Nguyễn Văn Thân
Vào ngày 23/3/2016, một số giáo sư của Hiệp Hội Luật Quốc Tế Đài Loan đã đồng ký tên vào một bản đệ trình gửi đến Tòa Trọng Tài về Luật Biển đang trong giai đoạn chuẩn bị ban hành phán quyết về vụ kiện “Đường Lưỡi Bò” của Phi Luật Tân. Các vị này gồm có GS Charng-Ven Chen của Đại học National Chengchi & Soochow University, GS Chun-I Shen của National Chengchi University, GS Nigel N.T. Li của Soochow University, Yann-Huei Song Nghiên cứu sinh Viện Âu và Mỹ học (Institute of European and American Studies, Academia Sinica), GS Kuan-Hin Wang và GS Michael Sheng-Ti Gau của National Taiwan Normal University.
Hiệp Hội Luật Quốc Tế Đài Loan nguyên thủy có tên là Hiệp Hội Luật Quốc Tế Trung Hoa được thành lập vào ngày 10/8/1958 như là một hội phi lợi nhuận độc lập theo luật của Đài Loan. Năm 1961, Hiệp Hội này gia nhập mạng lưới Hội Luật Quốc Tế (network of International Law Association (ILA)) và trở thành chi nhánh của ILA tại Đài Loan. Mục đích của Hiệp Hội là phát hành tài liệu và tổ chức các cuộc hội thảo cho giới hàn lâm về luật quốc tế. Trong hơn nửa thập kỷ sinh hoạt, Hiệp Hội đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo quốc tế gồm có các cuộc Hội Thảo Khu Vực Châu Á-Thái Bình Dương của Hội Luật Quốc Tế vào năm 1995, 2011 và 2013.
Lý do Hiệp Hội nộp bản đệ trình này là vì trong các phiên xử trước tòa, luật sư của nguyên đơn Phi Luật Tân lập luận rằng Ba Bình (Itu Aba hoặc Taipei Island theo cách gọi của Đài Loan) không phải là một hòn đảo mà chỉ là đá theo định nghĩa của Điều 121(3) của Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS).
Vào ngày 7/7/2015, GS Philippe Sands, một trong những luật sư của nguyên đơn trình bày trước tòa rằng “Ba Bình là thực thể lớn nhất trong vòng cung phía Nam đã do Đài Loan chiếm đóng từ 1946. Diện tích của nó không quá 0,43 km vuông. Nó không có dân số thường trực. Không có nước có thể uống được và không sản xuất nguồn lương thực nông nghiệp đáng kể“. Trong phiên xử kế tiếp vào ngày 30/11/2015, Paul Reichler, luật sư của nguyên đơn trình bày 8 lập luận với tòa về tình trạng pháp lý của Ba Bình gồm có: Ba Bình không có nước uống, không có điều kiện trồng trọt để nuôi dưỡng con người, không bao giờ có thổ dân sinh sống và ngoại trừ quân lính không có thường dân cư ngụ. Binh lính hoàn toàn dựa vào tiếp tế từ đất liền ở Đài Loan và không có bất cứ sinh hoạt kinh tế nào trên thực thể này.
Vào ngày 16/12/2015, Tòa đề nghị với Phi Luật Tân và Trung Quốc cung cấp thêm chi tiết về tình trạng của các thực thể gồm có Ba Bình chẳng hạn như thuê các nhà chuyên môn về thủy văn học làm báo cáo, viếng thăm các thực thể hoặc thu nhận các bản đệ trình từ những người “bạn của tòa” (amicus curiae submissions). Các bản đệ trình này đến từ những người không can dự vào vụ kiện nhưng có thể cung cấp chi tiết giúp tòa đi đến phán quyết một cách đúng đắn. Dĩ nhiên là những người bạn của tòa phải có đủ kiến thức chuyên môn và tính độc lập chớ không phải là một bộ phận tuyên truyền của nhà nước hoặc một thế lực nào khác.
Ba Bình là một đảo san hộ thuộc cụm Nam Yết của quần đảo Trường Sa, nằm cách đảo Sơn Ca 12 km về phía tây và cách đảo Nam Yết khoảng 20 km. Ba Bình là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan và Phi Luật Tân.
