Bán nước theo nghĩa đen

Tô Văn Trường

Dự án giao thông thủy xuyên Á kết nối với Vân Nam-Trung Quốc trên sông Hồng “lợi bất cập hại”. Lợi thì chủ đầu tư và các “cổ đông” được hưởng nhưng tác hại thì toàn dân phải gánh chịu. Trung Quốc ngày càng tác động mạnh và chi phối nguồn nước ở cả sông Hồng và sông Mekong. Họ xây dựng tràn lan các nhà máy thủy điện bất chấp các hậu quả ở hạ lưu, thậm chí cho đến nay vẫn không cho các nước trong lưu vực sông được biết quy trình vận hành các nhà máy thủy điện vv…

Dự án sông Hồng mới chỉ là ước tính khoảng 1,1 tỷ đô la Mỹ nhưng sẽ đội giá lên rất cao khi phải tính đúng, tính đủ ngoài việc tạo điều kiện giao thông thủy thuận lợi đến Vân Nam, còn phải bổ sung hàng loạt các công trình để đảm bảo lấy nước ở hạ du vv… trong khi tiềm lực tài chính thì có hạn. Lúc đó, ai, thế lực nào sẽ nhẩy vào để làm người chi phối, điều hành hoặc “sân sau” cho dự án tỉ đô này?

Về mặt an ninh và quốc phòng, chấp nhận dự án này đồng nghĩa với bán nước theo nghĩa đen. Đất nước này không phải của riêng ai. Nhân dân yêu cầu phải hoàn toàn chấm dứt nạn chặt, xé, băm vằm đất nước rất tùy tiện theo lợi ích và quyền lực “nhóm” như đã xảy ra trong mấy chục năm qua!

Bộ Kế hoạch và Đầu tư vừa có văn bản đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, thông qua chủ trương đầu tư Dự án giao thông thủy xuyên Á (kết nối với Trung Quốc) trên sông Hồng kết hợp thủy điện theo hình thức BOO (xây dựng, sở hữu, vận hành).

 

Tính pháp lý của dự án

Siêu dự án này do Công ty TNHH Xuân Thiện thuộc Tập đoàn kinh tế Xuân Thành đề xuất. Tháng 12/2015 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Giao thông Vận tải và các bộ, ngành, địa phương liên quan tổ chức thẩm định hồ sơ dự án, lập báo cáo thẩm định và báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định chủ trương đầu tư dự án trên theo quy định của pháp luật.

Theo báo cáo của nhà đầu tư thì dự án này sẽ thực hiện việc xây dựng 6 đập dâng nước và âu tàu, nạo vét 288km luồng sông Hồng đoạn từ Việt Trì lên Lào Cai đạt tiêu chuẩn sông cấp III; kết hợp xây dựng 6 nhà máy thủy điện nhỏ (cấp II), kiểu tuabin trục ngang cột nước thấp với tổng công suất thiết kế khoảng 228MW; xây dựng 7 cảng dọc tuyến từ Hà Nội lên tới Lào Cai, với tổng mức đầu tư ước tính lên tới 24.510 tỷ đồng. Bài toán kinh tế hòan vốn còn rất mơ hồ nhưng chủ đầu tư đòi hỏi nhiều quyền ưu tiên như bán điện với giá cao, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp tới thời kỳ hoàn thành vốn vv…

Một điều quan trọng đầu tiên cần lưu ý là “dự án” khủng tỉ đô này không nằm trong các quy hoạch rất quan trọng như quy hoạch khai thác thủy điện, quy hoạch trị thủy nguồn nước (quy hoạch thủy lợi, quy hoạch phòng chống lũ…). Ngay cả quy hoạch phát triển kinh tế xã hội cũng chưa xem xét ý tưởng này.

Nhận thức chung

Theo ý tưởng của công ty đề xuất, đây là dự án “siêu thủy lộ” là chính, còn “phát điện” chỉ là mục đích phụ. Lợi ích chính của dự án này được xác định từ thu phí giao thông thủy (thông qua các âu tầu qua đập và hệ thống cảng sông được xây dựng dọc sông Hồng). Còn về thủy điện chỉ khai thác được tổng công suất 228MW thì không mang lại lợi ích đáng kể. Người đọc nhân thấy khía cạnh tích cực của dự án chính là đoạn sông Thao từ Lào Cai đến Việt Trì khá dốc, dòng chảy trong mùa kiệt nhỏ nên tình hình vận tải thủy trên sông Thao hiện nay là không ổn định, chỉ các tàu có quy mô nhỏ có thể vận hành. Việc cải tạo sông Thao sẽ tăng cường khả năng vận tải thủy ở đoạn sông này.

