹn gặp lại anh!

Tổng thống Đức Joachim Gauck,Thủ tướng Đức Angela Merkel, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Đức Frank-Walter Steinmeier,… không thể kể hết những nhân vật tên tuổi của nước Đức đã viết thư chia buồn khi được tin. Còn công đồng người Việt tỵ nạn tại Đức, dù do tàu Cap Anamur vớt hay không, thì đều đang thảng thốt, chao đảo: không ai có thể tưởng tượng Rupert Neudeck đã trút hơi thở cuối cùng.

Lẽ dĩ nhiên Rupert cũng không còn trẻ nữa, vừa ăn sinh nhật thứ 77 cách đây nửa tháng, cũng đã là ông nội ông ngoại rồi, và tin Rupert phải mổ tim thì ai cũng biết. Nhưng thật tình không ai nghĩ tới con người gầy như một bộ xương biết đi nhưng đầy nghị lực ấy, lại có thể không còn bao giờ ngồi dậy nữa, để nói một cách chắc nịch: “mình phải làm… “.

Cũng chẳng ai trước đây tưởng tượng Rupert Neudeck có thể chết trên giường bệnh.

Vì tuy phần lớn thời gian làm công việc biên tập viên kiếm cơm nuôi gia đình tại Đài phát thanh Deutschlandfunk cũng như làm việc từ thiện được làm tại bàn giấy, nhưng không thiếu những cuối tuần, Rupert phải bay tới những nơi dầu sôi lửa bỏng,  thứ Sáu bay đi, tối Chủ nhật về để kịp thứ Hai đi làm: Somalia, Uganda, Ethiopia, Chad, Mozambique, Eritrea, Iraq, Angola, Bosnia, Rwanda, Chechnya, Libya, Israel, Syria… (không biết kể đã đủ chưa) tới nỗi mà vợ anh, Christel Neudeck, chỉ còn cách đối trị với nỗi lo bằng một câu nói đùa bất hủ về ông chồng mình: “ốm tong ốm teo thế kia thì đạn chỉ bay hụt bên cạnh”.

Chỗ nào có giặc giã và con người lâm vào hoàn cảnh tuyệt vọng thì Rupert Neudeck “phải” tới, kéo những người khác vào những dự án kiểu bất khả thi “mission impossible”, điều khiển chương trình với một sự kiên quyết đôi khi độc đoán để tiến tới thành công, khi những tổ chức khác đã lắc đầu không làm được.

Câu hỏi của Rupert luôn luôn là “tại sao không?”; “Tại sao mình không cứ bắt đầu đi?”.

Do đó những dự án của tổ chức Cap Anamur, hay sau này tổ chức Gruenhelme, rất đa dạng, đi từ tháo gỡ mìn, xây dựng các bệnh viện, trạm y tế và thực phẩm, trường học và đường giao thông, hệ thống lọc nước, hệ thống năng lượng mặt trời,… nhưng dự án sôi nổi đặc biệt nhất vẫn là dự án đầu tiên vớt người trên biển Đông, cứu sống hơn 11.300 người Việt Nam tỵ nạn cộng sản, đưa tên tuổi Rupert Neudeck đi vào lịch sử.

Một Con Tàu cho Việt Nam

Tất cả bắt đầu bằng hình ảnh những con người khốn khổ nằm lả trong một chiếc thuyền con trên đại dương mênh mông trên màn ảnh vô tuyến và một ly cà phê trong quán Café Boule d’Or với triết gia Pháp André Glucksman sáng ngày 1/02/1979 (1).

Rupert Neudeck kể: Glucksman vừa từ Mã Lai về và cho biết đã có 40.000 người Việt Nam dạt vào bờ hòn đảo Pulau Bidong, những người quyết ra đi mà không biết sẽ đi về đâu, bỏ lại đằng sau họ một đất nước trong tay cộng sản, một đất nước mà họ mô tả là cái cột đèn nếu có chân cũng bỏ để ra đi. Glucksman cũng báo tin dự án một con tàu cho Việt Nam, Ile de Lumière, do ông và Bác sĩ Bernard Kouchner khởi xướng đã thuê được tại Nouvelle Calédonie nhưng còn thiếu tiền để đi vào hoạt động.

Bên cạnh hình ảnh những con thuyền lênh đênh trên biển cả bất cứ lúc nào cũng có thể bị vùi dập bởi sóng cả hay hải tặc, lực đẩy Rupert Neudeck phải hành động là sự dấn thân ngọan mục trước đó của giới trí thức Pháp. Rupert viết: “Cách người Pháp tiến hành những hoạt động nhân đạo của họ có một sức hút vô cùng mạnh đối với tôi”. Đã từng nghiên cứu và viết luận án Tiến sĩ về “Đạo đức chính trị với Jean-Paul Sartre và Albert Camus” (Politische Ethik bei Jean-Paul Sartre und Albert Camus), Rupert hết sức khâm phục thái độ cao cả của Sartre và đối thủ chính trị của ông này là nhà triết lý và xã hội học Raymond Aron, người mà Sartre đã mạ lỵ là “con chó chống cộng” và hai bên đã cắt đứt tình bạn suốt 30 năm vì những sự khác biệt chính trị và tư tưởng.

