Phan Văn Song dịch
Hoàng Việt hiệu đính
Chương 2 (tiếp theo)
Bản đồ và đường vẽ:
từ 1500 đến 1948
Đến cuối năm 1602 VOC đã thành lập một đầu cầu kinh doanh và quân sự trên mũi phía Nam của bán đảo Malay. Vốn là hậu duệ của nhà cai trị Malacca bị thua trận, vua Johor ghét người Bồ Đào Nha thậm tệ như người Hà Lan ghét họ. Tháng 9 năm 1601 người Bồ Đào Nha đã bắt và xử tử 17 thành viên của một đoàn thuỷ thủ Hà Lan do cố đi tới Quảng Châu (được người Châu Âu biết với tên Canton) và đột phá vào việc giao thương Trung Quốc. Sau khi biết được Hà Lan và Johor liên minh với nhau, họ đã chiếm giữ và nã pháo vào bờ biển Johor.
Ngày 25 tháng 2 năm 1603, người Hà Lan và Johor đánh trả. Đô đốc Jakob van Heemskerk và đồng minh mới của ông đã được báo động trong vùng biển gần kề có một chiếc tàu Bồ Đào Nha chở rất nặng chạy từ Macao đến Malacca. Santa Catarina là rất lớn theo tiêu chuẩn lúc đó. Hàng hóa của nó gồm 1200 kiện tơ thô, rương tơ và lụa, 70 tấn vàng, 60 tấn sứ và một lượng lớn bông, lanh, đường, gia vị và đồ gỗ. Có thể có khoảng 1000 người trên tàu: 700 lính, 100 phụ nữ và trẻ em cùng với một số lượng lớn thương nhân và thuỷ thủ. Đáng ngạc nhiên là số hàng hoá lớn này đã được bảo vệ một cách tệ hại. Người Bồ Đào Nha đã có lệ bán các chức sĩ quan cho ai trả giá cao nhất, chứ không phải cho ai có tay nghề nhất. Người Hà Lan, trái lại, được huấn luyện tốt.[1]
Ngay sau bình minh, đội tàu nhỏ của Van Heemskerk (hai tàu Hà Lan và một số của Johor) đã phát hiện Santa Catarina thả neo ở cửa sông Johor (gần sân bay Changi của Singapore hiện nay). Với những phát súng đầu tiên, họ đã làm rách buồm của Catarina vì vậy nó không thể di chuyển rồi tiếp tục nã súng vào thân tàu suốt ngày (nhưng không quá nhiều để gây thiệt hại nặng cho hàng hóa). Với con tàu bị rò rỉ và thương vong tăng cao, thuyền trưởng, Sebastião Serrão, đã đầu hàng. Con tàu và hàng hoá phải giao nạp để đổi lấy mạng sống các hành khách và thuỷ thủ.
Cuối cùng, khi hàng hóa của tàu Santa Catarina tới Hà Lan số lượng kim loại quý, hàng dệt may sang trọng và đồ sứ tinh xảo gây ra một xúc cảm. Thương nhân bị kích thích bởi các cơ hội rõ ràng là nằm ở phương Đông. Tại phiên đấu giá, hàng hóa của tàu được bán với giá 3,5 triệu guilders – bằng một nửa tổng số vốn của VOC. Nhưng có một vấn đề. Một số cổ đông của VOC cảm thấy công ty nên tập trung vào việc tối đa hóa lợi nhuận chứ không phải vào việc tiến hành một cuộc chiến tranh tốn kém. Tuy nhiên, các nhà chính trị Hà Lan lại tin rằng quốc gia mới của họ cần cả lợi nhuận lẫn chiến tranh. Họ cần một người có tài thuyết phục. Họ trao gửi cho Hugo Grotius 21 tuổi.
