Cuộc chiến tranh không tiếng súng của Tàu Cộng mà những kẻ mê mẩn “4 tốt và 16 chữ” sẽ hồn nhiên đưa cả dân tộc đến chỗ bó gối quy hàng(*)

Bài 1 Sự chân thành đáng sợ

NGỌC VIỆT

… Người viết cho rằng, doanh nhân Trung Quốc sẽ chọn vốn đối ứng là quyền sử dụng đất, ngay cả đất nông nghiệp hay đất lâm nghiệp, thậm chí cả đất hoang hóa, chứ không cần đất ở các khu vực đắc địa hay “đất vàng”. Điều này tính khả thi cao và có thể sớm diễn ra “ngoại giao nhà đất” giữa Chính phủ Trung Quốc với nhiều chính phủ các quốc gia trên thế giới […].

Như vậy trong tương lai có thể hàng trăm hecta, thậm chí hàng ngàn hecta đất của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam, trở thành vốn đối ứng trong các dự án mà doanh nghiệp Trung Quốc thắng thầu. Trong tương lai sẽ có thể có những “làng mạc” Trung Quốc ở nhiều quốc gia trên thế giới, chứ không chỉ là những khu phố Trung Quốc, dạng “China town” nữa.

Chỉ “một tấc đất” của cha ông để lại nơi biên giới hay đảo xa bị mất là có thể xảy ra những xung đột căng thẳng. Nhưng hàng ngày, hàng giờ có thể có hàng “triệu tấc đất” của tổ tiên dần dần trở thành tài sản của người khác trong một cuộc chiến âm thầm – chiến tranh kinh tế – thì nhiều người có thể dễ lãng quên.

(GDVN) – “Triệu tấc đất” của tổ tiên dần dần trở thành tài sản của người khác trong một cuộc chiến âm thầm – chiến tranh kinh tế – thì nhiều người có thể dễ lãng quên.

Ngày 3/3 The Straits Times có đăng bài viết của Giáo sư Lu Guangsheng – Đại học Vân Nam về công cụ “ngoại giao đường sắt” của Trung Quốc, trong đó chủ yếu phân tích về nguyên nhân các doanh nghiệp Trung Quốc thắng thầu trong các dự án đường sắt cao tốc tại các quốc gia Đông Nam Á trong thời gian gần đây.

“Đó là một cuộc đua và Trung Quốc cuối cùng đã vượt qua đối thủ Nhật Bản trong tháng 10/2015, khi các doanh nghiệp Trung Quốc đã ký một thỏa thuận liên doanh với các đối tác Indonesia về dự án đường sắt cao tốc Jakarta-Bandung.

Dự án này là một mốc quan trọng trong sự tiến bộ của Chính phủ Trung Quốc trên lĩnh vực “ngoại giao đường sắt”. Trung Quốc đã đạt được thành công ban đầu với ngoại giao đường sắt của mình, trước hết bởi vì Trung Quốc rất coi trọng ngành đường sắt tốc độ cao của mình.

Thứ hai, Trung Quốc cho thấy mình có “đủ chân thành”, mà dự án Jakarta-Bandung là một ví dụ. Trung Quốc đồng ý không sử dụng vốn của Chính phủ Indonesia hoặc yêu cầu bảo lãnh của Chính phủ nước này đối với các khoản vay.

Nói cách khác, Trung Quốc cung cấp khoản vay đủ 5,5 tỷ USD với lãi suất 2%/năm mà không đòi hỏi Indonesia ứng vốn hay bảo lãnh nợ”.

clip_image001

Tổng thống Indonesia Joko Widodo và lãnh đạo ngành đường sắt Trung Quốc Sheng Guangzu tham dự một buổi lễ động thổ cho tuyến đường sắt tốc độ cao Jakarta-Bandung – một sản phẩm của “ngoại giao đường sắt với đầy sự chân thành” của Trung Quốc. Ảnh: Reuters.

Hiện cũng đã có tiến bộ trong các dự án đường sắt Trung – Thái, Trung – Lào và dự kiến ​​sẽ khởi công trong năm nay.

Vào tháng 9/2015 Chính phủ Lào đã thông qua một nghị quyết cho việc xây dựng đường sắt Trung – Lào với chi phí 6,8 tỷ USD. Tháng 11/2015, Nội các Thái Lan đã thông qua dự án đường sắt Trung – Thái với chi phí 14 tỷ USD.

Qua phân tích cho thấy, Chính phủ Trung Quốc đã nâng đỡ các đối tác của mình và hỗ trợ họ có thể sử dụng sản phẩm công nghệ đường sắt cao tốc của Trung Quốc một cách tưởng chừng “chân thành và đầy nghĩa cử cao đẹp” của những mối quan hệ hợp tác.

Điều đó cùng với việc bị tung hỏa mù bởi quy trình kinh tế đảo ngược là lý do khiến các đối tác không thể từ chối bắt tay Trung Quốc.

Với những chiến thắng trên mặt trận không tiếng súng này cùng những kết quả của việc tái cơ cấu nền kinh tế, có thể thấy rằng những triết lý và cơ chế nguy hiểm trong chính sách phát triển kinh tế của Trung Quốc đang là mối nguy hại cho các nền kinh tế trên thế giới, nhất là những quốc gia láng giềng và thân cận của họ.

Theo tìm hiểu của người viết và qua những sự kiện diễn ra gần đây trong hợp tác kinh tế của Trung Quốc với nước ngoài, trong đó có Việt Nam, có thể nhận diện hai hiện tượng nguy hiểm, thể hiện sự “chân thành” của người Trung Quốc đối với những đối tác thân tình nhưng mục đích có lẽ không ngoài việc phục vụ ý đồ toàn cục của họ.
Những công trường rộn tiếng Hoa

“Trung Quốc đã trúng thầu bằng cách cung cấp cho Indonesia một gói tài chính cạnh tranh hơn Nhật Bản. Song điều đáng chú ý là đường sắt tốc độ cao Jakarta-Bandung dài 150km, tốc độ 250km/h đến 300km/h, áp dụng đầy đủ các tiêu chuẩn của Trung Quốc về công nghệ và thiết bị. Trung Quốc sẽ quản lý toàn bộ quá trình từ khảo sát, thiết kế, xây dựng đến vận hành và quản lý khai thác”, theo Giáo sư Lu Guangsheng.

