Những bất cập trong triển khai dự án FORMOSA Hà Tĩnh

Chuyên gia tư vấn độc lập 

Trong Lời mở đầu bài viết của TS Tô Văn Trường đăng ngày 3-5-2016 (xin xem ở đây), dựa trên những suy ngẫm của GS Nguyễn Huệ Chi – một đứa con Hà Tĩnh và nặng lòng với mảnh đất Hà Tĩnh, tuy không nắm sâu khoa học kỹ thuật nhưng lại có linh cảm của một trí thức có quá trình dấn thân vào thực tế và nhìn thấu bụng dạ con người – BVN đã bước đầu nêu lên nhận xét rằng, chính ông Võ Kim Cự, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh (trước đó là Phó Chủ tịch rồi Chủ tịch Hà Tĩnh), là người chủ chốt trong việc “hết lòng mai mối” cho tập đoàn Formosa Đài Loan có được chỗ đứng chân vững chãi tại Vũng Ấng bằng mọi giá, vượt qua bất kỳ trở lực hay yêu cầu quan trọng nào của đất nước, như an ninh quốc phòng… Nay, với bài viết rất rõ ràng, đầy ắp chứng cứ của TS Nguyễn Thành Sơn, một trong những chuyên gia hàng đầu về ngành khai khoáng, linh cảm trên của GS Nguyễn Huệ Chi đã được chứng thực hai năm rõ mười.

Nhưng không phải chỉ có thế. Bài viết chắc nịch của TS Nguyễn Thành Sơn  còn làm cho người đọc thấy hiển lộ sự không bình thường đầy mờ ám của các quan chức Hà Tĩnh mà đứng đầu là ông Cự, trong việc chạy [vạy] hơn cả ngựa phi để một dự án đầy tai tiếng và có quy mô hơn chục tỷ đô từ Tập đoàn Formosa Đài Loan đi dích dắc đến ông Thủ tướng xong xuôi trót lọt chỉ vẻn vẹn mất 12 ngày. Không cần đếm xỉa đến những văn bản đươc thảo vội vàng, sai be bét về chính tả (điều tuyệt nhiên không được phép trong công văn hành chính, chứng tỏ người đứng đầu có tấm bằng Thạc sĩ dỏm đúng như dư luận đang tố cáo), hãy nói đến việc luồn lách nhằm bỏ qua hết mọi thủ tục điều tra về bất cứ phương diện nào, đặc biệt là về năng lực thực tế cũng như về uy tín hoạt động kinh doanh của phía chủ đầu tư, mà TS Sơn gọi là “vô trách nhiệm” và “trái thẩm quyền” của ông Võ Kim Cự, chúng ta bất giác rùng mình, vì chính những tệ nạn căn cốt nằm sâu trong phẩm chất một loại quan chức vô học và vô hạnh như thế, rất có thể là nguyên nhân số một làm cho biển miền Trung chúng ta hôm nay bị chết, ngành hải sản truyền thống bị thất thu, GDP chắc chắn sẽ còn tuột dốc và dân chúng sẽ lâm vào nạn đói trầm trọng. Ông Võ Kim Cự làm những việc lợi người hại nước đó để làm gì nếu không là chỉ nhắm vào lợi ích của gia đình con cái ông, ngoài ra thì phó mặc? Dựa trên những đặc quyền của một thể chế độc tài để ông tự tung tự tác, phải chăng chính ông và những người dung dưỡng cho ông đã tự tố cáo những ung nhọt đã trở thành ung thư của chế độ hôm nay?