Hugo Grotius (tên Latin hoá của Huig de Groot), thật ra là một luật sư nổi tiếng. Sinh ra trong một gia đình quyền thế, ông được coi là một thần đồng, tốt nghiệp đại học năm 11 tuổi và được phái đi gặp vua Pháp lúc 15 tuổi. Ông trở thành một luật sư và sau đó là sử gia chính thức của Hà Lan (một vị trí giống như một spin doctor [người chuyên khuynh đảo dư luận theo hướng nói tốt cho các chính sách – ND] hiện đại hơn là một học giả nghiêm túc). Cuối năm 1604 ông được ban giám đốc của VOC thuê để biện hộ cho việc chiếm lấy tàu Santa Catarina. Những lời biện hộ ông đưa ra bảo vệ vai trò kép của VOC – vừa buôn bán vừa đánh nhau – mà còn phát triển thành một trong những tài liệu nền tảng của luật quốc tế. Nó đặt nền móng trí tuệ cho thực dân Hà Lan và đưa tới cuộc ‘đụng độ của các nền văn minh’ giữa các khái niệm về quyền lực chính trị và lãnh thổ của Châu Âu và Đông Nam Á.
Hầu hết hiểu biết thường thức về Hugo Grotius đã bị đảo ngược trong những năm gần đây bởi hai nhà sử học: Martine Julia van Ittersum và Peter Borschberg. Việc hai nhà sử học này đọc lại cẩn thận các bài viết cá nhân và công cộng của ông đã cho phép chúng ta thấy rằng Grotius là một nhà vận động hành lang cho VOC và là một người ủng hộ kiên quyết quyền thương mại và chính trị của Hà Lan hơn là một nhà tư tưởng không quan tâm tới chính trị. Ông lựa chọn lập luận cho hợp với cơ hội, hiểu sai vị trí của người khác và dựa vào các tài liệu tham khảo không tin cậy. Tuy nhiên, các bài viết của ông đã có một ảnh hưởng lâu dài.
Bồ Đào Nha cho rằng họ có độc quyền giao thương ở Châu Á vì họ đã phát hiện ra các tuyến đường biển đi tới đó. Theo thế giới quan Công giáo Iberia, chuyện khám phá của người ngoài Ki tô giáo không được tính tới. Tuy nhiên, Grotius lập luận một hướng hoàn toàn mới: các vua chúa Châu Á là một bộ phận của nhân loại và do đó có thể tự mình quyết định về việc họ giao thương với ai. Trong khi đó, những nhà cai trị của Bồ Đào Nha cho rằng họ có quyền quyết định ai có thể đi trên biển trong phạm vi của họ, Grotius lập luận rằng biển, giống như không khí, không thể bị bất kì quyền lực nào chiếm giữ và do đó mọi người được tự do sử dụng. Dù những ý tưởng này có vẻ hiện đại và tiến bộ, chúng cũng vì lợi ích riêng. Các ý tưởng đó có ý bảo vệ quyền của VOC được ký hợp đồng với các vua chúa Châu Á. Grotius sau đó lập luận rằng các hợp đồng này có thể loại tất cả mọi người khác ra một cách hợp pháp và cũng có thể biện minh cho việc sử dụng vũ lực đối với bất cứ ai cố cản trở việc vận chuyển hoặc bội ước.
Grotius đã vận động thành công phía sau hậu trường nhưng lập luận của ông vẫn là tư riêng mãi đến năm 1609 khi được công bố trong một cuốn sách có ảnh hưởng lớn sau này, Mare Liberum – (Biển tự do). Một lần nữa ông viết vì mục đích chính trị cố gây ảnh hưởng đến các cuộc đàm phán hòa bình giữa Hà Lan và Tây Ban Nha. VOC lo sợ rằng chính phủ Hà Lan sẽ thừa nhận quyền của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha được loại tàu của họ ra khỏi Châu Á như một điều kiện hòa bình. Nhà luận thuyết Grotius quyết làm ra lẽ. Một lần nữa ông đã thành công: Hiệp ước Antwerp, ký ngày 10 tháng 4 năm 1609, cho thương gia Hà Lan được quyền kinh doanh bất cứ nơi nào Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha chưa đặt cơ sở.
