NÓI VỀ ĐẠO ĐỨC CHÍNH TRỊ (phần 2)  

30) Chính trị nhất thiết phải là đạo đức, không thể nào ngược lại.

Đạo đức không phải chỉ là phẩm chất tốt đẹp nơi mỗi cá nhân, nó còn là phạm trù phổ quát của xã hội. Tuy nhiên mọi người sinh ra trong xã hội đều nhất thiết có phẩm hạnh như nhau, có trí thông minh như nhau, có đầu óc xã hội hoặc vị tha như nhau, có khuynh hướng lý trí như nhau, có sự cao quý như nhau, có lòng quả cảm như nhau, có cá tính như nhau, hay có điều kiện xã hội và hoàn cảnh sống như nhau. Các ý nghĩa đó muốn hòa hợp nhau, muốn đạt kết quả tốt đẹp chung nhất trong toàn xã hội, tất yếu phải dựa trên khoa học, khai thác chức năng của khoa học, từ đó có những kỹ thuật mang tính khoa học để giải quyết hàng loạt những vấn đề không ngừng xảy ra, được đặt ra một cách mới mẻ không bao giờ chỉ giải quyết một lần là được cả. Có nghĩa khoa học luôn luôn phát triển mà không bao giờ dừng, và các kỹ thuật áp dụng tốt đẹp cho xã hội do từ nghiên cứu khoa học về xã hội mà ra luôn luôn cũng thế. Điều đó nói lên khoa kinh tế học, khoa chính trị học, cũng đều là những bộ phận của khoa học về xã hội, chịu sự chi phối hay dùng khoa học về xã hội làm nền tảng mà không thể nào khác. Bởi vậy mọi ý thức hệ đã có đều luôn luôn ngưng đọng, nó được một hay vài người sáng tạo ra ở đó tùy theo sự hiểu biết, trình độ nhận thức của mình, tùy theo điều kiện hoàn cảnh thời đại của mình, và nó cứ vẫn luôn như thế, được hoàn tất một lần và không bao giờ được thay đổi. Bởi vậy mọi sự cả tin, sự mù quáng vào một ý thức hệ chính trị nào đó đều trở thành ngớ ngẩn, u mê, phản tiến hóa và thành phản xã hội, phản động. Bởi kinh tế luôn luôn không ngừng phát triển nhờ khoa học kỹ thuật nói chung phát triển, nhờ lịch sử và xã hội phát triển, đó là lẽ khách quan tự nhiên, nên giai cấp nói chung vẫn luôn thay đổi, dạng thể bên ngoài của nó có thể đổi khác, nhưng cấu trúc xã hội thì luôn vẫn thế, không thể đổi thay mọi thành phần cơ bản của nó. Như vậy ý nghĩa của khoa học xã hội là nghiên cứu tìm cách làm sao cho cá nhân con người phát triển, xã hội loài người phát triển về mọi phương diện một cách hiệu quả và kết quả nhất, không thể chỉ dừng lại ở những quan điểm cảm tính nào đó, ở những thị hiếu, sở thích hay những mơ mộng hão huyền nào đó. Tính chất của khoa học hoàn toàn ngược lại với tính chất của cảm tính là như thế, tính cách của khoa học chính trị hoàn toàn khác với tính cách cảm tính về chính trị là như thế. Nên khi Marx nói sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, tính cách lãnh đạo của giai cấp công nhân là cách nói theo cảm tính, theo thị hiếu riêng, không phải có nền tảng khách quan khoa học vững chắc nào cả. Bởi vì không phải bất kỳ cá nhân nào cũng hoàn toàn tốt trong cõi đời này, vậy thì giai cấp hay hoàn cảnh sống riêng của các thành phần xã hội cũng thế. Chỉ có kết quả giáo dục, đào tạo rèn luyện về mặt nhận thức, chỉ có những bản chất trời sinh tự nhiên mới quyết định các năng lực và phẩm chất tốt đẹp nơi mỗi con người, không phải chỉ kiểu kết luận võ đoán, kiểu phóng đại chủ quan là đủ. Thậm chí nhiều xã hội không có giai cấp công nhân đủ về số lượng, cũng thay vào đó giai cấp nông dân, nhất là bần cố nông như có sứ mạng lịch sử cho giống với học thuyết của Marx. Do sự mù quáng và do áp lực về quyền lực, họ không thấy rằng học thuyết Marx hay ý hệ Marx là hoàn toàn phản khoa học, phản xã hội và phản thực tế. Bởi vì không thể bất kỳ ai vì nguyên nhân gì mà phủ nhận được dân quyền, nhân quyền, pháp quyền chính đáng của tất cả mọi người. Do vậy phong tặng giai cấp nào, cá nhân nào đương nhiên có quyền thống trị hay lãnh đạo toàn xã hội đều chỉ là những quan điểm ngu xuẩn, mị dân, ngu dân, phản tiến hóa, phản phát triển, phản lịch sử, phản xã hội và nói chung đều là phản