Tất nhiên, bài viết của TS Nguyễn Thành Sơn còn hé lộ nhiều điều quan trọng. Chẳng hạn, về những người liên đới, ngoài ông Võ Kim Cự, chúng ta còn thấy có thêm tên ông Trần Đình Đàn vốn cũng là một Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh trước ông Võ Kim Cự vài khóa, về sau ra làm Chánh văn phòng Quốc hội; và ở cấp trung ương là ba ông Nguyễn Sinh Hùng, Nguyễn Tấn Dũng và Hoàng Trung Hải. Những người này, trong cương vị trọng yếu đương thời của họ, qua những văn bản mà họ đã ký, phải chịu trách nhiệm cá nhân đến đâu việc rước Formosa vào trấn ở Vũng Áng một cách sai quy chế và trái với luật đầu tư dành cho các doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam? Thiết tưởng những ai đang cầm chịch đất nước trong những ngày này, nếu còn chút bản lĩnh và muốn lấy lại được chút nào lòng tin đang cạn kiệt của nhân dân cả nước, trong nghị trình giải quyết tổng thể sự cố tày trời “cá chết Vũng Áng” chắc chắn phải đặt ra nghiêm túc, hãy xem xét luôn các vấn đề mà giới trí thức chủ động đưa lên bàn cân cho các vị, một cách thật thấu đáo, công minh.

Bauxite Việt Nam

Chúng tôi đã từng chủ trì và/hoặc tham gia soạn thảo và/hoặc thực hiện các thủ tục trình các cơ quan nhà nước phê duyệt các Báo cáo đầu tư, PFS, FS, ĐTM, các Hồ sơ mời thầu v.v. của các dự án nhiệt điện chạy than của TKV có tổng mức đầu tư mỗi dự án khoảng 120÷600 triệu U$.

Qua nghiên cứu Báo cáo đầu tư của dự án Formosa (2008) có tổng mức đầu tư giai đoạn đầu lên tới 7,897 tỷ U$, chúng tôi thấy tiến độ chuẩn bị đầu tư (từ khảo sát tình hình đến cấp giấy phép) của dự án này nhanh đến khó tin.

Đi sâu tìm hiểu, chúng tôi thấy cần nêu ra dưới đây những bất cập có liên quan đến trình tự/thủ tục đầu tư cũng như chất lượng của dự án Formosa để các cơ quan chức năng và/hoặc có thẩm quyền của VN tham khảo, góp phần nhanh chóng điều tra kết luận về nguyên nhân của vụ cá chết ở ven bờ biển miền Trung theo yêu cầu của Thủ tướng:

Tóm tắt dự án

Chủ đầu tư dự án liên hợp thép-cảng Sơn Dương Hà Tĩnh (gọi tắt là Formosa) gồm 6 công ty: Công ty cổ phần hữu hạn nhựa công nghiệp Đài Loan, Công ty cổ phần hữu hạn nhựa công nghiệp Nam Á, Công ty cổ phần hữu hạn sợi hóa học Đài Loan, Công ty cổ phần hữu hạn dầu khí Formosa, Công ty cổ phần hữu hạn công nghiệp nặng Formosa, và Công ty trách nhiện hữu hạn Sunsco Holding Ltd.

Dự án Formosa Hà Tĩnh được chia thành 3 giai đoạn:

Giai đoạn 1 (gồm 2 bước): Bước 1-1, đầu tư liên hợp luyện gang thép và cảng công suất 7,5 triệu tấn/năm; Bước 1-2, sẽ nâng công suất lên đạt và 15 tr.t/năm; Tổng mức đầu tư bước 1-1 (gồm tổ hợp gang-thép và cảng biển Sơn Dương) khoảng 7,897 tỷ đô la.

Giai đoạn 2: xây dựng tổ hợp nhà máy lọc dầu công suất 15 tr.tấn dầu thô/năm và 1,2 tr.tấn ethylene/năm;

Giai đoạn 3: Xây dựng cảng Sơn Dương thành cảng tổng hợp phục vụ trung chuyển hàng hóa trong khu vực (gồm cả Bắc Thái Lan và Nam Lào).

Địa điểm triển khai: Khu kinh tế Vũng Áng, Hà Tĩnh. Tổng diện tích chiếm đất chỉ riêng giai đoạn 1 là 44.476.751 m2 (4.448 ha), bao gồm toàn bộ cảng biển sâu nhất khu vực miền Trung là Sơn Dương.