Như vậy là người Trung Quốc có mặt và nắm giữ vai trò đối với tất cả các khâu của một dự án đầu tư nước ngoài. Và không chỉ là sự có mặt của các chuyên gia kỹ thuật, những nhà kỹ trị mà là cả công nhân lao động kỹ thuật cao và thậm chí cả lao động làm những công việc phổ thông, giản đơn – những công việc thường thuộc về người lao động bản địa.

clip_image002
Khu công nghiệp Formosha, Vũng Áng, Hà Tĩnh cũng là một đại công trường “rộn tiếng Hoa”, Ảnh: Báo Tuổi trẻ (tuoitre.vn).

Điều ấy đã là một thực tế và càng ngày càng có nhiều dự án kiểu “bao trọn gói” như vậy của người Trung Quốc. Những nhà thầu Trung Quốc tạo công ăn việc làm cho người Trung Quốc ở nước ngoài không chỉ là “lợi ích toàn tập” mà nó còn là một kênh góp phần quan trọng vào việc giải quyết vấn nạn lao động dôi dư của Trung Quốc do tái cơ cấu kinh tế tạo ra.

Ngay từ năm 2011 – 2012, khi Chính phủ Trung Quốc xác định và đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế, tập trung vào tiêu dùng nội địa và dịch vụ tài chính, thương mại thì nhịp độ phát triển của nền kinh tế Trung Quốc giảm nhiệt. Và sau 25 năm bùng nổ, năm 2015 vừa qua tốc độ tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc chỉ đạt con số 6,9%.

Con số 6,9% gắn với nhiều vấn đề kinh tế – xã hội phát sinh mà Bắc Kinh phải giải quyết. Đặc biệt năm 2016 và những năm tiếp theo, dự báo kinh tế nước này vẫn tiếp tục có tốc độ tăng trưởng giảm, năm sau phát triển thấp hơn năm trước. Điều đó khiến cho việc giải quyết những hệ quả của nó ngày càng trở thành vấn đề mang tính chiến lược của Trung Quốc.

Trong số đó có vấn đề đầu tư nước ngoài và tạo việc làm cho lưc lượng lao động dôi dư do tái cơ cấu nền kinh tế tạo ra. Khi đầu tư trong nước giảm thì đầu tư nước ngoài của Trung Quốc tăng để tạo sự cân bằng trong phát triển, nhưng thực ra là tạo ra đòn bẩy cho hoạt động thương mại và dịch vụ tài chính.

Doanh nhân Trung Quốc ra nước ngoài làm ăn, ngoài làm tăng giá trị tài sản của Trung Quốc nước ngoài, còn giải quyết việc làm cho lao động Trung Quốc.

Sau khi “ngoại giao kinh tế” đi trước, tiếp theo sẽ đến nghiệp vụ kinh tế phát sinh, thể hiện qua việc người Trung Quốc tham gia hợp tác kinh tế với đối tác bằng hàng loạt những dự án mà họ là những nhà thầu cung ứng trọn gói các dịch vụ từ khảo sát thiết kế, tư vấn giám sát, quản lý kỹ thuật đến triển khai gói thầu, sử dụng sản phẩm và quản lý khai thác.

Nếu như các nhà thầu ở các quốc gia khác, lực lượng triển khai gói thầu chủ yếu là lao động có trình độ chuyên môn cao như các chuyên viên, chuyên gia thì với người Trung Quốc, họ tham gia vào cả những bước công việc, thực hiện những loại công việc có tính chất giản đơn mà trước đây giành cho công nhân lao động của những quốc gia là chủ đầu tư.

Vì vậy, đã có nhiều công trường “rộn tiếng Hoa” ở nhiều quốc gia mà doanh nghiệp Trung Quốc thắng thầu và triển khai dự án. Nay với việc tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng giảm đầu tư trong nước thì lượng lao động thất nghiệp tại quốc nội là rất lớn.

Bởi vậy, sắp tới sẽ có làn sóng người Trung Quốc chuyển ra nước ngoài làm việc, cạnh tranh gay gắt với thị trường lao động thế giới.

Dư luận Việt Nam đã từng nhiều lần đặt câu hỏi và nghi ngại về hàng ngàn người Trung Quốc làm việc trên công trường của các dự án mà doanh nghiệp Trung Quốc thắng thầu tại Việt Nam. Điều đó cho thấy nguy cơ người Việt Nam bị “cướp” mất việc ngay trên đất nước mình là một thực tế được cảnh báo và đã diễn ra.

Theo báo cáo của Ban quản lý các Khu kinh tế Hà Tĩnh tháng 10/2014, trong tổng số hơn 5.300 lao động làm việc tại các công trường của dự án Formosa có 3.680 người Trung Quốc.

Trong dự án Formosa có 92 nhà thầu thi công đến từ Trung Quốc, Đài Loan và chính quyền Hà Tĩnh đồng ý cho các nhà thầu tuyển dụng 10.820 lao động nước ngoài, để đáp ứng nhu cầu của họ.

Trong khi đó, trả lời báo chí ngày 9/10/2014, bà Nguyễn Thị Hải Vân, Cục trưởng Việc làm (Bộ Lao động Thương binh và Xã hội) thì cho hay : “Ở Vũng Áng, thời điểm cao nhất trung bình cứ 7 người Việt Nam thì có một người nước ngoài làm việc. Thời điểm thấp nhất tỷ lệ này là 4/1. Như vậy, lao động Việt Nam vẫn là những lao động chính”.

Có lẽ cơ quan quản lý nhà nước chưa xem vấn đề lao động Trung Quốc tại Việt Nam là đáng báo động.

Hiện nay, ở Việt Nam có bao nhiêu dự án, bao nhiêu nhà thầu và bao nhiêu người lao động Trung Quốc đang làm việc tại đó, người viết xin phép chưa đưa ra con số cụ thể, bởi lẽ nó không chính xác vì còn tình trạng lao động chui, lao động không phép.