động trong thực chất cả. Bởi vì xã hội luôn luôn là một tổng thể gắn kết chặt chẽ, sự phát triển của người nào cũng tạo thành sự phát triển chung, sự thụt lùi hay trì trệ của người nào cũng ảnh hưởng đến sự phát triển chung. Nên những thành phần ưu tú, trí thức, có đạo đức thật sự khi nắm quyền quản lý, điều hành xã hội, đương nhiên có thể làm cho xã hội tốt đẹp hơn, hoàn toàn ngược lại với các thành phần ngu dốt hay phi đạo đức nắm quyền, đó là lẽ khách quan từ ngàn xưa cũng vậy. Học thuyết Marx do đó trở thành một học thuyết mê tín, học thuyết phản khoa học, phản thực tiển khách quan mà bất kỳ ai ngày nay cũng đều nhận thức ra được. Ngày nay khoa học tiến bộ, khắp nơi trên thế giới, chính khoa học kỹ thuật phát triển mọi mặt, trong đó có những thế hệ máy móc thông minh, những chính sách phát triển kinh tế xã hội thông minh mới thật sự là những yếu tố thực tế giải phóng sức lao động của con người, giải phóng giai cấp công nhân và giai cấp nông nhân là hai giai cấp cơ bản trong xã hội về nhiều mặt mà không hề là lý thuyết đấu tranh giai cấp theo kiểu u mê và tàn khốc của Marx. Vì thế con người nhân văn và tài năng vẫn là yếu tố phát triển xã hội đích thực nhất, nó có thể đến từ bất kỳ giai cấp nào, và nếu những con người đó mà quản lý được xã hội về mọi mặt, toàn thể xã hội đều được hưởng mọi thành quả của nó, mọi cá nhân và mọi giai cấp trong đó cũng thế, đó là nguyên lý trí tuệ và đạo đức lãnh đạo, không phải giai cấp kiểu máy móc và thô lổ lãnh đạo. Điều đó cũng cho thấy quan điểm độc tài giai cấp, độc tài vô sản của Marx là một sự ngu dốt và sự tai hại chưa từng có cho xã hội, và quan điểm dân chủ tự do đích thực trong xã hội mới chính là yếu tố giải phóng mọi cá nhân, mọi giai cấp và giải phóng thường xuyên toàn thể xã hội cũng như lịch sử xã hội. Marx cho những nguyên lý tự do dân chủ và đạo đức truyền thống là của tư sản và phản động, như vậy chính Marx là người phản nhân bản, phản nhân văn, phản xã hội, và phản động trong thực chất và thực tế hơn ai hết. Bởi vì không khí chuyển động linh hoạt là do những nguyên tử, những phân tử khí kết hợp tự do, điều đó ngược lại với chất lỏng hay chất rắn, đó là ý nghĩa sơ đẳng nhất mà ai cũng biết, chỉ có Marx là không biết hay không chịu biết. Nên quan niệm độc tài chuyên chính của Marx đưa ra là quan niệm dại dột, quan niệm ngu xuẩn nhất trong xã hội loài người mà từ trước tới giờ đều chưa hề thấy. Bởi vì các chế độ xã hội phong kiến hay quân chủ độc đoán trong quá khứ nhân loại đều là sự tự phát khách quan do hoàn cảnh lịch sử quyết định, chưa bao giờ tạo thành như một học thuyết về ý hệ hay về khoa học nào cả, chỉ duy trừ có Marx là từng đã cả gan làm điều đó. Đó chẳng khác là xô một tảng đá lớn ra chặn đường phát triển đi lên tự do của xã hội nhân loại, sự ngờ nghệch và dại dột của Marx cũng chính là như thế. Đó là một quan điểm phi đạo đức về chính trị mà Marx đã vấp phải, nó không những hủy hoại cả kinh tế mà cả về văn hóa, cả về xã hội mà bao thế hệ trong thực tại quá khứ đã phải trải qua và chịu đựng. Các quan niệm như giết lầm hơn bỏ sót, triệt hạ trí phú địa hào đều là những quan niệm cực kỳ phản động, phản nhân văn, phản đạo đức mà học thuyết Marx vô tình hay hữu ý đã đưa lại trong thực tế xã hội nhiều nơi, nên sự làm nghèo nàn xã hội về mọi mặt như trong thời bao cấp ở nhiều nước đi theo quan điểm kinh tế xã hội thì ai cũng thấy rõ. Ngay cả hai giai cấp công nhân và nông dân cũng chẳng bao giờ cầm quyền thực tế hay sung sướng gì mà còn khổ hơn những thành phần khác trong xã hội kiểu như thế. Cuối cùng họ thật sự chỉ là cái bung xung để một thiểu số nào đó nhân danh họ mà áp chế lên xã hội còn thực chất không là gì khác. Tất cả những điều đó quả thật phản lại đạo đức chính trị cũng chỉ vì những lý do như thế.