Xét về thủy thế, đoạn sông Hồng từ Việt Trì lên đến Lào Cai (cửa khẩu Cốc Lếu) có độ dốc khá lớn, chưa kể địa hình đồi núi phía bên tỉnh Vân Nam còn có độ dốc lớn hơn. Như vậy việc vận hành các âu thuyền qua đập sẽ khó khăn và mất nhiều thời gian hơn, tàu ngược dòng sông cần công suất lớn. Thực tế những năm gần đây, vấn đề hạ thấp mực nước ở hạ lưu sông Hồng, sông Thái Bình đã được ghi nhận, có những năm vào mùa kiệt đoạn sông Hồng qua Hà nội cạn gần trơ đáy. Bên sông Đuống (trục chính nối sông Hồng và sông Thái Bình) cũng có sự hạ thấp đáng kể. Như vậy, để tàu thuyền (tàu công suất lớn) qua lại được như ý tưởng của công ty Xuân Thiện thì cần phải có thêm nhiều đập điều tiết nữa trên tuyến đường thủy này mới ra được đến các cảng biển của Việt Nam.

Với 6 con đập, dòng sông Hồng đương nhiên bị chia cắt thành 7 khúc và giao thông đường thủy sẽ không thể thông suốt. Các phương tiện thủy sẽ chỉ có thể vận chuyển từng chặng ngắn và buộc phải sử dụng hệ thống 7 cảng sông dọc tuyến như phương án của nhà đầu tư. Không những thế, dự án này còn được đầu tư theo hình thức BOO (xây dựng, sở hữu, vận hành) tức là sẽ không có thời hạn, nhà đầu tư có thể thu phí vĩnh viễn đối với luồng tuyến, đồng nghĩa với việc sở hữu hoàn toàn dòng sông Hồng. Ẩn khuất lợi ích to lớn cho riêng nhà đầu tư chưa được nêu ra chính là nguồn khai thác cát khổng lồ do nạo vét sông.

Xét về mặt chính trị, có thể nói trục giao thông với mục đích chính là nối liền Trung Quốc với các cảng biển của Việt Nam sẽ dễ bị Trung Quốc chi phối. Bởi nguồn nước và sự giao lưu về thương mại đều phụ thuộc vào Trung Quốc. Mà bài học trước nay trong quan hệ với Trung Quốc cho thấy chúng ta luôn bị động, nhất là khi nguồn nước sông Hồng chảy vào Việt Nam do họ điều tiết phần lớn trên dòng chính. Trong khi hiện nay các đập Trung Quốc quy chế vận hành như thế nào, họ không cho phía VN được biết.

Điều gì sẽ xảy ra, khi dòng sông mẹ của cả một dân tộc, nguồn phù sa cho toàn bộ vùng châu thổ màu mỡ nhất miền Bắc trở thành sở hữu riêng của một doanh nghiệp? Có lẽ đó là một viễn cảnh khó lòng tưởng tượng đối với số phận của hàng chục triệu con người đang mưu sinh trên bờ bãi, đồng ruộng dọc theo 500km chiều dài con sông này.

Các tác hại dễ thấy

Đồng bằng sông Cửu Long đã mặn chát vì thủy điện của Trung Quốc ở thượng lưu sông Mekong. Tây Nguyên cũng đã cạn khô do hiện tượng El Nino và thủy điện. Đồng bằng châu thổ sông Hồng sẽ ra sao khi bị chia thành 7 khúc cũng vì thủy điện?

Nguồn nước qua các đập dâng không thể điều tiết chủ động như từ các hồ chứa lớn (như trên sông Đà, sông Lô-sông Gâm) nên tác dụng điều tiết nước tích cực là không nhiều. Trong khi với mục đích khai thác phục vụ giao thông (đảm bảo đầu nước nhất định) thì có nhiều khả năng nguồn nước xuống hạ du còn bị ảnh hưởng theo hướng tiêu cực, đặc biệt trong mùa cạn. Việc các đập dâng đầu nước tưới cho vùng từ Việt Trì trở lên không có nhiều ý nghĩa, vì vùng này diện tích đất nông nghiệp không nhiều, địa thế lại dốc nên lấy nước từ sông Hồng chủ yếu vẫn phải bằng bơm động lực.