Tuy nhiên, chỉ biết rằng những công trường rộn tiếng Hoa vẫn đang hàng ngày, hàng giờ tạo ra những “đổi thay” trên đất nước Việt Nam.
Ngoại giao nhà đất

Tại Indonesia, Thái Lan, Lào, nhà thầu Trung Quốc được đối tác lựa chọn nhờ có sự hỗ trợ của “ngoại giao đường sắt” khi“Chính phủ Trung Quốc thúc đẩy để thỏa hiệp nhiều lần và cuối cùng đồng ý cung cấp khoản vay đầy đủ mà không cần vốn đối ứng của đối tác cũng như bảo lãnh của Chính phủ Indonesia, như trong dự án đường sắt Jakarta-Bandung.

Bởi lẽ Trung Quốc áp dụng lãi suất khoảng 2%/năm, trong khi Nhật Bản cung cấp một lãi suất thấp đáng ngạc nhiên là 0,1%/năm đối với dự án đó. Điều này cũng làm giảm đáng kể khả năng cạnh tranh của Trung Quốc với Nhật Bản khi tham gia đấu thầu các dự án đường sắt lớn ở Đông Nam Á”, theo Giáo sư Lu Guangsheng.

Nhưng hiện nay, với kinh tế khó khăn và thời gian hoàn vốn cho dự án rất dài nên những dự án lớn của Trung Quốc thắng thầu ở nước ngoài sẽ tăng thêm mức độ rủi ro. Vậy nhưng các doanh nghiệp Trung Quốc vẫn tăng cường hợp tác đầu tư ở nước ngoài, vẫn tham gia mọi gói thầu mà họ thấy có lợi. Tại sao họ không lo sợ mất vốn, thua lỗ, thiệt thòi?

Thực ra, Chính phủ Trung Quốc, doanh nhân Trung Quốc đã nhìn thấy một loại vốn đối ứng cho khoản tiền “bỏ ra trước” trong việc thi công những công trình mà họ thắng thầu, đó là nhà và đất. Và “ngoại giao nhà đất” sẽ là một kiểu “ngoại giao kinh tế” mà Chính phủ Trung Quốc có thể thực hiện để hỗ trợ cho doanh nghiệp Trung Quốc làm ăn ở nước ngoài.

Hiện tại ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam, hàng ngàn công trình ngàn tỷ, trăm tỷ phải ngừng thi công vì thiếu vốn, gây lãng phí tiền bạc vô cùng lớn cho người dân, cho doanh nghiệp và cho nhà nước. Theo giới đầu tư quốc tế, những công trình đắp chiếu ấy sắp tới có thể là những tài sản đối ứng cho Trung Quốc và nhiều công trình sẽ lại rộn tiếng Hoa.

Việc đó không có gì là không thể khi người Trung Quốc có thể định giá “rẻ như cho” những “miếng mồi” mà trước đây thuộc dạng “đắt xắt ra miếng” và họ chỉ cần hoàn tất là có thể sử dụng vào mục đích của mình.

Còn với chính phủ và doanh nghiệp các nước sở tại, nếu được đề nghị đối ứng thì chẳng khác gì nằm mơ giữa ban ngày. Tưởng chừng như thế là “hai bên cùng có lợi”.

Tuy nhiên, việc “nhà đối ứng công trình” hay “công trình đối ứng công trình” còn gặp khó khăn về thủ tục và nhất là định giá, do đó thời gian sẽ không thể nhanh được, ảnh hưởng đến những công trình mới mà doanh nghiệp Trung Quốc thắng thầu, ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế – xã hội của một vùng miền hay cả một đất nước.

Do vậy người viết cho rằng, doanh nhân Trung Quốc sẽ chọn vốn đối ứng là quyền sử dụng đất, ngay cả đất nông nghiệp hay đất lâm nghiệp, thậm chí cả đất hoang hóa, chứ không cần đất ở các khu vực đắc địa hay “đất vàng”. Điều này tính khả thi cao và có thể sớm diễn ra “ngoại giao nhà đất” giữa Chính phủ Trung Quốc với nhiều chính phủ các quốc gia trên thế giới.

Riêng ở Việt Nam, có lẽ dư luận chưa quên một dự án giao thông quan trọng bậc nhất của Thành phố Hồ Chí Minh là dự án vành đai Tân Sơn Nhất – Bình Lợi (nay là đường Phạm Văn Đồng) đã thực hiện theo phương châm “đổi đất lấy hạ tầng” với nhà thầu chính Tập đoàn GS Engineering & Construction (GS E&C) – Hàn Quốc, theo báo cáo của UBND TP Hồ Chí Minh.

Dự án Tân Sơn Nhất – Bình Lợi – Vành đai ngoài đi từ sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất qua cầu Bình Lợi và nối với vành đai ngoài tại Ngã tư Xuân Hiệp. Toàn tuyến dài 13,7 km đi qua 4 quận: Tân Bình, Gò Vấp, Bình Thạnh và Thủ Đức, chiều rộng tuyến từ 30-60m (tương đương đường 6 – 12 làn xe). Thời gian thi công dự án là 48 tháng kể từ khi bàn giao mặt bằng
Đây là dự án BT (xây dựng – chuyển giao) đầu tiên do công ty vốn 100% nước ngoài đảm nhận, theo đó Công ty GS E&C sẽ ứng vốn thi công dự án và đổi lấy 7 khu đất tại Quận 2, Quận 9, Quận 10 của TP Hồ Chí Minh với tổng diện tích 100 hecta để GS E&C đầu tư các dự án bất động sản. Tổng trị giá đầu tư cho dự án là hơn 340 triệu USD.

Đến nay, dự án Tân Sơn Nhất – Bình Lợi đã đưa vào sử dụng. Với một “tiền lệ” như vậy, có lẽ việc doanh nghiệp Trung Quốc đề xuất phương án “đổi đất lấy hạ tầng” cho những dự án của họ sẽ triển khai là không có gì nằm ngoài dự đoán của giới đầu tư. Đặc biệt, với mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc thì hình thức “ngoại giao nhà đất” có thể diễn ra thuận lợi.