Đúng ra không phải con người trong xã hội không phải ai ai cũng tốt. Chưa chắc cái tốt đã là đa số. Thực chất phần nhiều con người trong xã hội đều ích kỷ, thụ động, gian dối hay hèn yếu. Đó là nền móng hay nguyên nhân cho mọi chế độ độc tài độc đoán phát triển, vì khi đã có chân đứng rồi, nó trở thành quán tính, luôn luôn tồn tại tự động mà không bất kỳ lực lượng nào khác xô ngã nó được, trừ phi nó thành rệu rã và tự sụp đổ, điều đó người ta vẫn thấy thường xuyên trên thế giới hay trong lịch sử quá khứ của loài người. Bởi mọi sự độc đoán chuyên quyền thì thường áp dụng phương thức ngu dân và mị dân, điều đó càng làm cho con người thành thụ động, vô cảm, ích kỷ, hèn kém hơn lên qua nhiều thế hệ liên tiếp nhau, khiến chế độ độc tài càng vững, tức nó tự nuôi nó, được nuôi từ thứ sữa được vắt từ toàn thể xã hội mà chỉ có nó là có quyền vắt và quyền thủ lợi và toàn bộ xã hội cũng chỉ biết ú ớ mù quáng theo nó mà không thể cách nào làm khác. Nên đó quả là sự suy thoái về chính trị một cách tập thể, sự suy vi, suy hóa về đạo đức chính trị một cách tập thể và càng ngày càng gia tốc cũng như cường độ càng tăng cường thêm lên theo kiểu qui luật vật lý mà ai cũng hiểu. Bởi trong những trạng thái đó, con người đều đã bị vật hóa, xã hội đều đã bị vật hóa, thế thì quy luật vật lý mù quáng đã trở thành cai quản trong toàn thể đời sống xã hội, vậy thì quy luật nhân văn trong một xã hội nhân bản, nhân văn làm sao còn chỗ đứng hay phát triển lên được nữa. Đó tính cách liên thông hay liên kết tất yếu nhau giữa đạo đức chính trị và khoa học chính trị chỉ là như thế, chúng luôn luôn tỉ lệ thuận nhau, phát triển theo chiều dương hay suy thoái theo chiều âm cũng hoàn toàn, nhất thiết và thường xuyên là như thế. Bởi bản chất con người là hèn yếu, như Pascal nhà tư tưởng Pháp từng ví con người là cây sậy có lý trí là như thế. Nhưng trong chế độ xã hội thật sự tự do dân chủ thì lý trí đó được phát triển, phát huy tự do. Trái lại trong mọi chế độ độc tài độc đoán, lý trí đó trở thành điều kiện thích nghi, tự vệ, nó trở thành phục vụ cho mọi sự gian dối của bản thân và con người thực chất chỉ trở nên yếu đuối, trở nên hèn kém thêm, và trong mọi chế độ độc tài người ta chỉ có hát theo một chiều, suy nghĩ theo một chiều, phản ứng theo một chiều, hiểu biết theo một chiều, khiến xã hội cũng trở thành suy thoái, suy biến chung là hoàn toàn như vậy. Đó là ý nghĩa của xã hội không có đối lập, không có đa nguyên mà chỉ có một đảng duy nhất cầm quyền, tha hồ múa gậy vườn hoang mà không bất kỳ ai có thể cản được, hay ngay cả những kẻ cầm quyền cũng thực chất đều là những kịch sĩ, cũng chỉ diễn vai theo những kịch bản vốn đã có sẳn và chỉ được sao chép lại theo muôn thuở thế thôi. Tính chất bi hài của toàn xã hội là như thế, điều đó có khi không ai nhận ra hay sự nhận ra chỉ là thiểu số ít ỏi, vì toàn xã hội đã trở thành vong thân, bị đánh mất toàn diện bản thân mình, đã bị phóng thân trở thành vật thể toàn diện thì còn có yếu tố nào là tự thức, còn có ý nghĩa hay tiêu chí nào để so sánh hay để ngạc nhiên hay là để nói đến nữa. Thật là một tình trạng xã hội quái gở nhưng không ai nhận thấy ra được nên chỉ coi nó hoàn toàn bình thường hay thậm chí là lý tưởng, là tốt đẹp và những người như thế càng tâng nó lên, càng hót nó dữ, càng ca ngợi và suy tôn, thật là điều hoàn toàn hiếm thấy, cái ảo trở thành cái thật, cái thật trở thành cái ảo, không ai có thể quan niệm đạo đức hoặc khoa học đích thực lại có thể như thế được.