Nhưng Grotius cũng đã có một mục tiêu khác trong đầu: cá trích. Theo quan điểm của ông, can thiệp vào việc đánh cá thậm chí còn tồi tệ hơn can thiệp vào việc đi lại trên biển. Trong cuốn Mare Liberum có một chỗ ông gọi việc đó là ‘tham lam không lành mạnh’ (insane cupidity). Vua James I của Anh (cũng là Vua James VI của Scotland) đã giận dữ vì hạm đội của Hà Lan chạy dọc theo bờ biển Scotland và Anh để chặn sự di cư hàng năm của cá trích mà hàng trăm cộng đồng phụ thuộc vào chúng để sinh nhai. Vua James muốn chặn Hà Lan ở ngoài khu vực mà ông xem là vùng biển ‘của mình’ nhưng không muốn bắt đầu một cuộc chiến với một trong số đồng minh ít ỏi của ông ở Châu Âu. Ngày 16 tháng 5 năm 1609, ngay sau khi Mare Liberum được công bố, ông cấm người nước ngoài đánh bắt cá dọc theo bờ biển của Anh nếu không có giấy phép chính thức. Nhưng James cảm thấy cần phải tăng cường lệnh của mình với biện minh pháp lý. Một giáo sư luật, William Welwood, đã viết một khái luận năm 1613 sử dụng các lập luận theo Kinh Thánh, La Mã và (điều mà ngày nay chúng ta gọi là) môi trường ủng hộ quyền của nhà vua trong việc hạn chế nước ngoài đánh cá. James có thể đã cho rằng khái luận đó chưa đủ tốt vì vào năm 1619, ông đã phó thác cho một người khác – John Selden.
Cuốn sách nhỏ của Selden đã hoàn tất hè năm đó và gửi cho nhà vua phê chuẩn. Nhưng vào phút cuối cùng, James đã lo ngại rằng anh rể của ông, vua Christian của Đan Mạch, có thể phản đối nổ lực của Anh trong việc khẳng định các vùng biển rồi khuấy động một cuộc tranh chấp rộng hơn lớn đối với toàn bộ Bắc Đại Tây Dương. Cuốn sách nhỏ đó đã bị lặng lẽ cất đi và lập luận pháp lý tạm thời gác lại. Trong những thập kỷ sau cả Grotius lẫn Selden đều đóng vai trò tích cực trong chính trị quốc gia, bị thất sủng ở đất nước của họ và thậm chí còn bị giam giữ một thời gian. Vào giữa thập niên1630 Selden muốn lấy lòng vua mới của nước Anh, Charles I, cứng rắn hơn hơn vua trước trong các tranh chấp biển. Năm 1635 ông đưa ra một bộ luận cứ pháp lý để bác bỏ những tuyên bố của Hugo Grotius. Ngay cả tên sách cũng là một thách thức trực tiếp đối với Hà Lan: Mare Clausum – Biển đóng.
Mặc dù đồng ý với Selden Grotius rằng tàu thuyền có quyền ‘đi qua vô hại’ vùng biển của quốc gia khác, ông nhấn mạnh rằng các quốc gia cũng có quyền hạn chế quyền ra vào những vùng biển này trong một số trường hợp. Ông cho rằng nước nắm chủ quyền phải được yêu sách những khu vực cụ thể, ngay cả trong những vùng biển sâu – dựa trên việc sử dụng dài lâu.[2] Ông cho rằng biển mở có thể ‘chiếm đóng’ được và do đó không nhất thiết phải mở cửa cho tất cả: đặc biệt là nếu nó chứa nhiều cá trích.[3] Chắc rằng chính trong khoảng thời gian này – với Selden giữ vai trò hàng đầu trong chính trị triều đình – ông đã có được bản đồ Trung Quốc đó.