Như vậy trong tương lai có thể hàng trăm hecta, thậm chí hàng ngàn hecta đất của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam, trở thành vốn đối ứng trong các dự án mà doanh nghiệp Trung Quốc thắng thầu. Trong tương lai sẽ có thể có những “làng mạc” Trung Quốc ở nhiều quốc gia trên thế giới, chứ không chỉ là những khu phố Trung Quốc, dạng “China town” nữa.

clip_image003
Nông dân Trung Quốc thuê đất ở nước ngoài làm nông nghiệp – có thể trong tương lai họ sẽ tham gia thực hiện chính sách “ngoại giao nhà đất” của Trung Quốc. Ảnh: Nikkei Asian Review.

Trong khi người ta còn đang mải nghiên cứu tái cơ cấu nền kinh tế Trung Quốc là gì, chỉ số tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc giảm thì có ý nghĩa như thế nào, thì tác hại của nó đã hiển hiện, đã trở thành mối nguy cho người dân, cho đất nước ở nhiều khu vực trên thế giới – trong đó có người dân, có doanh nghiệp Việt Nam.

Chỉ “một tấc đất” của cha ông để lại nơi biên giới hay đảo xa bị mất là có thể xảy ra những xung đột căng thẳng. Nhưng hàng ngày, hàng giờ có thể có hàng “triệu tấc đất” của tổ tiên dần dần trở thành tài sản của người khác trong một cuộc chiến âm thầm – chiến tranh kinh tế – thì nhiều người có thể dễ lãng quên.

“Cuộc chiến tranh không tiếng súng” với Trung Quốc dù không gây ra thương vong, đổ máu, nhưng ảnh hưởng của nó trên những công trường rộn tiếng Hoa có thể là nguyên nhân khiến cho người dân mất đi cuộc sống yên bình, đất nước mất đi vẻ thanh bình nếu mất cảnh giác với những suy nghĩ chủ quan.

clip_image004N.V.

Nguồn: http://giaoduc.net.vn/Quoc-te/Su-chan-thanh-dang-so-post166141.gd

Bài 2: Bẫy kép của Trung Quốc và bài học đường sắt Việt Nam

Và đó cũng là nguyên nhân hàng loạt công trình nhà thầu Trung Quốc đang thực hiện tại Việt Nam đội vốn, theoFinancial Times.

Phần I

Điều đó cho thấy Trung Quốc đã sử dụng nhiều công cụ phục vụ cho ý đồ toàn cục của họ và họ đã có những thành công. Trong quá trình vận dụng, có những công cụ của Trung Quốc mà đối thủ, đối tác có thể nhận ra được và có thể có biện pháp đối phó.

Nhưng Bắc Kinh cũng có những công cụ người ta không thể tìm ra biện pháp hóa giải mà chỉ thể hiện thái độ bức xúc, thậm chí căm ghét, tẩy chay mà thôi.

Đặc biệt, Trung Quốc còn có những công cụ rất tinh vi, triệt hạ đối thủ, khống chế đối tác rất nhẹ nhàng và không phải ai cũng nhận ra được. Vì vậy những công cụ này thường làm cho đối thủ “ngã ngựa”, còn đối tác thì sẵn sàng tự nguyện “chui đầu vào rọ” mà vẫn vui mừng, vẫn tin là mình có lợi, mình thắng lợi.

Đã có rất nhiều nền kinh tế lao đao vì vấn nạn này, đã có hàng loạt thực thể kinh tế “chết đứng” vì những công cụ đặc biệt này của Chính phủ Trung Quốc, của doanh nghiệp Trung Quốc và của thương nhân Trung Quốc.

Công cụ gì mà đặc biệt quá vậy? Công cụ gì mà có thể giúp Trung Quốc chiến thắng cả những chuyên gia kinh tế bậc thầy của Nhật Bản vậy?

Qua nghiên cứu hàng loạt những vấn đề kinh tế, những hoạt động thương mại, những quan hệ hợp tác… người viết cho rằng Trung Quốc đã áp dụng quy trình ngược trong hoạt động kinh tế. Hệ quả của nó thể hiện ra người Trung Quốc là những người làm ăn dễ dãi, thoải mái trong cả vai trò người bán – người cung ứng và trong cả vai trò người mua – người tiêu thụ.

Và đó là cách thức Trung Quốc ru ngủ đối phương và đưa họ vào bẫy.

Ngày 1/11/2015, Forbes Asia nêu lại câu hỏi mà Chính phủ Nhật Bản đã tư vấn họ: Tại sao chúng ta lại thất bại trước Trung Quốc trong việc đấu thầu dự án đường sắt cao tốc tại Indonesia?

Sau khi phân tích những nội dung mà Trung Quốc và Nhật Bản đưa ra với chủ đầu tư Indonesia, Forbes Asia đã nhận định: Bảy năm nỗ lực của Nhật Bản đã không mang lại kết quả gì.

Dự án thuộc về Trung Quốc không chỉ là một thành công từ góc độ thương mại thông thường, mà về mặt ngoại giao kinh tế, đó là một bước tiến có ý nghĩa sâu sắc đối với Trung Quốc. Còn đối với Nhật Bản, đây là một dịp để họ suy nghĩ lại về các chính sách và chiến lược của mình ở châu Á.

Điều đó cho thấy Trung Quốc đã sử dụng nhiều công cụ phục vụ cho ý đồ toàn cục của họ và họ đã có những thành công. Trong quá trình vận dụng, có những công cụ của Trung Quốc mà đối thủ, đối tác có thể nhận ra được và có thể có biện pháp đối phó.

Nhưng Bắc Kinh cũng có những công cụ người ta không thể tìm ra biện pháp hóa giải mà chỉ thể hiện thái độ bức xúc, thậm chí căm ghét, tẩy chay mà thôi.

Đặc biệt, Trung Quốc còn có những công cụ rất tinh vi, triệt hạ đối thủ, khống chế đối tác rất nhẹ nhàng và không phải ai cũng nhận ra được. Vì vậy những công cụ này thường làm cho đối thủ “ngã ngựa”, còn đối tác thì sẵn sàng tự nguyện “chui đầu vào rọ” mà vẫn vui mừng, vẫn tin là mình có lợi, mình thắng lợi.