Bản đệ trình của Hiệp Hội Luật Quốc Tế Đài Loan đưa ra một số lập luận quả quyết Ba Bình là của Đài Loan và là một hòn đảo thực thụ có thể duy trì đời sống con người và có nền kinh tế độc lập. Thứ nhất, nó là hòn đảo lớn nhất tại Trường Sa và là đảo duy nhất có nước ngọt. Sau Đệ Nhị Thế Chiến, chính quyền Trung Hoa Dân Quốc gửi tàu chiến ROCS Taiping tiến chiếm đảo này vào năm 1946 và kể từ đó đã chiếm hữu liên tục trong 70 năm qua. Hầu hết các quốc gia cũng như các học giả luật quốc tế hoặc luật biển đều công nhận Ba Bình là một hòn đảo. Dân số trên đảo hiện nay khoảng 200, đa số là lực lượng tuần duyên nhưng cũng có bác sĩ, nha sĩ, y tá, thợ xây cất và nghiên cứu sinh. Một số trong nhóm này cư ngụ thường trực trên đảo. Những người này là bằng chứng cho thấy Ba Bình có thể nuôi sống con người.
Thứ hai, trên đảo gồm có nhà cửa và phương tiện cung cấp điện, đường xá, bệnh viện, bưu điện, hải đăng, nghĩa địa, đường băng dài 1.200 m và một ngôi chùa. Thứ ba, đời sống con người trên đảo Ba Bình theo bản đệ trình đã được ghi lại từ thời Nhà Tống 960-1279 A.D.) và Nhà Thanh (1644-1912 A.D.). Trên đảo có ngôi mộ viết tên chữ Hoa của người chết là ‘’Chun-Zhi Guo’’ và hai chữ ‘’Royal Qing’’ chứng minh là người Trung Quốc đã sinh sống trên đảo từ thời Nhà Thanh. Vào năm 1867, Bộ Thủy Văn của Anh (Hydrographic Department of Great Britain) ghi nhận là ngư dân Hải Nam đã có mặt trên đảo Ba Bình để bắt hải sâm. Năm 1919, Okura Unosuke một người Nhật Bản đã đến Ba Bình để tìm hiểu về khả năng khai thác phân bón (phosphoric guano) ghi nhận là có ngư dân Trung Quốc cư ngụ. Từ năm 1939-1945, Nhật sử dụng Ba Bình làm căn cứ tàu ngầm. Khi quân đội Trung Hoa Dân Quốc tiến chiếm Ba Bình vào năm 1946 thì đã có một số nhà cửa, giếng nước, ngôi chùa, cầu tàu và cả con chó chăn cừu trên đảo chứng minh có đời sống con người. Kể từ đó, Đài Loan đã tiến hành khai thác khoáng sản, đánh cá, chăn nuôi và trồng trọt.
Thứ tư, Ba Bình có nguồn nước ngọt dồi dào. Hiện tại có 4 giếng nước ngọt ước lượng có thể cung cấp 237.000 tấn nước hàng năm gồm có nước uống hoặc 65 tấn nước uống hàng ngày đủ cho dân số từ 1000-1500 người. Đất trên đảo thích hợp cho việc trồng trọt và nuôi sống người dân. Dựa vào các cuộc khảo sát vào ngày 22 và 23 tháng Giêng năm 2016 thì có tổng cộng 147 loài cây và 27 loài thực vật trên đảo. Có khoảng 50 cây đu đủ và 500 cây dừa hoang dã. Các loài thực vật khác gồm có dưa, bí, bắp, khoai, gừng và chuối được trồng trên đảo có thể nuôi dưỡng con người.
Khi các công ty Nhật bắt đầu hoạt động khai thác mỏ trên đảo, họ thấy có rất nhiều động vật như rùa và chim biển. Người Nhật cũng mang theo chuột từ trên tàu và sau đó họ nuôi mèo và các con mèo này trở thành mèo hoang. Chính quyền Đài Loan cũng đã xuất khẩu sang Ba Bình một ‘’Nông Trại Hạnh Phúc’’ (Happy Farm) chăn nuôi gà và dê để cung cấp cho người dân trên đảo. Các công ty Nhật đã bắt đầu khai thác mỏ phosphate từ 1921. Họ lập đường rầy xe lửa, cất nhà kho, phòng ngủ tập thể, làm cầu tàu và đào giếng. Dưạ trên những yếu tố nêu ra, Hiệp Hội Luật Quốc Tế Đài Loan lập luận rằng Ba Bình rõ ràng là một hòn đảo có thể nuôi sống con người và có đời sống kinh tế riêng theo đúng định nghĩa của Điều 121(1) của UNCLOS.
Tóm lại, mục chính của bản đệ trình là phản bác lập luật của Phi Luật Tân là tất cả các thực thể ở Trường Sa trong đó có Ba Bình đều là đá chớ không phải là đảo và vì vậy không được hưởng quy chế vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Do đó, nếu Tòa chấp nhận lập luận của Hiệp Hội Luật Quốc Tế Đài Loan Ba Bình là một hòn đảo có đủ quy chế vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thì sẽ đánh vào trọng điểm đơn kiện của Phi Luật Tân. Tuy không bao phủ như Đường Lưỡi Bò nhưng Ba Bình với vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý sẽ là một sức mạnh và chủ quyền lãnh hải đáng kể dựa vào vị trí trung điểm của nó tại Biển Đông.