Như vậy, có thể thấy, Formosa là một “siêu dự án” được triển khai trên một địa bàn chiến lược về kinh tế và quốc phòng của VN.

Thủ tục đầu tư đã được tiến hành theo kiểu đối phó

Nếu tính cả 3 giai đoạn, Formosa là một dự án rất lớn, có tổng mức đầu tư hàng chục tỷ đô la. Nhưng thời gian nghiên cứu, khảo sát, làm thủ tục, xin giấy phép rất ngắn. Điều này cho phép nghi ngờ chất lượng của dự án “chục tỷ đô” này. Cụ thể như sau:

Theo báo cáo của Formosa, năm 2007, “sau nửa năm nghiên cứu khảo sát điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của các tỉnh Bắc Trung Bộ Việt Nam”, Formosa đã “Mời lãnh đạo tỉnh Hà Tính, đại diện văn phòng chính phủ Việt Nam, đại diện bộ công thương và bộ kế hoạch đầu tư Việt nam đến Đài Loan thăm và khảo sát, tìm hiểu các vấn đề…” “Báo cáo với thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng về kế hoạch đầu tư của tập đoàn và xin ý kiến của thủ tướng; Báo cáo với thủ tướng Hoàng Trung Hải về kế hoạch đầu tư của tập đoàn và xin ý kiến của thủ tướng; Báo cáo với chánh văn phòng quốc hộ [hội] Trần Đình Đàm [Đàn] về kế hoạch đầu tư của tập đoàn và xin ý kiến của ngài chánh văn phòng” (hết trích dẫn nguyên văn, kể cả sai ngữ pháp).

Sau đó, ngày 09/11/2007, Chủ tịch Công ty Sunsco Holding Ltd. (có trụ sở tại quần đảo Cayman, vùng Caribe – nằm giữa Cu Ba và Jamaica, là thiên đường của các công ty để rửa tiền và trốn thuế) và Chủ tịch Tổng công ty Formosa công nghiệp nặng có trụ sở ở Đài Bắc, đã gửi “Thư quan tâm đầu tư” (thực ra chỉ là một mảnh giấy tiếng Anh, không có tên người ký, không có địa chỉ phát hành, không dấu, không logo, v.v.) gửi UBND Hà Tĩnh bày tỏ kế hoạch đầu tư vào Khu kinh tế Vũng Áng tổ hợp nhà máy luyện thép với tổng công suất 15 triệu tấn/năm; đồng thời bày tỏ “hy vọng được trao đổi với các sở/ban ngành có liên quan của Hà Tĩnh về kế hoạch đầu tư, và được tổ chức gặp để báo cáo thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng để kế hoạch nhận được giấy phép của chính phủ trung ương sớm nhất có thể”.

Sau khoảng 1 tháng, Phó chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh Võ Kim Cự ký văn bản số 3182/UBND-CN2 ngày 12/12/2007 v/v đầu tư vào Hà Tĩnh của Tập đoàn Formosa. Văn bản này đã “đề nghị Tập đoàn tiến hành khảo sát, lập hồ sơ các dự án báo cáo Chính phủ VN, các Bộ ngành Trung ương có liên quan và UBND tỉnh Hà Tĩnh để kịp thời hoàn chỉnh thủ tục đầu tư theo qui định hiện hành”. Đây thực chất là một văn bản vô trách nhiệm (bỏ qua các thủ tục tìm hiểu/đánh giá về năng lực của chủ đầu tư) và trái thẩm quyền (góp phần làm phá vỡ các qui hoạch lớn về kinh tế của Chỉnh phủ, gồm các qui hoạch về thép, điện, cảng biển, v.v).