Đã có rất nhiều nền kinh tế lao đao vì vấn nạn này, đã có hàng loạt thực thể kinh tế “chết đứng” vì những công cụ đặc biệt này của Chính phủ Trung Quốc, của doanh nghiệp Trung Quốc và của thương nhân Trung Quốc.

Công cụ gì mà đặc biệt quá vậy? Công cụ gì mà có thể giúp Trung Quốc chiến thắng cả những chuyên gia kinh tế bậc thầy của Nhật Bản vậy?

Qua nghiên cứu hàng loạt những vấn đề kinh tế, những hoạt động thương mại, những quan hệ hợp tác… người viết cho rằng Trung Quốc đã áp dụng quy trình ngược trong hoạt động kinh tế. Hệ quả của nó thể hiện ra người Trung Quốc là những người làm ăn dễ dãi, thoải mái trong cả vai trò người bán – người cung ứng và trong cả vai trò người mua – người tiêu thụ.

Và đó là cách thức Trung Quốc ru ngủ đối phương và đưa họ vào bẫy.

clip_image005
Thủ tướng Lý Khắc Cường – một trong những người hoạch định chính sách kinh tế của Trung Quốc, trong đó có những công cụ khống chế đối tác, đánh gục đối thủ. Ảnh: Reuters/SCMP.

Người bán dễ chịu

Trong quan hệ kinh tế, từ thăm dò đến chính thức đặt vấn đề, người Trung Quốc thường xúc tiến rất nhanh lẹ. Đó là một trong những yếu tố làm cho nhiều người rất thích và mong muốn hợp tác, trở thành đối tác với Trung Quốc và đương nhiên là gạt bỏ những đối tác tiềm năng khác để dành ưu ái cho Trung Quốc.

Trong hoạt động kinh doanh, cơ hội vụt đến rồi vụt đi nên việc nắm bắt và khai thác được cơ hội là một trong những yếu tố làm nên thành công cho doanh nghiệp, doanh nhân và cho cả nền kinh tế.

Tuy nhiên, trong quan hệ làm ăn với Trung Quốc thì mọi việc không đơn giản như vậy. Việc nhanh và chậm với Trung Quốc đều có ý đồ mà một phần là tối đa hóa lợi ích, và một phần là đánh gục cả đối thủ lẫn đối tác.

Trong quan hệ hợp tác, khi kết nối thành công thì quá trình hợp tác bắt đầu bằng việc triển khai nội dung các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Người ta thấy phía Trung Quốc luôn rất sốt sắng trong việc cho ra những sản phẩm của sự hợp tác.

Đó là hồ sơ chào hàng với những nội dung mặc định như mẫu mã, chủng loại, số lượng, giá cả, thời gian giao nhận, cách thức thanh toán và yêu cầu kỹ thuật.

“Ông Teten Maskuki, Trưởng bộ phận hành chính của Tổng thống Indonesia cho rằng, Joko Widodo quyết định chọn Trung Quốc chủ yếu dựa vào cách tiếp cận chính thức của Trung Quốc rất thực tế và nhanh lẹ, kiểu “doanh nghiệp với doanh nghiệp”, trái ngược với kiểu tiếp cận “chính phủ với chính phủ” như của Nhật Bản”, theo Forbes Asia.

Ai cũng biết rằng, trong những nội dung của một thương vụ kinh tế – theo cả lý thuyết kinh tế và thực tế hoạt động kinh doanh – thì yêu cầu kỹ thuật của sản phẩm là yếu tố quyết định những yếu tố còn lại.

Vì nếu “cần và có” đã kết nối thành công, thì vấn đề tiếp theo sẽ phải là “tiền nào của đó”. Nghĩa là chất lượng sản phẩm sẽ là yếu tố cốt lõi làm nên giá trị sử dụng, cấu tạo nên giá thành, hình thành nên giá trị và quyết định nên giá bán.

Nguồn: http://baodatviet.vn/kinh-te/tai-chinh/bay-kep-cua-trung-quoc-va-bai-hoc-duong-sat-viet-nam-3300155/

Phần II

Nhưng trong sản xuất – kinh doanh thì có mức thấp nhất cho chi phí sản xuất, hình thành nên giá thành tối thiểu – tức là hao phí không thể thấp hơn được nữa. Song với Trung Quốc thì giá nào người ta cũng làm được, vì vậy sẽ có những sản phẩm mà Trung Quốc chào bán, bỏ thầu thấp hơn cả giá thành tối thiểu.

Trung Quốc làm cho đối tác không thể hiểu được và cũng không thể từ chối sự hợp tác của Trung Quốc được. Đó là lý do Trung Quốc có thể thắng thầu gần như bất cứ công trình nào mà họ tham gia.

Trung Quốc có thể vượt qua tất cả đối thủ cạnh tranh để trở thành nhà cung cấp sản phẩm thiết yếu cho bất cứ quốc gia nào nếu họ xúc tiến, hợp tác.

Tuy nhiên, khi bước vào triển khai thì mọi việc mới trở nên nan giải. Gần như tất cả các công trình của Trung Quốc làm chủ thầu hay là nhà cung cấp chính đều phát sinh tăng giá, tăng chi phí tài chính.

Yêu cầu kỹ thuật thì rất đa dạng, phụ thuộc vào chủng loại hàng hóa và nhu cầu của người mua. Thể hiện của yêu cầu kỹ thuật sẽ là các thông số kỹ thuật, có thể là kích thước, tỷ lệ các thành phần cấu tạo nên sản phẩm hay giá trị sản phẩm. Có thể hình dáng và màu sắc. Có thể kiểu dáng và mẫu mã…

Tất cả những yêu cầu kỹ thuật của sản phẩm hình thành nên hồ sơ kỹ thuật. Đây là có thể là một trong những nội dung của hồ sơ đấu thầu một công trình xây dựng, một dự án chuyển giao công nghệ hay nội dung của những bản nghịệm thu hàng hóa trong quá trình sản xuất và giao nhận…

Nghĩa là yêu cầu kỹ thuật phải là điểm bắt đầu cho quá trình triển khai các hoạt động kinh tế và cũng là yếu tố quyết định cuối cùng các nghiệp vụ kinh tế phát sinh.