Việc xây dựng các đập dọc sông Thao sẽ làm dâng mực nước đoạn từ Yên Bái đến Lào Cai trong điều kiện bình thường bình quân khoảng 11m trong phương án 3 bậc và khoảng 9m trong phương án 6 bậc, do đó cần có tính toán định lượng các khu vực bị ngập úng dọc sông. Ngoài ra, việc dâng mực nước trên sông sẽ làm giảm khả năng tiêu thoát nước của các khu vực dân cư, khu vực canh tác ven sông. Ngập lụt vùng thượng lưu các đập, ảnh hưởng hiệu quả tiêu thoát của các công trình tiêu nước vùng thượng lưu các đập.

Việc xây dựng các đập dâng nước kết hợp âu tàu sẽ làm giảm khả năng chuyển lũ và ảnh hưởng đến khả năng phòng chống lũ của hệ thống sông Thao. Lòng sông Thao đoạn từ Việt Trì đến Lào Cai có độ dốc lớn, việc nạo vét lòng sông sẽ gây sạt lở bờ sông, bãi sông và các công trình đê điều, thủy lợi dọc sông. Sau khi đồng bằng sông Hồng bị giảm đáng kể lượng phù sa từ hai nhánh sông Đà và sông Lô-Gâm thì nay nhánh còn lại là sông Thao cũng sẽ bị chặn lại. Hậu quả là độ màu mỡ của vựa lúa lớn thứ 2 của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng lớn, trong khi lòng sông sẽ có nguy cơ tiếp tục bị hạ thấp và xói lở mạnh hơn, càng làm giảm khả năng của các công trình lấy nước dọc sông.

Dự án sẽ tác động đến an toàn công trình thủy lợi, công trình phòng chống thiên tai trên hệ thống sông Hồng-Thái Bình, đến tỉ lệ phân bổ lượng dòng chảy lũ giữa hai phân lưu của dòng chính sông Hồng và tuyến sông Đuống tác động đến toàn bộ hệ thống công trình phòng lũ vùng hạ lưu. Đấy là chưa kể các tác động đến thủy sản và mực nước ngầm.

Tác động của dự án đến môi trường, hệ sinh thái, lịch sử, văn hóa vốn tồn tại hàng nghìn năm, và an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, không có lợi ích nào bù đắp nổi. Nếu dự án này được Chính phủ cho phép đầu tư sẽ biến dòng sông Hồng thành biến thái!

“Lỗ hổng” trong công tác thẩm định

Những nhà khoa học am hiểu thực trạng của đất nước đều hiểu từ ngày xửa, ngày xưa, các báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) thường mang tính ‘xào xáo’, hình thức để được phê duyệt. Nước ta, có rất nhiều công ty tư vấn làm thuê báo cáo ĐTM cho các dự án của nước ngoài ở VN. Phía nước ngoài, chỉ cần đưa qui trình công nghệ và mô tả xử lý theo cách của họ để dễ được thông qua. Khi có sẵn các số liệu khí hậu, địa chất thủy văn nơi xây dựng dự án, tư vấn VN biên tập thành báo cáo ngay, rồi tư vấn VN cũng đi bảo vệ luôn cùng với chủ đầu tư.

Việc này giống như làm luận chứng kinh tế kỹ thuật, muốn “Return Rate hay Net Value” bao nhiêu là có thể làm được ngay vv… Hội đồng thẩm định gồm nhiều nhà khoa học, thường nể nang do mối quan hệ xã hội, chưa nói đến năng lực và bản lĩnh, nhiều khi không vượt lên được chính mình.

Đừng đối xử bất hiếu với mẹ của mình

Trong lịch sử phát triển của mình, con người thường bám vào các dòng sông hoặc cố gắng tìm đến các nguồn nước để sinh sống. Hầu hết mỗi quốc gia đều có một “dòng sông mẹ”. Trung Quốc có sông Dương Tử, Nga có sông Volga, Ấn Độ có sông Hằng, Brazil có sông Amazon vv… và Việt Nam chúng ta có sông Hồng.

Chính sông Hồng là mạch nguồn nuôi sống và tạo nên sức mạnh của dân tộc Việt, là tiền đề vật chất nền “văn minh lúa nước” rất đáng tự hào. Với ý nghĩa đó sông Hồng chính là “dòng sông mẹ” của đất nước ta, dân tộc ta. Trên thế giới, không thiếu những ví dụ về những khát vọng vơ vét làm giầu bằng mọi cách làm cho mờ mắt đã khai thác, “bóc lột” đến triệt để dòng sông mẹ, bất chấp mọi hậu quả, đặc biệt về môi trường sinh thái. Đừng để trở thành những đứa con bất hiếu, bị muôn đời nguyền rủa vì đã đối xử vô ơn, bất hiếu với Mẹ của mình!