Trực diện với thảm cảnh những thuyền nhân đang chết đuối trên biển cả, trong một cuộc họp báo rất lớn tại Hotel Lutetia, Paris, ngày 20/06/1978, với sự hiện diện của một số rất đông những nhân vật lỗi lạc của Pháp và Âu châu từ cánh tả đến cánh hữu, Sartre đã nói: “Tôi ủng hộ những con người mà có lẽ không phải đã là bạn tôi vào thời kỳ Việt Nam đấu tranh cho tự do, nhưng điều này chẳng có gì là quan trọng, vì đó là những người đang gặp nguy hiểm đến tính mạng. Hôm nay, tôi đứng đây, rời xa mọi ý kiến chính trị, và chỉ hành xử theo đạo đức. Nhân quyền là quyền được cứu sống khi gặp nguy hiểm đến tính mạng, là được giúp đỡ khi hoạn nạn“.

Trên chuyến tàu lửa từ Paris về nhà, Rupert Neudeck có ý định noi gương nhóm “Một Con Tàu cho Việt Nam”, dựa vào thế thuận lợi của mình trong ngành truyền thông và ảnh hưởng của những người trí thức cùng những nghệ sĩ Đức có tên tuổi, để gây một phong trào quyên tiền ủng hộ con tàu Ile de Lumière của Pháp.

Tháng 7/2015, nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày mất của nhà văn Heinrich Böll (giải Nobel Văn học 1972) Rupert Neudeck đã viết trong bài tưởng niệm:

Tôi không bao giờ quên hai câu Böll nói để trả lời câu hỏi của tôi có nên làm dự án ủng hộ chương trình cứu người vượt biển không: “Có, Neudeck, làm đi. Có tôi”… Böll là người đã chỉ đường cho chúng ta đừng mãi đuổi theo những định kiến về những người khác, đừng kiệt sức vì chống Cộng sản và Moscou, mà luôn biết rằng trong những nước độc tài có biết bao nhiêu những Con Người đang muốn kết nối với những dân tộc khác”.

Tháng 4/1979, Heinrich Böll, Rupert và vợ là Christel Neudeck, đã thành lập “Ủy ban Một con tàu cho Việt Nam” Đức với mục đích quyên tiền ủng hộ chương trình của Pháp. Nhưng tên tuổi của Böll vẫn có vẻ chưa đủ để được sự ủng hộ mạnh mẽ trong dân chúng.

Đoán biết người dân Đức có khuynh hướng thích đóng góp vào một dự án hoàn toàn Đức, Rupert Neudeck, Heinrich Böll cùng với nhà văn Martin Walser và dân biểu Quốc hội Norbert Blüm thành lập hội “Ein Schiff für Vietnam” và chỉ 3 ngày sau khi được giới thiệu trên truyền hình, số tiền quyên góp lên tới 1,2 triệu Đức mã. Rupert Neudeck hiểu sự sốt sắng ủng hộ này như một lời nhắn nhủ để khởi động một dự án hoàn toàn Đức, do đó anh đem cầm cái nhà nhỏ của gia đình lấy tiền thêm vào, tự mướn một con tàu để ra khơi thi hành công việc cứu người vượt biển mang tên Cap Anamur. Từ năm 1979 đến 1987, Cap Anamur đã cứu trên 11.300 thuyền nhân và săn sóc y tế cho trên 35.000 người.

Tôi không biết làm sao, nhưng tôi biết là phải làm

Dù đã cứu bao nhiêu ngàn mạng sống, Rupert Neudeck không hề có dáng dấp của một thiên thần.

Những người đã từng quen biết, gặp gỡ và làm việc chung, tả con người anh với những từ rất ấn tượng:  kiên định, khó khăn, bướng bỉnh, độc đoán, một nhà quản lý khủng hoảng, một người” cực độ trong vấn đề từ thiện”, “kẻ câu…người”,…

Đáp lại lời phê bình anh là một nhà cách mạng lãng mạn, Rupert khẳng định “Tôi không lãng mạn. Tôi đã lớn lên trong ảnh hưởng của Sartre và Camus – cách mạng đóng một vai trò quan trọng”.

Quyển sách cuối cùng Rupert viết mang tựa đề “Sống cực độ” và anh cắt nghĩa:

cực độ đây có nghĩa là không hèn nhát, không xu thời”. Thấy là làm“.