4/ Chính trị và đảng phái chính trị.

Không có chính trị nào đúng hơn là chính trị toàn dân, cũng không có chính trị nào đúng hơn là chính trị tự do dân chủ đích thực. Bởi vì chỉ chính trị như thế mới là chính trị dân quyền thật sự, nó không phụ thuộc nhất định vào cá nhân nào, vào đảng phái nào một cách tiên quyết, mà chính trị đó thể hiện nguyện vọng của nhân dân và nhu cầu phát triển cũng như bảo tồn xã hội theo các thời điểm, điều kiện khách quan tự nhiên của xã hội mỗi lúc, mỗi thời kỳ, giai đoạn lịch sử. Như vậy không có quyền chính trị nào tiên quyết do ai nắm giữ ngay từ đầu cả. Chính mỗi lá phiếu tự do của mọi người dân đủ tuổi trưởng thành làm vai trò cử tri chọn bầu tự giác tự chủ người được ủy quyền, trao quyền chung từ mọi người để đứng ra thay mặt đại diện kiến tạo ra một chính phủ nắm quyền chung qua cuộc bầu cử tự do theo phổ thông đầu phiếu đó. Có nghĩa đảng phái chính trị có thể là đơn đảng hay đa đảng, mà phần nhiều là đa đảng, vì mọi nhóm công dân đều có quyền lập chính đảng tự do, bình đẳng và hợp pháp, nên không thể có lý do gì có đảng độc tài độc đoán, đảng duy nhất nào đó cả. Tức là đảng chính trị chỉ là đảng bầu cử mà không mang ý nghĩa gì khác. Bởi đảng phái không ngoài là tập hợp tự do các tập thể quần chúng tự nguyện nào đó, nó chỉ đại diện cho nhóm quần chúng đó, không thể đại diện chung cho toàn dân hoặc toàn xã hội vì trong những xã hội tự do dân chủ đúng nghĩa, mọi người đều có tự do quan điểm, tự do tư tưởng, không thể ai hơn ai, nêu các chính đảng thực tế đều luôn độc lập và bình đẳng ngang nhau. Nói khác đi, đảng chỉ có thể đưa người của mình hay người được mình vận động, ủng hộ, và nếu được toàn dân bầu cử thì ra cầm quyền, đảng chỉ đứng bên sau, không thể có đảng nào là đảng cầm quyền, vì đảng cũng chỉ là một tập hợp của một số người, không có lý gì hay cơ sở gì để một tập thể nhỏ hơn lại nắm quyền một tập thể bao quát hơn là toàn xã hội hay toàn đất nước. Bởi cầm quyền bao giờ cũng phải là những con người cụ thể, là những thể nhân, thay mặt chung cho một pháp nhân, không thể một pháp nhân nhỏ là đảng nào đó lại nắm quyền chung của một pháp nhân lớn hơn, bao quát hơn là toàn thể quốc gia dân tộc. Chính quan điểm nhập nhòe sai trái đó về đảng cầm quyền khiến một đảng cầm quyền có thể độc tài độc đoán không ai bầu ra cầm quyền chung cả mà cũng cứ tự minh tự phong hay tự vỗ ngực sai trái là đảng cầm quyền. Bởi vì bất kỳ mọi sự vật nào trong cõi đời này phải có lý do đúng của nó mới có thể tồn tại chính đáng, khách quan được, còn nếu không như thế, chỉ là vật mệnh danh, vật giả ảo, vật tưởng tượng không có thật, nên một đảng chính trị tự mình cầm quyền ngang xương đất nước mà không có sự chuyển giao quyền lực hợp pháp, hợp lý, khách quan, đúng đắn, cần thiết nào, đều chỉ là những hình thức tiếm quyền, sự đoạt quyền của xã hội mà không mang ý nghĩa gì khác.

Sở dĩ những đảng Marxism- Leninism tự cho mình là đảng cầm quyền vì sau những cuộc bạo loạn đảo chính lật đổ chính trị như kiểu Lenin làm ở Nga năm 1917 để dựng nên nhà nước Liên Xô cũ rồi từ đó nó lan rộng ra khắp thế giới. Cái đó gọi là cuộc cách mạng Marx xism, bởi vì theo học thuyết, đó là đảng của giai cấp công nhân tiền phong đứng lên làm những cuộc cách mạng lịch sử để thay mặt sứ mạng giai cấp công nhân thực hiện giải phóng giai cấp, thức hiện chủ trương vô sản hóa hay cộng sản hóa toàn cầu. Nhưng đó cũng chỉ là quan niệm riêng của cá nhân Marx đưa ra, đâu phải quy luật của trời đất khách quan, của Thượng đế, hay của những kết quả nghiên cứu khoa học nào xác định, chính xác và cụ thể. Lấy tính cách chủ quan riêng lẻ của một người để áp đặt lên toàn xã hội, thậm chí trên cả lịch sử nói chung, đó chẳng phải hoàn toàn ngớ ngẩn, quá đáng, phi lý và phản xã hội lắm sao. Bởi vậy lúc đầu có số người quá khích đã mê tín vào học thuyết đó thì không nói, nhưng sau gần một trăm năm thử nghiệm trên thế giới, ngày nay những cuộc thử nghiệm đó hầu như đã tan rã, không mang lại, không để lại bất kỳ những kết quả nào cả, thế thì sự tiếp tục theo đuổi những ảo tưởng như vậy được gọi là sự định hướng xã hội chủ nghĩa chẳng là không thực tế, thực chất hay thái thậm phi lý lắm sao. Chẳng qua Marx thời còn trẻ tuổi là người theo học thuyết Hegel, mê muội vào ý nghĩa biện chứng luận của Hegel một cách không cơ sở, dựa vào quan điểm sai lầm của thuyết phủ định của phủ định một cách sườn đồ máy móc không thực tế, đinh ninh rằng phủ định của xã hội tư sản, tư bản phải là xã hội vô sản, cộng sản, và cho rằng với sứ mạng đó thì Đảng Cộng sản Marxism phải là đảng cầm quyền để làm cách mạng cộng sản. Nhưng ngày nay thế giới đã hoàn toàn đổi khác, mọi tiên liệu của Marx cách đây hơn hai thế kỷ đều không thực tế, không còn ý nghĩa hay giá trị hiện thực nào nữa, thế thì nguyên tắc đảng cầm quyền ngang xương trở thành lố bịch, không có bất kỳ cơ sở khoa học hay xã hội hoặc lịch sử nào hết, thì thử hỏi trách nhiệm này là của ai, của Karl Marx, của Lenin, của những công trình sư đã từng tạo ra nó khắp nơi trong quá khứ hay của những người kế thừa và hoàn toàn bảo thủ của ngày nay. Điều đó cũng có nghĩa giá trị của chính trị không thể ngoài ý nghĩa và giá trị của khoa học, nếu khoa học không có, kết quả về giá trị khoa học không có, liệu mọi sự kiên định, bảo thủ giả tạo đó có còn là đạo đức chính trị nào nữa hay không thì mọi người chắc hoàn toàn thấy rõ. Tóm lại chính trị không thể ai làm một mình được mà phải có một tập thể đồng quan điểm hỗ trợ, đó là các đảng phái chính trị. Nhưng đảng phái chính trị cũng không thể tự tung tự tác đoạt quyền xã hội một cách độc đoán và phi lý để thực hiện mọi sự độc tài độc đoán của riêng mình, nên sẽ không thể có đảng chính trị nào được cầm quyền đương nhiên, tiên quyết cả, mà đảng phái thật sự chỉ là những công cụ bầu cử, những phương tiện thực hiện giúp đỡ bầu cử để có được quyền tối hậu người của đảng mình ra nắm quyền, nhưng cũng chỉ qua các nhiệm kỳ cụ thể, và người nắm quyền đó trong thực tế cũng phải luôn nhân danh toàn xã hội, mà không thể nhân danh riêng đảng của mình hay nhân danh giả dối giai cấp nào, đó chính là nguyên tắc tự do dân chủ đích thực nhất mà ngay nay ai ai cũng biết trên toàn thế giới.