Sau đó 12 ngày, Tập đoàn Formosa đã thực hiện xong ý kiến chỉ đạo tại văn bản nói trên của Phó chủ tịch Hà Tĩnh Võ Kim Cự, xây dựng xong báo cáo đầu tư về hai dự án khu liên hợp luyện thép (15 tr.t/năm) và cảng tổng hợp Sơn Dương (200.000 DTW) để trực tiếp báo cáo Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải vào ngày 24/12/2007.

Sau đó 3 ngày, ngày 27/12/2007, Tổng giám đốc Tổng công ty Formosa công nghiệp nặng Ngô Quốc Hùng đã có thư gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, trong đó khẳng định: “Chúng tôi đã xây dựng Báo cáo đầu tư về hai dự án trên để trình Chính phủ Việt Nam. Theo đó thời gian hoàn thành lò cao thứ 1 của giai đoạn 1 được rút ngắn từ 48 tháng xuống còn 36 tháng. Nay chúng tôi xin gửi tới ngài báo cáo đó, rất mong được Ngài và các cơ quan hữu quan của Chính Phủ Việt Nam sớm chấp thuận”, và hứa: “Ngay sau khi nhận được sự chấp thuận của chính phủ Việt nam, chúng tôi sẽ triển khai việc lập báo cáo tiền khả thi và tháng 3/2008 sẽ trình lên các cơ quan hữu trách của Việt Nam” (hết trích dẫn).

Qua sự việc trên cho thấy, Báo cáo đầu tư của dự án qui mô hàng chục tỷ đô la chỉ được thực hiện vỏn vẹn trong vòng 12 ngày, đã được trình lên tới Chính phủ VN.

Ngày 15/01/2008, Tổng giám đốc Tổng công ty Formosa công nghiệp nặng Ngô Quốc Hùng, từ Đài Bắc đã gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng “Thư bảo đảm xin đầu tư xây dựng dự án cảng Sơn Dương và khu liên hợp gang thép tại Hà Tính”.

Mặc dù thư này được gửi cho Thủ tướng, nhưng ngay ngày hôm sau, từ Hà Tĩnh, Phó chủ tịch UBND tỉnh Võ Kim Cự đã ký công văn số 102/UBND/CN2 ngày 16/01/2008 về việc đầu tư vào Hà Tĩnh của Tập đoàn Formosa (Đài Loan). Công văn này đã khẳng định: “Sau khi xem xét văn thư ngày 15/01/2008 của Tập đoàn Formosa (Đài Loan) về việc cam kết đầu tư Dự án cảng Sơn Dương và Dự án nhà máy luyện thép công suất 15 triệu tấn/năm… UBND tỉnh Hà Tĩnh xin báo cáo và đề nghị như sau: … Formosa là Tập đoàn có các nguồn lực và kinh nghiệm đầu tư các dự án lớn, đặc biệt là dự án cảng biển và luyện thép… Kính đề nghị Thủ tướng Chính Phủ và các Bộ, ngành liên quan cho phép Tập đoàn lập dự án trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định cho thực hiện dự án nói trên”.

Như vậy, bằng công văn 102/UBND/CN2 ngày 16/01/2008 nói trên Phó chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh đã cố tình hợp thực hóa công văn số 3182/UBND-CN2 ngày 12/12/2007. Văn bản trên còn cho thấy rõ hành động vô trách nhiệm của UBND tỉnh Hà Tĩnh. Trong khi Formosa là đối tác được thế giới bêu danh hàng đầu trong lĩnh vực gây ô nhiễm môi trường, thì, chỉ trong vòng 24h, sau khi Formosa “cam kết đầu tư” với Thủ tướng, UBND tỉnh Hà Tĩnh đã khẳng định với Thủ tướng: “Formosa là Tập đoàn có các nguồn lực và kinh nghiệm đầu tư các dự án lớn, đặc biệt là dự án cảng biển và luyện thép”!!!.