Yêu cầu kỹ thuật của sản phẩm được xem là trục, là lõi quyết định tính chất các nghiệp vụ kinh tế phát sinh.

Tuy nhiên, với Trung Quốc thì yêu cầu kỹ thuật lại không được xem là yếu tố quyết định mà thay vào đó là giá cả – yếu tố tài chính mới là cơ sở quyết định cho khởi đầu một quá trình kết hợp, hợp tác, chuyển giao hay trao đổi trong việc thiết lập các quan hệ kinh tế của họ với các đối tác.

Qua những hiện tượng diễn ra trong quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc với các đối tác, người ta nhận ra rằng sản phẩm nào đó mà người mua, người đặt hàng, người mời thầu – người có nhu cầu – chỉ cần nêu lên ý tưởng hay ý định thì phía Trung Quốc sẽ tiếp cận để trở thành bên cung ứng bắt đầu từ yếu tố giá cả.

Chẳng hạn một công trình sân vận động, một cây cầu hay một chủng loại sản phẩm hàng hóa nào đó, khi người ta nêu nhu cầu thì Trung Quốc sẽ nêu vấn đề giá cả – trị giá sản phẩm mà người có nhu cầu có khả năng đáp ứng thì Trung Quốc sẽ cung cấp sản phẩm tương ứng.

Nghĩa là với Trung Quốc, thì với mức giá nào họ sẽ đưa ra sản phẩm cho giá đó. Nghe thì có vẻ hợp lý, không có gì bất thường.

“Chi phí cao của các đề xuất bởi Nhật Bản về dự án đường sắt cao tốc đã không được Indonesia chấp nhận. Dù chi phí được xác định là có liên quan với các đề xuất cho tốc độ 300 km/h, nhưng các quan chức Indonesia cho rằng Trung Quốc cung cấp đề xuất cho tốc độ 200-250 km/h và được chấp nhận, để bảo đảm cắt giảm chi phí khoảng 30-40% cho dự án”, Forbes Asia cho biết.

Nhưng trong sản xuất – kinh doanh thì có mức thấp nhất cho chi phí sản xuất, hình thành nên giá thành tối thiểu – tức là hao phí không thể thấp hơn được nữa. Song với Trung Quốc thì giá nào người ta cũng làm được, vì vậy sẽ có những sản phẩm mà Trung Quốc chào bán, bỏ thầu thấp hơn cả giá thành tối thiểu.

Trung Quốc làm cho đối tác không thể hiểu được và cũng không thể từ chối sự hợp tác của Trung Quốc được. Đó là lý do Trung Quốc có thể thắng thầu gần như bất cứ công trình nào mà họ tham gia.

Trung Quốc có thể vượt qua tất cả đối thủ cạnh tranh để trở thành nhà cung cấp sản phẩm thiết yếu cho bất cứ quốc gia nào nếu họ xúc tiến, hợp tác.

Tuy nhiên, khi bước vào triển khai thì mọi việc mới trở nên nan giải. Gần như tất cả các công trình của Trung Quốc làm chủ thầu hay là nhà cung cấp chính đều phát sinh tăng giá, tăng chi phí tài chính.

Nguyên nhân không khó nhận ra, những giá cả ban đầu mà Trung Quốc đưa ra hấp dẫn những chủ đầu tư là những tính toán không sát thực. Vì họ đi ngược quy trình.

Lúc này sẽ xảy ra 2 vấn đề. Một là chủ đầu tư phải tăng chi phí để hoàn tất công trình, người mua phải tăng giá để có được sản phẩm ưng ý. Hai là dừng lại, chấm dứt hợp tác, dừng công trình, ngừng việc thực hiện hợp đồng kinh tế.

Cả hai việc này đều gây thiệt hại, thậm chí thiệt hại rất lớn cho chủ đầu tư, ảnh hưởng đến quốc kế dân sinh, làm giảm nhịp độ phát triển kinh tế.

Đó là nguyên nhân mà Indonesia vừa yêu cầu dừng việc triển khai công trình đường sắt cao tốc do nhà thầu Trung Quốc đảm nhận.

Và đó cũng là nguyên nhân hàng loạt công trình của nhà thầu Trung Quốc đang thực hiện tại Việt Nam đội vốn rất nhiều so với giá đặt thầu, mà lý do họ đề xuất là do biến động giá cả và những phát sinh không thể lường trước, theo Financial Times.

Thực ra, ai cũng hiểu rằng Trung Quốc đã lường trước tất cả mọi việc, nên dù có được tiếp tục triển khai hay phải dừng lại, chấm dứt hợp đồng thì họ đều là người chiến thắng – chiến thắng đối thủ cạnh tranh, chiến thắng đối tác trong việc đảo ngược những quy trình kinh tế.

Nguồn: http://baodatviet.vn/kinh-te/tai-chinh/bay-kep-cua-trung-quoc-va-bai-hoc-duong-sat-viet-nam-3300155/?paged=2

Phần III

Khi ở vai trò người bán hàng, người cung ứng, người Trung Quốc xem nhẹ yếu tố kỹ thuật của sản phẩm thì khi mua hàng họ cũng thể hiện dễ dãi như vậy […]

Vì không theo quy chuẩn kỹ thuật nên tất cả những sản phẩm sản xuất ra đều có thể không được người mua Trung Quốc nghiệm thu, không cho xuất giao nếu không vừa mắt họ.

Đặc biệt, khi thị trường giảm sức mua, ế ẩm hay vì người mua bực mình hoặc vì một nguyên nhân “vô tình” nào đó thì sự suôn sẻ, dễ chịu sẽ không còn nữa mà thay vào đó sẽ là hình ảnh những người mua sành sỏi, lọc lừa.

Họ kiểm định và thường có kết quả là không nghiệm thu. Do không có quy chuẩn kỹ thuật nên nhà sản xuất luôn bị thua thiệt vì những cái lỗi “trời ơi” nhưng không thể phản bác được.