5/ Kết luận chung về ý nghĩa của đạo đức chính trị.

Từ khi xã hội loài người tiến hóa, phát triển và lập thành các nhà nước đến nay, đã hàng nhiều ngàn năm, nhà nước là định chế xã hội bao quát nhất. Ý niệm đó là ý niệm thực tế, biên thiên qua lịch sử nhưng chắc chắn không bao giờ mất đi được theo kiểu Marx tưởng tượng do quan điểm sai lầm của ông ta cho nhà nước chỉ là công cụ thống trị của giai cấp. Thật ra ý niệm nhà nước luôn luôn chung nhất trong một xã hội, bởi vậy dưới thời phong kiến quân chủ, mọi người đều quan niệm một nước không thể có hai vua, và vị vua chiến thắng được các địch thủ của mình thống lĩnh quyền hành xã hội và tạo dựng nên một triều đại. Đó là kiểu nhà nước khách quan, mọi thần dân đều không thể can dự vào đó mà chỉ có thể chấp nhận. Nhà nước trong các nước độc tài ngày nay cũng vậy, nếu vì thời cơ hay lý do nó họ đoạt được quyền chung, cứ bảo vệ quyền hành đó mãi không bao giờ tự nguyện nhả ra và viện dẫn mọi lý do biện minh khác nhau, nhưng thực tế cũng chẳng khác gì những nhà nước phong kiến, quân chủ chuyên chế từ thời xa xưa cả. Trong ý nghĩa đó, so sánh với yêu cầu tự do dân chủ thực tế của thời hiện đại, rõ ràng nó đi ngược lại thời đại, nên có thể nói được cũng phi đạo đức chính trị. Như Bắc Triều Tiên chẳng hạn, lại rơi vào chế độ cha truyền con nối kiểu huyết tộc, là tiêu biểu cho sự lạc hậu nhất trong các nhà nước cộng sản Marxism hiện đại, chỉ là sự truyền kế thuộc nhóm nhỏ của đảng nắm quyền. Như vậy mọi khái niệm ngôn ngữ bề ngoài cũng không mang ý nghĩa gì xác đáng cả, mà chính thực tế bên trong mới là điều đáng nói nhất.

Nói khác đi, đạo đức chính trị cũng chỉ là một thứ đạo đức xã hội, và cũng tương tự như đạo đức cá nhân, nó là phẩm chất tự nhiên, tự giác, không thể ai bó buộc nó được.  Chủ yếu nó là đức tính trung thực, ý thức công tâm công lý, như một yêu cầu của ý thức nội tâm, và mọi sự biểu hiện bên ngoài cũng hoàn toàn tùy theo đó. Trong những thời xã hội nhiễu nhương, chiến tranh, có khi vì những mong ước chiến thắng nào đó, con người phải sử dụng những thủ đoạn gian dối, lừa gạt nhau, nhưng tới khi chiến thắng, họ lại thể hiện quyền hành bằng những biện pháp ngay thực vì khi ấy không còn ai tranh chấp với họ nữa. Chẳng hạn có những trường hợp người bình dân nào đó lên nắm quyền, nhưng khi lập thành một triều đại, họ lại kêu gọi, sử dụng các tầng lớp trí thức khác nhau hỗ trợ họ, sử dụng những tầng lớp tài năng trong xã hội để xây dựng thành quả của triều đại. Điều này hoàn toàn đi ngược lại với ý niệm nhà nước giai cấp mà Marx đã đưa ra một cách thô lậu và sai trái. Nhưng trong các quốc gia dân chủ tự do và hòa bình hiện tại, những thủ đoạn lường gạt chính trị xấu xa như hồi còn lạc hậu cũng hoàn toàn bị dẹp bỏ. Sự tranh giành cử tri của các đảng chính trị chẳng qua là sự ganh đua về đường lối chính sách, về cương lĩnh, về mục tiêu thực hiện mà họ đưa ra trong mỗi kỳ bầu cử. Chính ý niệm dân chủ công khai đó là sự công bằng, minh bạch, trong sáng và chính đáng nhất mà mỗi người dân hay toàn xã hội đều được hưởng. Tính ưu việt của xã hội tự do dân chủ là vậy, trong khi ở những nước độc tài độc đảng thì mọi nhân sự đều đã được sắp xếp trước trong hội trường bởi một nhóm có quyền nào đó để chỉ đưa ra sau đó để áp đặt lên dân và bắt dân phải thụ động tự hợp thức hóa chấp nhận. Đương nhiên điều đó không thể tránh khỏi những tính toán quyền lợi của các phe nhóm riêng tư, ngày nay thường được gọi là lợi ích nhóm mà ai cũng biết. Đó chính là tình trạng đạo đức chính trị sa sút nhất so với mọi thời đại vì khung cảnh của nó là khung cảnh của xã hội trong thời kỳ hiện đại mà khó có ai tự nguyện chấp nhận được. Tất yếu mọi tài năng của nhân lực toàn xã hội không bao giờ được phát huy đúng nghĩa, xã hội cũng không hề được hưởng dụng điều gì ở những nhân lực ngoài chính quyền trong xã hội dân sự ấy, mà chỉ lòng vòng trong những gương mặt đã nhẳn thín qua thời gian và mọi năng lực hay đức tính của họ cũng chỉ gói gọn trong chính cuộc đời chuyên nghiệp cầu mong quyền hành đó mà ngay từ đầu cái được gọi là sự nghiệp chính trị bản thân của họ đã được thể hiện và theo đuổi trong mọi cách. Chính điều đó tạo thành một giai cấp thống trị kiểu bỏ túi như đã được chỉ định trước, trong một thâm cung bí sử riêng mà toàn thể xã hội không làm thế nào đụng đến họ được. Tất nhiên nhóm tập quyền đó cũng nhân danh đủ thứ, sử dụng mọi khái niệm hay mỹ từ đẹp đẽ nhất nhưng thực chất vẫn là thực chất, và sự khác nhau giữa tự do dân chủ đích thực của xã hội và tính độc tài độc đảng hoặc phe nhóm cũng chỉ luôn là như thế.