Những ưu đãi không có cơ sở

Mặc dù Formosa chưa trình dự án, ngày 28/02/2008, Ban quản lý Khu kinh tế Vũng Áng – Hà Tĩnh đã lập “Biên bản ghi nhớ về điều kiện ưu đãi đầu tư cho dự án nhà máy thép và cảng Sơn Dương”. Biên bản này đã nêu cụ thể 14 mục ưu đãi đối với Formosa. Trong đó, có những mục như “Thời gian thuê đất 70 năm, kể từ khi hợp đồng thuê đất có hiệu lực”. Đây là hành động “cầm đèn chạy trước ô tô” của UBND tỉnh Hà Tĩnh. Vì, sau đó 4 ngày, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải mới ký văn bản số 323/TTg-QHQT ngày 04/3/2008 “về việc đầu tư xây dựng Nhà máy luyện thép và cảng nước sâu tại Hà Tĩnh”, trong đó có nội dung: “UBND tỉnh Hà Tĩnh chủ trì, phối hợp với các Bộ ngành có liên quan chỉ đạo Ban quản lý Khu kinh tế Vũng Áng hướng dẫn nhà đầu tư lập dự án đầu tư và hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận đầu tư, tổ chức thẩm định Dự án và hồ sơ theo quy định hiện hành của Luật đầu tư, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định”.

Sau khi có ý kiến chỉ đạo trên, thay vì phải “hướng dẫn nhà đầu tư lập dự án đầu tư” theo ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng, ngày 25/3/2008, cũng chính Ban quản lý Khu kinh tế Vũng Áng, đã ký “Biên bản ghi nhớ bổ sung, sửa đổi về điều kiện ưu đãi đầu tư cho dự án nhà máy thép và cảng Sơn Dương”. Trong đó, mục “Thời gian thuê đất 70 năm, kể từ khi hợp đồng thuê đất có hiệu lực” đã được sửa đổi thành: “Thời gian thuê đất 70 năm, kể từ khi hợp đồng thuê đất có hiệu lực. Trước khi hết hạn thuê đất 2 năm nếu có nhu cầu, nhà đầu tư (FORMOSA) phải trình UBND tỉnh Hà Tĩnh đơn xin thuê đất cho thời gian tiếp theo và trong vòng 03 tháng (kế từ ngày nhận được đơn xin thuê đất), UBND tỉnh Hà Tĩnh có trách nhiệm trả lời nhà đầu tư. Khi đó, FORMOSA là nhà đầu tư được ưu tiên để tiếp tục thuê đất nhưng chính sách thuê đất được áp dụng theo quy định của luật Việt Nam tại thời điểm hiện hành”.

Qua sự việc trên cho thấy, trong khi chủ đầu tư chưa trình Dự án, UBND tỉnh Hà Tĩnh đã ký biên bản thỏa mãn tất cả các yêu cầu của chủ đầu tư. Đặc biệt, việc giao đất 70 năm được bổ sung các điều kiện được chấp nhận kéo gần như vô thời hạn.

Mặc dù Báo cáo đầu tư của Formosa chưa được lập và chưa được các cơ quan hữu quan phê duyệt, ngày 09/4/2008, Phó chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh Võ Kim Cự đã ký văn bản số 858/UBND-CN2 về việc xác nhận ưu đãi đầu tư cho Tập đoàn Formosa. Văn bản này đã đưa ra 5 ưu đãi về thuế, 3 ưu đãi về đất, 2 ưu đãi về bồi thường, giải phóng mặt bằng, 4 hỗ trợ về hạ tầng kỹ thuật, 2 hỗ trợ về đào tạo nguồn nhân lực, và 1 hỗ trợ về chi phí quảng cáo. Riêng về ưu đãi thuê đất, văn bản đã khẳng định “Thời gian cho thuê đất là 70 năm. Khi hết hạn thuê đất, nếu có nhu cầu, Formosa sẽ được ưu tiên tiếp tục thuê đất; chính sách thuê đất được áp dụng theo quy định của pháp luật Việt Nam tại thời điểm đó”.