Có thể người mua sẽ cho sửa lại theo ý của họ, nhưng chi phí thì khủng khiếp và nhà sản xuất cũng đã hết năng lực cho việc ấy. Hoặc người mua sẽ đề nghị giảm giá sản phẩm để họ có thể tiêu thụ. Trong tình thế này, chọn đường nào, hướng nào cũng “chết”.

Hiện tượng cầu thiếu móng cầu tại Campuchia cũng là hệ quả của quy trình kinh tế ngược này.

Sản phẩm quần áo của Trung Quốc nhiễm độc, đồ chơi trẻ em do Trung Quốc sản xuất có chất độc hại cũng xuất phát từ việc lấy kinh tế tài chính làm cơ sở, thay vì nền tảng ban đầu phải là kinh tế kỹ thuật.

Giá đã được xác định thì phải làm được bằng mọi cách. Thế là thay vì phải 5 bước, 6 thành phần… thì họ rút ngắn đi và đương nhiên là phải tận dụng tất cả những gì rẻ nhất, chi phí thấp nhất cho sản xuất.

Từ việc đảo ngược quy trình giữa kinh tế kỹ thuật và kinh tế tài chính, Trung Quốc đã không bám theo mục đích hai bên cùng có lợi trong hoạt động kinh doanh, từ đó họ xem nhẹ lợi ích của kinh tế xã hội.

Biểu hiện chính là làm ảnh hưởng xấu tới môi trường kinh doanh, gây xáo trộn tâm lý của người tiêu dùng, mà mục đích của họ là làm suy yếu đối thủ, hạ gục đối tác, phục vụ cho ý đồ toàn cục của họ.

Người mua dễ tính

Đối với những người kinh doanh, nhất là mới bắt đầu triển khai những công trình đầu tiên, sản xuất những loạt sản phẩm đầu tiên mà gặp được người mua hay đặt hàng là khách hàng Trung Quốc thì có thể nói ai cũng hạnh phúc vì họ thường là những người mua dễ dãi.

Khi ở vai trò người bán hàng, người cung ứng họ xem nhẹ yếu tố kỹ thuật của sản phẩm thì khi mua hàng họ cũng thể hiện dễ dãi như vậy.

Nhiều người sẽ đặt câu hỏi là nếu là người bán thì họ “gian” để có lợi, còn là người mua thì họ phải “kỹ” thì mới có sản phẩm ưng ý vì họ là người thụ hưởng giá trị, giá trị sử dụng của sản phẩm và họ là “Thượng Đế” mà.

clip_image006
Dù Thủ tướng Shinzo Abe rất cố gắng nhưng vẫn không giúp nhà thầu Nhật Bản được Tổng thống Joko Widodo lựa chọn, vì Trung Quốc đã thắng do đi ngược quy trình. Ảnh: Forbes.com.

Tuy nhiên, người Trung Quốc mua hàng, nhất là đặt mua hàng thì hầu hết họ đưa ra kiểu, loại sản phẩm mà họ cần đều theo cảm nhận.

Ngay cả việc đặt những đơn hàng lớn, nhất là những mặt hàng sản xuất không đồng loạt thì người Trung Quốc cũng thường không đưa ra bất cứ văn bản yêu cầu kỹ thuật nào.

Nhà sản xuất – người cung ứng cứ chào hàng, cứ sản xuất mẫu, người ta cảm nhận được, nhìn thấy được là đồng ý cho sản xuất. Trong quá trình sản xuất người mua cũng rất ít đến kiểm tra, giám sát.

Người bán hàng – người cung ứng cảm thấy rất thoải mái vì không bị giám sát ngặt nghèo của người mua và đương nhiên tiến độ sản xuất được đẩy nhanh, thời gian giao hàng sẽ đảm bảo chính xác, thậm chí còn hoàn tất trước thời hạn rất nhiều.

Tuy nhiên, khi đơn đặt hàng đã được hoàn tất, bên cung ứng đã hoàn thành trách nhiệm của mình thì sẽ nảy sinh vấn đề.

Đến lúc này, sẽ xảy ra tình huống là việc kiểm tra và tái kiểm tra sản phẩm hàng hóa làm cho người bán – nhà sản xuất căng thẳng bởi người mua kiểm tra, kiểm định bằng cảm nhận của mắt thường, không có tiêu chuẩn kỹ thuật để đối chiếu.

Nếu thị trường đang hút hàng, người mua sẽ rất dễ chịu, nhất là với những lô hàng đầu tiên.

Và hầu hết sự hợp tác được cảm nhận là gắn kết hơn, nâng tầm lên bằng những đơn đặt hàng tiếp theo với những số lượng mơ ước. Nhà sản xuất phải tập trung mọi nguồn lực để đáp ứng đơn hàng.

Đây mới thực sự là một vấn đề rất nguy hiểm. Vì không theo quy chuẩn kỹ thuật nên tất cả những sản phẩm sản xuất ra đều có thể không được người mua Trung Quốc nghiệm thu, không cho xuất giao nếu không vừa mắt họ.

Đặc biệt, khi thị trường giảm sức mua, ế ẩm hay vì người mua bực mình hoặc vì một nguyên nhân “vô tình” nào đó thì sự suôn sẻ, dễ chịu sẽ không còn nữa mà thay vào đó sẽ là hình ảnh những người mua sành sỏi, lọc lừa.

Họ kiểm định và thường có kết quả là không nghiệm thu. Do không có quy chuẩn kỹ thuật nên nhà sản xuất luôn bị thua thiệt vì những cái lỗi “trời ơi” nhưng không thể phản bác được.

Có thể người mua sẽ cho sửa lại theo ý của họ, nhưng chi phí thì khủng khiếp và nhà sản xuất cũng đã hết năng lực cho việc ấy. Hoặc người mua sẽ đề nghị giảm giá sản phẩm để họ có thể tiêu thụ. Trong tình thế này, chọn đường nào, hướng nào cũng “chết”.

Và đó là nguyên nhân khiến nhiều đối tác của Trung Quốc bị dồn vào thế đường cùng không cón cách lựa chọn nào khác là chấp nhận đề nghị của phía Trung Quốc.