Tóm lại, Rupert làm tất cả những gì anh nghĩ là đúng, và làm ngay lập tức.

Những chữ  “khó quá”, “nguy hiểm quá “, “phức tạp quá” không nằm trong từ ngữ của Rupert.

Ngược lại phải có sức chống cự, phải thay đổi lối suy nghĩ, phải dũng cảm can thiệp (vào những tình huống bất công, nguy hiểm).

Vì “cực độ trong vấn đề từ thiện” như vậy, nên Rupert Neudeck nhiều lần đã phê bình cách làm việc cứng ngắc, thiếu linh động của Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tỵ nạn. Cũng như anh đã lớn tiếng mơ ước tôn giáo “Bớt trầm hương và vị kỷ, thay vào đó thêm những chương trình phúc lợi tinh thần và trợ giúp cụ thể cho những người có nhu cầu”.

Mới đây, vào đầu tháng 4/2016 nhân dịp Rupert và Christel Neudeck nhận chung giải thưởng Erich-Fromm khen tặng sự dấn thân của họ trong việc hỗ trợ người tỵ nạn, Rupert đã phát biểu:

” Công việc của chúng tôi ít khi được gọi là thành công. Thường hay gặp thất bại hơn”

và anh đổi giọng hóm hỉnh “sự cộng tác giữa chúng tôi rất hoàn hảo: tôi to mồm còn bà ấy lấy quyết định”.

Gia tài để lại

Con tàu Cap Anamur không phải là con tàu đầu tiên đi cứu người Việt Nam vượt biển lánh nạn cộng sản. Trước đó là tàu Ile de Lumière của Pháp mà gần như cả thế giới đều nghe tới. Rất ít ai biết rằng trước Ile de Lumière, năm 1976, còn có hai tàu nhỏ ,Tàu Roland và tàu Leapdal, do một tu sĩ Phật giáo nhỏ bé, đứng trước nỗi thống khổ và những cái chết tức tưởi của thuyền nhân trong sự phớt lờ của toàn thế giới, đã quyên góp để cấp bách đi làm công tác vớt người, với ý định đưa về Guam (lãnh thổ Hoa Kỳ) hoặc qua Úc và vận động báo chí để xin hai quốc gia này chấp nhận và cũng đồng thời báo động cho thế giới về sự có mặt của thuyền nhân trên biển cả.

Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc đã hết sức bực mình và chương trình bị những thế lực quốc tế ngăn chặn. Người tu sĩ trẻ ngày đó hôm nay là Thiền sư Nhất Hạnh. Thầy đã nhận chấm dứt chương trình sau khi thương lượng để những người đã vớt, được chấp thuận và đưa đi tỵ nạn ở Úc.

Cap Anamur và Ile de Lumière đã thành công trong sứ mạng cao cả cứu mạng sống của nhiều chục ngàn người và đặt các nước Âu Mỹ vào tình thế không được nhắm mắt làm ngơ. Vì những người trí thức của Pháp và Đức đã hãnh diện với trách nhiệm coi trọng Con Người hơn mọi khác biệt chính trị và tư tưởng. Và vì lòng rộng lượng, nhân đạo của nhân dân Pháp và Đức đã đóng góp tiền bạc để ủng hộ hai chương trình đi cứu người cũng như áp lực Chính phủ hai quốc gia phải mở cửa đón người tỵ nạn. Một đỉnh núi cao chỉ là đỉnh núi vì có hàng triệu những hòn đá lớn nhỏ nằm ở dưới.

Rupert Neudeck đã cắt nghĩa tại sao anh có đủ sức mạnh để làm những việc mà người khác cho là phi thường: “Vì tôi ý thức thật là một món quà tuyệt vời được sống trong một xã hội tự do, và cũng một phần do ảnh hưởng của dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu“.

Rupert thân quí,

Hôm nọ khi anh mở mắt, Christel có hỏi anh muốn nghe Mozart không thì anh gật đầu. Là Fan của Mozart, tôi tin rằng anh đang rất thanh thản trong tiếng nhạc. Những người Việt thương yêu anh mấy ngày qua hết lòng tỏ bày tình cảm qua những bài chia buồn đăng trên cả trang báo hay tổ chức đi dự lễ tiễn đưa anh. Đừng vội la nhé, đó chỉ là phần nhỏ. Phần lớn tiền quyên góp là để giúp vào quỹ của hội Grünhelme.

Gia tài anh để lại là quí trọng Con Người, không để cho những khác biệt về tư tưởng, tôn giáo hay chính trị giết hại Con Người, chúng tôi sẽ nâng niu, gìn giữ và dũng cảm bảo vệ.

T.Q.

(1)https://gruenhelme.de/ein-mitgruender-von-cap-anamur-ist-tot-andre-glucksman/

Tác giả gửi BVN

This entry was posted in văn hoá. Bookmark the permalink.