Tranh luận của Grotius và Selden giữa biển mở và biển đóng – tiếp tục cho đến ngày nay. Selden rõ ràng ủng hộ việc vẽ đường tưởng tượng ngang qua sóng nước nhưng cuối cùng ngay cả Grotius cũng đã thừa nhận rằng vịnh nhỏ, vịnh lớn và eo biển đều có thể sở hữu được. Tuy nhiên, mặc dù cả hai đều kết luận rằng vẽ đường qua biển là việc có thể làm được và đúng đắn, họ vẫn bất đồng về việc những đường này cần được vẽ ở ngay chỗ nào. Đến cuối thế kỷ XVII, các nước Châu Âu đã đạt được một sự thỏa hiệp, đôi khi được gọi là quy tắc ‘tầm đạn pháo’ (cannon shot), cho phép một quốc gia kiểm soát các vùng biển từ bờ biển ra xa ba hoặc bốn hải lý. Trong nhiều thế kỷ, có vẻ là Selden bị thua trong cuộc tranh luận này – chủ yếu là do Anh (sau năm 1707) đã trở thành một cường quốc biển. Từ đó trở đi, lập luận Grotius phục vụ lợi ích của London tốt hơn lập luận của Selden. Đế quốc Anh dựa trên quyền giả định của các quốc gia và một quốc gia đặc biệt có quyền giao thương tự do trên toàn thế giới. Thay vì tranh cãi để được vùng lãnh hải rộng lớn hơn để bảo vệ cá trích, giờ đây nước Anh lập luận cho lãnh hải hẹp hơn để họ có thể thống trị nhiều làn sóng biển hơn. Điều đó đòi hỏi tối thiểu hoá quyền hạn chế hàng hải của các nhà cai trị khác. Để giải quyết bất kì bất đồng lớn nào về điểm nguyên tắc pháp lý này với việc áp dụng chính phiên bản của họ về quy tắc ‘tầm đạn pháo thì thường có thể dựa vào Hải quân Anh.
Trong mỗi thời đại, nước bá chủ toàn cầu – Hà Lan, sau đó Anh và hiện nay Hoa Kỳ – đều lập luận ủng hộ tự do hàng hải và sử dụng lực lượng quân sự để ngăn chặn những nước khác thách thức sự tự do đó. Nhưng quan điểm của Selden tiếp tục có tín đồ của nó, chủ yếu là trong số những nước ở phía nhận đạn pháo của hải quân. Câu hỏi liệu và bằng cách nào các nước ven biển có thể khẳng định chủ quyền của họ ngoài biển vẫn còn với chúng ta bây giờ và không có nhiều nơi mà câu hỏi này gây khó chịu nhiều hơn là ở Biển Đông.
******
Việc chiếm lấy tàu Santa Catarina mở màn cho sự kiện mà về sau trở thành ‘thế chiến’ thứ nhất. Trong gần trọn nửa đầu thế kỷ XVII người Hà Lan và Bồ Đào Nha đã đánh nhau trong nhiều khu vực của Châu Âu, Mỹ Latin, Châu Phi và Châu Á. Có một giai đoạn ngắn Công ty Đông Ấn của Anh (EIC) và VOC của Hà Lan liên minh với nhau, chính vì vậy năm 1620, thuyền trưởng Lenmyes của tàu Elizabeth thấy mình có quyền bắt giữ tàu Trung Quốc ngoài khơi Đài Loan với lý do nó chở khách Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, và cướp đi hàng hóa và có lẽ cả bản đồ lộng lẫy của tàu này. Người Hà Lan đã trở thành lực lượng thống trị ở Biển Đông gần trọn thế kỷ XVII – cả về buôn bán đường dài lẫn làm trung gian việc đi lại giữa các điểm đến Châu Á. Với hỏa lực vượt trội họ đã ép người Bồ Đào Nha ra khỏi việc buôn bạc Nhật Bản và hầu hết các cảng gia vị và thậm chí đè bẹp cả đồng minh Anh của mình trong ‘thảm sát Amboyna’ trên đảo Ambon (ngày nay là Indonesia) năm 1623.