Bài học đắt giá

Nhiều quốc gia phát triển đang tìm cách khôi phục trạng thái trước kia của các dòng sông lớn. Từ những năm 1990, Thụy Điển đã bắt đầu khởi động chương trình tái tạo các dòng sông. Liên minh châu Âu vào năm 2000 đã đưa ra chỉ định khung về nguồn nước, yêu cầu tất cả dòng sông chảy qua các quốc gia thành viên cần phải được đưa trở về “tình trạng tốt” trước năm 2015. Một trong những dòng sông lớn nhất Tây Ban Nha là Duero cũng đang được “dọn dẹp” các đập và công trình chặn dòng. Các con đập trên dòng Loire, con sông dài nhất nước Pháp, cũng được phá bỏ dần. Cửa sông Skjern của Đan Mạch cũng được bồi đắp sau khi các bờ sông nhân tạo được hạ thấp để dòng lũ chảy tự nhiên. Tại Mỹ đã có hơn 72 đập sông lớn nhỏ được phá bỏ từ năm 2014 đến nay.

Riêng vấn đề giao thông đường sông không đơn giản như những người làm dự án sông Hồng mường tưởng. Xin hãy tham khảo giao thông đường sông trên các sông Seine, Elbe, Rein… với hàng rừng luật và quy định của quốc gia và liên quốc gia phải tuân thủ nghiêm ngặt… thì điều này là không tưởng đối với sông Hồng. Cũng xin đừng quên nhiều nước công nghiêp châu Âu, trước hết là Đức và Pháp đã mất nhiều thập kỷ trong nửa sau thế kỷ 20 mới phục hồi được phần nào những con sông này ở trạng thái hiện nay. Là nước đi sau, vấn đề giao thông của nước ta cũng phải xem lại nghiêm túc.

Hoạt động của sông Hồng ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh của đất nước, đến môi sinh của toàn bộ miền Bắc, dòng chảy, hệ sinh thái trong dòng và bên bờ sông, thủy lợi tiêu thoát lũ, đến đời sống của toàn bộ dân Bắc Bộ. Vì thế, không thể để cho một công ty tư nhân, nhận BOO làm thay đổi hoạt động của sông này, để rồi tất cả các qui hoạch thủy lợi, tiêu thoát lũ, sử dụng nguồn nước mặt sông Hồng, phòng chống lũ, điện lực, giao thông vận tải vv… với tầm nhìn tới 2030 hay 2035 sẽ phải “chạy theo” làm lại?

Tôi cũng rất ngạc nhiên, nghe ông Vụ trưởng Vụ Thẩm định MPI nói trong cuộc họp báo thường kỳ của Chính phủ chiều ngày 05/5 là: MPI nhận được ý kiến đồng thuận khá cao của các bộ ngành và địa phương tuy đây mới là ý tưởng sơ khai? Phải xem xét lại năng lực, và tầm nhìn của cán bộ tham mưu loại ngồi “phòng lạnh” này, đối với lãnh đạo.

Thay cho lời kết

Đây là dự án “lợi bất cập hại”. Lợi thì trước hết cho chủ đầu tư và các “cổ đông” nhưng cái hại thì toàn dân phải gánh chịu. Một dự án tỷ đô hay nhiều tỷ đô thì cũng không thể vượt qua hoặc bỏ quên quy hoạch tổng thể hay quy hoạch ngành của Nhà nước.

Dự án càng lớn thì tác động của nó đến các vấn đề kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng và cả văn hóa lịch sử càng lớn. Sông Hồng ở Việt Nam, cũng như sông Hằng ở Ấn Độ, sông Volga của Nga vv… là những con sông “mẹ”, là cội nguồn sản sinh, nuôi dưỡng phát triển của cả một dân tộc, một quốc gia. Không thể vì lợi ích của nhóm trục lợi, để làm mất đi hoặc biến thái “nền văn minh sông Hồng”, và nền văn minh lúa nước của dân tộc Việt Nam.

T.V.T.

Tác giả gửi BVN.

This entry was posted in Lên Tiếng. Bookmark the permalink.