Nhờ có những ưu đãi “từ trên trời rơi xuống”, ngày 11/4/2008, hai ngân hàng Hongkong and Shanghai Banking Corporation Ltd. (HSBC) và Mega International Commercial Bank Co., Ltd đã có “Thư quan tâm” gửi cho Formosa. Trong đó, HSBC đã lưu ý nếu chính sách của Chính phủ thay đổi thì Thư quan tâm này sẽ cần được HSBC khẳng định lại!

Những rủi ro về môi trường chưa được xem xét

Dự án Formosa có nhà máy luyện gang thép với công nghệ lạc hậu, nên phải dùng than mỡ để luyện coke cho lò cao. Nhu cầu than mỡ hàng năm phải nhập khẩu là 3,623 triệu tấn để luyện ra 2,52 triệu tấn coke (xem tr.24, Thuyết minh tổng hợp). Ngoài ra, hàng năm Formosa phải sử dụng khoảng 0,642 triệu tấn dolomit; 1,442 triệu tấn đá vôi, và 1,296 triệu tấn than cám.

Quy trình luyện coke thải ra rất nhiều độc tố vì than mỡ dùng để luyện coke thường có chứa các chất rất độc hại và nguy hiểm, như: sulphure (≈ 0,3%) chlorine (≈0,03%), phosphorous (≈0,001%); và arsenic (≈0,004%).

Như vậy, Chỉ riêng 3 loại chất cực độc (là chlorine, phosphorous, và arsenic) chứa trong than mỡ đã khoảng 0,035%. Với lượng tiêu dùng 3,623 triệu tấn/năm, chỉ riêng khâu luyện coke sẽ thải ra môi trường dưới mọi hình thức ít nhất 1.268 tấn/năm chất cực độc nói trên.

Đáng lưu ý, những loại than dùng để luyện coke đã được Formosa nhập về VN đều là những loại than rẻ tiền. Thay vì nhập khẩu than mỡ, Formosa đã nhập khẩu than bitum vào VN để luyện coke. Cụ thể, năm 2014, Formosa đã nhập khẩu 960.466 tấn than bitum từ Indonesia với giá bình quân gần 84 U$/tấn và năm 2015, Formosa đã nhập khẩu 87.923 tấn than bitum từ Canada để luyện coke với giá bình quân 82 U$/tấn. Các thành phần độc tố nói trên trong các loại than bitum rẻ tiền này chắc chắn còn cao hơn nhiều so với trong than mỡ đắt tiền (khoảng 200 U$/tấn).

Nhà máy luyện coke của Formosa theo thiết kế có công suất 2,86 triệu tấn/năm. Như vậy, cũng theo thiết kế, lượng khí lò coke (COG) hàng năm lên tới 1,4 tỷ Nm3 (trong điều kiện bình thường) và thải ra khoảng 1,1 triệu tấn xỉ/năm. Ngoài than luyện coke, nhà máy này còn phải sử dụng 1.906 tấn dầu rửa/năm.

Điều đáng lo ngại là trong Báo cáo đầu tư, Formosa đã cố tình không đưa ra các đặc tính kỹ thuật cũng như các thành phần hóa học của các loại nguyên liệu đầu vào được đưa vào sử dụng trong dự án (trong đó có các thành phần độc tố trong than luyện coke và dầu rửa).

Vấn đề bảo vệ môi trường không được đề cập trong Báo cáo đầu tư

Như trên đã nêu, ngày 25/3/2008, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải mới ký văn bản “Đồng ý chủ trương Tập đoàn công nghiệp nặng Formosa – Đài Loan lập Dự án đầu tư Nhà máy liên hợp thép tại Khu kinh tế Vũng Áng và Cảng nước sâu Sơn Dương tỉnh Hà Tĩnh như đề nghị của UBND tỉnh Hà Tĩnh tại văn bản nêu trên” (số 102/UBND-CN2 ngày 16/01/2008).