Nói tóm lại, đạo đức nói chung, đạo đức chính trị nói riêng, hay mọi ý nghĩa hoặc giá trị khác nhau trong xã hội đều phải dựa trên những nguyên lý khách quan nào đó, không thể không có các tiêu chí, tiêu chuẩn nào được vận dụng mà có thể tự nhận hay tự xác định được. Bởi thế không bất kỳ ai có thể tự cho mình có tài năng hơn người khác, có những năng lực nào đó mà người khác không có do mình tự chủ quan mặc nhận mà không có tiêu chí mẫu nào, tiêu chuẩn đo đạc xác định nào để khẳng định cho nền tảng cầm quyền của mình nếu mình không được toàn thể xã hội thừa nhận bằng sự tín nhiệm và bầu cử bằng lá phiếu tự do mà họ có. Cho nên đạo đức chính trị không cho phép nại ra bất kỳ lý do mơ hồ nào để tham quyền cố vị, mà phải thừa nhận quyền chọn lựa là quyền hạn chung của toàn xã hội, và mình nắm quyền hay người khác nắm quyền thì cũng thế, bởi lịch sử khách quan thì vượt xa tất cả chủ quan của mọi người, và câu tục ngữ có mợ chợ cũng đông không có mợ chợ cũng chẳng ở không ngày nào luôn luôn đúng trong mọi mặt xã hội và chính trị. Điều đó cho thấy mọi ý nghĩa độc tài độc đoán và chuyên quyền đều vô lý, vì nó không có cơ sở thực tế khách quan nào cả mà thực chất đều chỉ là những lý luận giả tạo được che phủ bởi nhứng danh từ không thực chất hay giả dối nào đó. Nên nói tóm lại, đạo đức chính trị là ý nghĩa quan trọng nhất trong thực tế chính trị, không có nó chính trị trở thành tính chất không đáng tin, bởi vì nó có thể lừa dối bất kỳ ai thông qua mọi thể hiện bề ngoài của nó, từ ngôn ngữ, cử chỉ cho tới hành động thực tế. Tuy vậy nếu ai tinh ý, sẽ phát hiện được ngay qua chính những biểu hiện bên ngoài đó về thực chất giá trị bên trong của nó. Bởi vì ý thức của con người có thể đóng kịch, nhưng vô thức thì không hề làm điều đó. Cho nên nội tâm thế nào con người vẫn hay biểu lộ vô tình ra như thế đó. Điều đó ngày nay xem qua ti vi hay nghe qua giọng nói của những người thể hiện kịch bản chính trị qua bất kỳ trường hợp nào người ta đều nhận ra được nếu tinh ý. Chính tính cách ngôn ngữ của cơ thể là như thế (Danh bất chính ngôn bất thuận). Nên cái cốt lõi trong đạo đức chính trị bao gồm cả ý thức lẫn hành vi. Nó đích thực phải là sự chân chính và sự chân thực. Chân chính trong ý thức biểu hiện một cơ sở đạo đức chính trị tốt. Hành vi công chính, có tính nhân văn, phục vụ con người và không lừa dối hay phản bội lại con người cũng như xã hội, điều đó cho thấy đạo đức chính trị khi đó là có thật mà không hề gian dối, lừa mị. Đó cũng là điều mà từ nhiều ngàn năm xưa Khổng Tử, nhà tư tưởng chính trị nổi tiếng ở phương Đông, từng nêu ra thuyết chính danh và gom lại trong ý tưởng “chính giả chính dã” (政者正也, Chương Nhan Uyên, 颜渊), tức ý nghĩa của chính trị là phải chân chính. Hay ông cũng nói cụ thể “Cẩu chính kỳ thân hỹ, ư tùng chính hồ, hà hữu ? Bất năng chính kỳ thân, như chính nhân hà?”