Thật ra, bản đệ trình của Hiệp Hội Luật Quốc Tế Đài Loan nằm trong kế hoạch chiến lược của cựu Tổng thống Mã Anh Cửu. Đài Loan không phải là một quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc và do đó không thể là thành viên của UNCLOS. Vào ngày 28 tháng Giêng, Tổng thống Mã Anh Cửu đã bay ra Ba Bình để thị sát và “chúc Tết” lực lượng tuần duyên và cư dân Đài Loan. Trước đó không lâu, chính quyền của ông đã chi hơn 100 triệu Mỹ kim nâng cấp các phương tiện trên đảo gồm có xây dựng bến cảng, bệnh viện, hải đăng và bưu điện trước khi đưa thành viên Hiệp Hội Luật Quốc Tế ra Ba Bình để viết bản đệ trình. Bản thân ông Cửu từng làm luận án tiến sĩ về luật biển với đề tài tranh chấp chủ quyền Biển Đông Á giữa Trung Quốc và Nhật Bản tại Đại Học Harvard Hoa Kỳ nên ông hiểu rõ tầm quan trọng của cuộc chiến pháp lý tại Biển Đông.
Tuy vấn đề chủ quyền không nằm trong phạm vi phán quyết của Tòa nhưng Hiệp Hội Luật Quốc Tế Đài Loan đã khéo léo lồng vào bản đệ trình một số luận cứ chủ quyền của Trung Hoa Dân Quốc gồm có sự hiện diện của ngư dân Trung Quốc trên đảo từ thời Nhà Thanh. Tuy nhiên, bằng chứng chủ quyền dưới luật quốc tế đòi hỏi cả hai yếu tố ý chí và hành động xác quyết chủ quyền. Việc một số ngư dân Hải Nam trú ẩn trên đảo không đồng nghĩa với hành động xác quyết chủ quyền của một quốc gia.
Cho tới nay vẫn chưa thấy Việt Nam có phản ứng gì đáp lại bản đệ trình của Hiệp Hội Luật Quốc Tế Đài Loan với một số luận cứ rõ ràng bất lợi cho yêu sách chủ quyền của Việt Nam tại Ba Bình và Trường Sa. Với thể chế độc đảng toàn trị hiện nay, Việt Nam không thể nào có được một tổ chức tương đương với Hiệp Hội Luật Quốc Tế của Đài Loan với những thành viên có khả năng, kiến thức và trình độ có đẳng cấp quốc tế và độc lập với nhà nước để tòa án và các cơ quan tài phán quốc tế có thể tin cậy được. Ngay cả các Đoàn Luật Sư Thành Phố Hà Nội hoặc Hồ Chí Minh đều có bàn tay lông lá của Đảng nhúng vào. Hệ thống giáo dục theo kiểu cho “ra lò mỗi ngày một tiến sĩ” dẫn đến tình trạng gian dối và trí trá và hiện tượng “Tiến sĩ dởm vào hùa nhau gây thảm họa cho dân tộc“, theo lời của TS Nguyễn Văn Khải.
Trong tháng 4, báo chí đăng tin là có tới cử tri 15 tỉnh thành đề nghị sớm kiện Trung Quốc về Biển Đông. Vào đúng vào ngày 30/4/2016, có hơn 50 nhân sĩ trí thức ký tên trong thư ngỏ yêu cầu Việt Nam chính thức khởi kiện Trung Quốc. Chắc chắn là Việt Nam phải kiện Trung Quốc để bảo vệ chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa vì không có giải pháp quân sự, kinh tế, chính trị hoặc ngoại giao nào khác. Nhưng câu hỏi là Việt Nam có luật sư thiện chiến để đánh trận pháp lý này không? Cho dù bỏ tiền ra mướn luật sư ngoại quốc nhưng họ cũng cần có một đội ngũ luật sư và sử gia trong nước có đẳng cấp quốc tế thấu hiểu sâu sắc về mặt lịch sử và văn hóa đứng sau lưng yểm trợ. Nếu luật sư Trung Quốc và Đài Loan hợp tác với nhau chống trả thì Việt Nam có cơ hội thắng kiện không? Do đó có thể kết luận rằng thể chế độc đảng, độc quyền, độc tài, toàn trị hiện nay là chướng ngại vật lớn nhất trong cuộc tranh đấu pháp lý bảo vệ chủ quyền của Tổ Quốc Việt Nam tại Biển Đông.
N.V.T.
Tác giả gửi BVN