Nhưng ngay trong năm 2008 (không rõ tháng), Công ty TNHH Gang Thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh đã trình “Báo cáo dự án đầu tư khu liên hợp gang thép và cảng Sơn Dương Formosa Hà Tĩnh”. Báo cáo đầu tư gồm 2 phần: phần I – Thuyết minh tổng hợp (tổng luận, 116 trang khổ A4) và phần phụ lục; phần II – Giải trình kinh tế-kỹ thuật (gồm 5 chương, 281 trang khổ A4).

Đối với một dự án nhạy cảm với môi trường, có mức đầu tư tới 7,897 tỷ U$, nội dung Báo cáo đầu tư này đã được lập hoàn toàn đối phó, không theo các quy định hiện hành của Luật đầu tư. Trong đó, đặc biệt là phần liên quan đến bảo vệ môi trường.

Trong Thuyết minh tổng hợp, Mục 9.9 “Bảo vệ môi trường” (tr.87÷94) được thực hiện rất sơ sài và rất mơ hồ. Trong đó, mục 9.9.2 “Ứng dụng các giải pháp khống chế ô nhiễm” gồm: khống chế ô nhiễm không khí (2 trang); khống chế ô nhiễm nước (1 trang); tận dụng chất thải rắn (>2 trang); khống chế tiếng ồn (<1 trang).

Trong “Giải trình kinh tế-kỹ thuật”, mục 3.2 “Hệ thống cung cấp nước và xử lý nước thải” cũng vỏn vẹn có 4 trang khổ A4 (tr. 3-37÷3-41, kể cả 2 trang hình vẽ). Trong đó, mục 3.2.2.3 “Hệ thống xử lý nước thải” có tổng số chưa đầy 12 dòng (5 dòng về “dự kiến”, 4 dòng về “nước thải sinh hóa” và 2 dòng về “nước thải công nghiệp”).

Với nội dung rất sơ sài của một Báo cáo đầu tư như trên, nhưng, trong một thời gian ngắn kỷ lục, chủ đầu tư đã được cấp đất và triển khai dự án. Điều này đặt ra câu hỏi về chất lượng của các hồ sơ dự án do chủ đầu tư lập, trong đó có Báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) và chất lượng tổ chức thẩm định dự án của phía VN trước khi cấp phép.

Việc quản lý môi trường bị buông lỏng

Như chúng ta đã biết, Formosa là một dự án thuộc lĩnh vực luyện kim (có gắn với cảng biển và sản xuất nhiệt điện tự dùng). Công nghệ của nhà máy thuộc loại lạc hậu (phải sử dụng coke để luyện gang). Quy trình sản xuất gang thuộc loại liên hoàn và liên tục. Khối lượng chất thải các loại (rắn, lỏng, khí) rất lớn, có chứa nhiều chất độc hại, và được thải ra liên tục. Chỉ riêng chất thải lỏng được phê duyệt thải ra môi trường tới hàng chục nghìn m3/ngày.

Thế nhưng, việc quan trắc, giám sát từ phía các cơ quan của nhà nước lại chỉ thực hiện theo chu kỳ. Đặc biệt, việc xử lý các chất cực độc phát sinh từ công nghệ luyện coke-gang-thép đã không được kiểm soát khách quan và liên tục. Đây là một kẽ hở lớn mà chủ đầu tư có thể lợi dụng để chỉ cần trong vòng vài phút có thể thải hết ra biển hàng tấn chất cực độc như Chlorine, Phosphorous, Arsenic.

Để làm sáng tỏ vấn đề này, cơ quan chức năng cần công bố toàn văn ĐTM và những tài liệu liên quan đến việc phê duyệt ĐTM của dự án.

Câu hỏi, liệu hàng tấn chất cực độc nêu trên có dẫn đến cá chết hàng loạt hay không? chúng tôi xin nhường lời cho các nhà khoa học hóa sinh./.

Hà Nội, ngày 01/5/2016

N.T.S.

Tác giả gửi BVN

 

This entry was posted in Lên Tiếng, Môi Trường. Bookmark the permalink.