Thế là từ những người mua dễ tính, người Trung Quốc đã hiện nguyên hình là những “con cáo già” trên thương trường mà mục đích của họ không phải chỉ là những lợi ích có được do mua bán, mà còn là những điều sâu xa mà họ hướng tới.

Nguồn: http://baodatviet.vn/kinh-te/tai-chinh/bay-kep-cua-trung-quoc-va-bai-hoc-duong-sat-viet-nam-3300155/?paged=3

Phần IV

Gần đây hàng loạt những công trình do nhà thầu Trung Quốc đảm nhận ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đều phát sinh nhiều vấn đề liên quan tới chất lượng kém và giá cả tăng. Hàng loạt những mặt hàng do Trung Quốc sản xuất bị người tiêu dùng trên toàn thế giới phản ứng về chất lượng – đó là một trong những vấn nạn đối với doanh nghiệp, với thương nhân Trung Quốc.

Thoạt nhìn qua ai cũng có thể cho rằng đó là sự gian dối, là vi phạm pháp luật ngay tại Trung Quốc nhưng được Chính phủ Trung Quốc bao che. Thực ra nó không đơn giản như vậy, vì nếu Chính phủ có sự dung túng cho những hành vi vi phạm pháp luật đó thì khi Chính phủ hết dung túng sự việc sẽ trở nên tốt hơn, ổn hơn.

Bản chất sự việc phức tạp hơn nhiều, nhưng lại không phải là vi phạm pháp luật về kinh doanh gian dối nên không bị Chính phủ Trung Quốc xử phạt, mà đó là do xuất phát từ cơ chế đảo ngược quy trình trong hoạt động kinh tế của Trung Quốc.

Đây là một trong những công cụ nguy hiểm mà người ta có thể nhận ra từ Chính phủ đến doanh nghiệp và doanh nhân Trung Quốc đều sử dụng. Mục đích của họ là làm suy yếu đối phương ở mọi cấp độ và đều hướng tới phục vụ cho ý đồ tthống trị thế giới của họ.

Có một điều cực kỳ nguy hiểm, đó là dựa vào dân số hơn 1 tỷ người nên hầu hết những đơn hàng mà Trung Quốc đặt ra rất lớn, vượt qua xa nhu cầu của họ, nhưng hầu hết các đối tác không hề nghi ngờ điều này.

Có thể nói rằng đây là cách Trung Quốc đánh gục đối thủ nhanh nhất khi họ đã dồn toàn lực vào đáp ứng nhu cầu của khách hàng Trung Quốc. Nếu gặp bất trắc thì đương nhiên là phá sản. Mọi việc lúc này phập phù theo cảm xúc của người mua.

Người viết đã từng tiếp xúc với những doanh nhân mang tên XC, LT, XB tại quận Tân Bình, TP Hồ Chí Minh – có người đã mở cả trung tâm mua bán và giới thiệu sản phẩm tại Bằng Tường, Vân Nam, Trung Quốc. Họ đều cho rằng làm ăn với Trung Quôc là “may nhờ rủi chịu”.

Khách hàng Trung Quốc đặt mua sản phẩm đồ gỗ gia dụng của họ nhưng không có tiêu chuẩn về màu sắc – không có bảng màu đối chiếu. Không có tiêu chuẩn về độ nhám bóng – nước nhám cuối cùng là nhám số bao nhiêu 400 hay 600. Không có tiêu chuẩn về vật liệu hoàn tất như sơn bóng loại nào PU hay NC. Không có tiêu chuẩn về độ ẩm gỗ là bao nhiêu %… Nói chung là khách hàng Trung Quốc chỉ nhìn bằng mắt và sờ bằng tay là quyết định.

Với một hay một vài sản phẩm có sẵn thì như vậy không có nguy cơ gây ra hậu họa, nhưng với số lượng lớn thì rõ ràng người đặt hàng đã đưa người sản xuất vào cửa tử.

Tuy nhiên, do khởi đầu bằng những sự dễ tính, lại có đơn đặt hàng lớn và không bị giám sát trong quá trình sản xuất nên nhiều chủ hàng đã rất mơ hồ vể thủ đoạn nguy hiểm này và thế là sập bẫy.

Gần đây hàng loạt những công trình do nhà thầu Trung Quốc đảm nhận ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đều phát sinh nhiều vấn đề liên quan tới chất lượng kém và giá cả tăng. Hàng loạt những mặt hàng do Trung Quốc sản xuất bị người tiêu dùng trên toàn thế giới phản ứng về chất lượng – đó là một trong những vấn nạn đối với doanh nghiệp, với thương nhân Trung Quốc.

Thoạt nhìn qua ai cũng có thể cho rằng đó là sự gian dối, là vi phạm pháp luật ngay tại Trung Quốc nhưng được Chính phủ Trung Quốc bao che. Thực ra nó không đơn giản như vậy, vì nếu Chính phủ có sự dung túng cho những hành vi vi phạm pháp luật đó thì khi Chính phủ hết dung túng sự việc sẽ trở nên tốt hơn, ổn hơn.

Bản chất sự việc phức tạp hơn nhiều, nhưng lại không phải là vi phạm pháp luật về kinh doanh gian dối nên không bị Chính phủ Trung Quốc xử phạt, mà đó là do xuất phát từ cơ chế đảo ngược quy trình trong hoạt động kinh tế của Trung Quốc.

Đây là một trong những công cụ nguy hiểm mà người ta có thể nhận ra từ Chính phủ đến doanh nghiệp và doanh nhân Trung Quốc đều sử dụng. Mục đích của họ là làm suy yếu đối phương ở mọi cấp độ và đều hướng tới phục vụ cho ý đồ thống trị thế giới của họ.

Theo GDVN

Nguồn: http://baodatviet.vn/kinh-te/tai-chinh/bay-kep-cua-trung-quoc-va-bai-hoc-duong-sat-viet-nam-3300155/?paged=4

(*) Đầu đề chung do BVN đặt

This entry was posted in Quốc Tế. Bookmark the permalink.