(苟正兲身矣,於从政乎何有?不能正兲身,如正人何?) (Chương Tử Lộ, 子路), có nghĩa bản thân mình mà không ngay chính, còn nói gì được về chính trị sao. Tự thân mà không chính đáng, dễ gì mà nói tốt được về chính trị. Hoặc “Sự thực thi việc chính trị, phải lấy đạo đức làm trọng” (为政以德, Vi chính dĩ đức, Quyển I, Chương II, Vi chính, 为政, Luận ngữ). Đó toàn là những chân lý muôn đời về chính trị chính đáng, thời cổ đại cũng như thời hiện đại ngày nay. Cho nên bất kỳ người thiết lập nên một triều đại nào cũng phải đều chú trọng đến điều đó. Bởi vì chính trị đúng nghĩa thì không thể chỉ vì riêng bản thân mình hay chỉ đóng khung trong triều đại của mình mà chính là cũng đặt nền tảng lâu dài cho mọi thế hệ mai sau, ý nghĩa cao sâu nhất của đạo đức chính trị chính là thế, và thang đánh giá cho mọi nhà chính trị, mọi chính khách chân chính cũng chỉ luôn luôn là thế. Chính trị chính danh hay chính trị phi chính danh cũng là vậy, chính trị vương đạo hay chính trị bá đạo cũng khác nhau chỉ có vậy. Thuyết chính danh của Khổng tử cũng muôn đời là thuyết về đạo đức chính trị quan trọng mà mọi người dù trong thời đại nào cũng phải luôn biết tới cũng chính là như vậy.

Tuy nhiên, vấn đề cuối cùng cũng phải nói thêm cho trọn vẹn là rốt cục ý nghĩa đạo đức có hay không và ý nghĩa của xã hội sau rốt là gì. Bởi đây cũng là ý nghĩa then chốt về chính trị cũng như đạo đức chính trị như trong toàn bài viết chúng ta đã khai triển. Bởi thế vấn đề đạo đức thật sự mang ý nghĩa triết học và vấn đề xã hội thực sự mang tính cách khoa học. Có nghĩa nếu ai đó chỉ hoàn toàn theo quan điểm duy vật thuần túy, rốt cuộc đạo đức cũng chẳng mang ý nghĩa gì cả, vì nó cũng chẳng có cơ sở nào tối hậu làm nền tảng cả. Trái lại chỉ những người có quan điểm duy tâm đích thực, tức tin vào một chân lý siêu hình tối hậu nào đó của hiện hữu, khi đó ý nghĩa của tính cách đạo đức tất yếu phải được đặt ra. Như Khổng tử chẳng hạn, ông ta tin vào sự huyền vi của trời đất, nên ông bao giờ cũng thiết yếu là con người nhân bản và con người đạo đức và trong học thuyết chính trị của ông đạo đức chính trị luôn luôn được nêu cao là như thế. Còn về mặt xã hội, nó không thể không là đối tượng của khoa học, vì đó là một thực tại cụ thể và thực tế, mà ý nghĩa của khoa học bao giờ cũng là ý nghĩa của tri thức, cho nên nếu không nói đến nền tảng triết học sau cùng của nó, xã hội đương nhiên cần có nền tảng khoa học, hay khoa học về xã hội luôn luôn phải là một khoa học đích thực. Như vậy mọi cái gọi là ý thức hệ đều chỉ là sự huyền hoặc, sự mê tín, hay nói khác ý thức hệ Marxism hay Marxism-Leninism thực chất chỉ là hệ thống quan điểm, hệ thống tư tưởng chủ quan của Marx không có ý nghĩa khoa học khách quan nào cả, và những người tin vào nó phần lớn là những người yếu kém về nhận thức triết học cũng như về tri thức khoa học, hay phần lớn là đám quần chúng thiếu tri thức, khiến nó chẳng khác gì như một thứ tôn giáo thế cuộc, một thứ ý thức hệ tôn giáo kiểu trần tục. Bởi vì nói cho cùng ý nghĩa hay giá trị cao nhất của mỗi con người cụ thể trong cuộc sống đều không ngoài giá trị nhận thức và giá trị tri thức. Không có hai yếu tố này, con người chỉ mới là đời sống sinh học cá nhân hay xã hội, chưa phải là đời sống nhân văn, ý thức nhân bản và tri thức khoa học, trí tuệ khách quan thật sự. Có nghĩa chủ nghĩa tập thể, hay cái được gọi là đạo đức cách mạng theo kiểu Marxism thực chất cũng chỉ kiểu cả vú lấp miệng em, lấy thịt đè người, lấy số đông ù ù cạc cạc hay chỉ có trình độ thấp làm nên tảng mà chưa phải là xã hội tri thức, xã hội nhân văn, xã hội trí thức đúng nghĩa. Vậy mà chính cái sau mới là ý nghĩa, nền tảng, động lực phát triển xã hội thật sự mà không phải yếu tố trước. Vậy nên tất cả những ai quan tâm tới yêu cầu phát triển đất nước cũng như mọi con người Việt Nam ngày nay nhằm hướng tới tương lai không thể quay mặt lại hoặc hoàn toàn hay không sáng suốt để nhận ra được điều đó. Nhưng bởi chính trị là nền tảng thực tế nhất của toàn xã hội, thời nào và ở đâu cũng thế, cho nên ý nghĩa chính trị không thể không là ý nghĩa tri thức và cuối cùng không thể không là ý nghĩa đạo đức là như vậy. Các Marx chỉ là người hoàn toàn duy vật, đồng thời cũng là người hết sức vô trách nhiệm khi đưa ra ý thức hệ ngẫu hứng, tùy tiện, hoàn toàn không kiểm soát về nhiều mặt của mình, nên cũng có thể nói ý nghĩa tri thức của Marx là có nhiều hạn chế cũng như ý nghĩa đạo đức chính trị của ông ta là hoàn toàn bị xuyên tạc hay hoàn toàn không được đặt ra trên cơ sở khách quan đúng đắn về mặt ý nghĩa chiều sâu cũng không phải nói oan hoặc hoàn toàn không phải là thực chất. Cho nên chính trị đúng đắn là chính trị nhằm luôn luôn không ngừng nâng cao mọi trình độ nhận thức cho toàn xã hội, luôn luôn phải tri thức hóa, trí thức hóa quần chúng bằng mọi cách mà không phải ngược lại chỉ bằng những thủ thuật ngu dân, mị dân vì những yêu cầu riêng tư nào đó. Điều đó ở nước ta ngay trong thời quân chủ nhưng khi gặp được những triều đại anh minh đều khuyến khích sự học đúng đắn, khuyến khích văn hóa đúng nghĩa nói chung mà không làm ngược lại. Hay cách đây trên một trăm năm, Phan Chu Trinh, một nhà ái quốc chân chính, khi ấy cũng đã chủ trương đường lối hoàn toàn cần thiết và sáng suốt “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” khi nước ta trong thời kỳ Pháp thuộc. Tức nâng cao trình độ dân trí, củng cố ý thức tự chủ trong dân, từ đó mới làm xã hội phát triển được mọi mặt về dân sinh, nhưng rất tiếc cả một trăm năm sau điều đó vẫn không được hậu thế chú trọng mà nhiều khi còn hoàn toàn làm ngược hẳn lại, đó quả là điều không may cho đất nước và dân tộc chúng ta, và bất kỳ người trí thức đúng đắn nào ngày nay cũng phải nhận ra và tìm cách khắc phục điều đó, đó cũng là đạo đức chính trị về mặt bản thân của họ mà không là gì khác. Bởi thật ra quần chúng nói chung hay phần lớn giới bình dân thì nào có biết gì, họ có hiểu gì về khoa học chính trị cũng như đạo đức chính trị, nên cứ nghe theo lời tuyên truyền một chiều để luôn nghĩ tưởng rằng Phan Chu Trinh chỉ là nhà cách mạng cải lương, một nhà yêu nước thỏa hiệp, một nhà cách mạng tư sản, chỉ có cách mạng bạo lực và theo hướng Vô sản quốc tế mới là chân chính, thì ngày nay mọi sự phát triển chung trên toàn thế giới cho thấy đất nươc Việt Nam thực chất muốn nói gì thì nói vẫn đang rơi vào tình trạng lạc hậu nhiều mặt so với nhiều nước khác, đó thật là điều ngậm ngùi đối với Phan Chu Trinh không thể nào nói hết. Bởi vì sau khi thoát được ách đô hộ của thực dân Pháp suốt 80 năm nhờ vào sự phát triển chung của lịch sử thế giới và sự đấu tranh kiên trì của toàn dân tộc, tưởng rằng đất nước phải đi lên ít ra cũng về mốc tương quan như thời nhà Nguyễn so với các nước Đông Nam Á châu lúc ấy khi ta chưa bị Pháp xâm lược và đô hộ, nhưng đến nay ta lại thua nhiều nước cũng trong tương quan đó ở thời hiện tại, đó là chưa nói nhiều công trình của Pháp để lại cho đến nay ở nước ta vẫn còn giá trị cũng như mọi sự viện trợ của thế giới ngày nay là điều không thể phủ nhận được, như vậy điều này có phải do trí tuệ của nhân dân ta kém, tiềm năng của đất nước ta không có, hay chỉ do nhiều mặt đạo đức chính trị sa sút, đó là điều cần làm cho mọi người nên suy nghĩ. Bởi đạo đức chính trị bản thân cũng tạo nên đạo đức chính trị chung của toàn xã hội. Nếu không ai quan tâm tới các vấn đề chung vì lẽ này hay lẽ khác, thế tức là đạo đức chính trị của mỗi cá nhân là không có, vậy làm sao mà đạo đức chính trị toàn xã hội lại có được. Từ nguyên nhân này dẫn đến nguyên nhân kia, đó chính là ý nghĩa làm cho đất nước và dân tộc sa sút ngày nay, đó là điều thực tế không cần gì thêm bớt hay cũng không phải long trọng hóa hoặc quan trọng hóa gì cả, và chỉ những người nào tầm thường nhất mới không biết quan tâm hay không thể nhận ra được mọi ý nghĩa liên quan của nó.

(18/11/2015)

V.H.T.

Tác giả gửi BVN

This entry was posted in Lên Tiếng. Bookmark the permalink.