Vào khoảng năm 1625, và trong 50 năm sau đó, Cộng hòa Hà Lan thống trị thương mại toàn cầu. Lúc cao điểm đội tàu buôn Hà Lan lớn hơn các đội tàu Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp, Anh, Scotland và Đức gộp lại với 6000 tàu và 50 thủy thủ. Amsterdam là thủ đô thương mại của thế giới và Batavia (Jakarta ngày nay) là tiền đồn phía Đông của họ – phụ trách giao thương với Đài Loan và Nhật Bản. Năm 1641, cuối cùng VOC đạt được một bước đột phá quan trọng ở Đông Nam Á – chinh phục Malacca để trở thành lực lượng thống trị ở eo biển này.
Tuy nhiên, họ chưa bao giờ thống trị hoàn toàn. VOC luôn luôn phụ thuộc vào hậu thuẫn của các đồng minh địa phương, chẳng hạn như Quốc vương Johor. Công ty đã trở nên vướng víu nhiều hơn trong chính trị khu vực và dần dần thu được lãnh thổ. Sử dụng lập luận của Grotius về tính bất khả xâm phạm của hợp đồng, họ thực thi khắc nghiệt các giao dịch với thép lạnh: đối xử tàn nhẫn và đôi khi tàn sát những ai phản đối. Tuy nhiên nhà chức trách Trung Quốc đã đủ mạnh không cho VOC tới gần, do đó, người Hà Lan đã phải giao dịch thông qua các thương gia của Phúc Kiến. Batavia trở thành cảng trung chuyển mới của khu vực, nơi gặp gỡ của Châu Âu và thương mại thuyền mành Trung Quốc.
Trong suốt giai đoạn này, nhu cầu về bạc của Trung Quốc dường như là vô độ; đồng tiền làm bằng bạc của Mỹ Latin trở thành tiền tệ của khu vực. Nhưng sau nhiều năm làm giao thương Acapulco, Tây Ban Nha đã vận chuyển rất nhiều bạc cho Trung Quốc đến nỗi nó bắt đầu tụt giá – không mua được nhiều vàng hoặc nông sản như đã từng. Ở Trung Quốc, sự mất cân bằng kinh tế cuối cùng dẫn đến sự sụp đổ của triều đại nhà Minh năm 1644 và nhà Thanh xâm lược thay vào. Nhưng hậu quả lan rộng hơn. Nếu không có số thặng dư từ các thuyền buồm Acapulco thì Tây Ban Nha không còn có thể có đủ khả năng để tiến hành cuộc chiến Ba mươi năm (Thirty Years War). Kết quả là Hòa ước Westphalia năm 1648 đã tạo ra cấu trúc chính trị cơ bản của Châu Âu hiện đại và khởi đầu hệ thống nhà nước quốc tế như chúng ta biết ngày nay.
Việc thay đổi chế độ ở Trung Quốc là đẫm máu và kéo dài. Đối mặt với sự phản kháng của một lãnh chúa độc lập ở Phúc Kiến được biết với tên Quốc tính gia (国姓爷- Trịnh Sâm 郑森) chính quyền mới nhà Thanh đã cấm thương mại một lần nữa vào năm 1656 và thiết lập một trong những chiến dịch tiêu thổ tàn phá nhất trong lịch sử dọc theo bờ biển phía Nam. Số lượng rất lớn dân bị buộc phải di chuyển vào sâu nội địa và lần đầu tiên trong các văn bản tiếng Trung cụm từ ‘biên giới biển’ – hải cương (海疆/hai jiang)- bắt đầu được sử dụng. Tuy nhiên, chính sách này đã phản tác dụng: cả thương mại lẫn di cư đều tăng lên khi mọi người tìm kiếm mọi cách để sống còn.
Chiến dịch quyết liệt này sau rốt củng cố việc nắm giữ của nhà Thanh đối với bờ biển, và năm 1684, triều đại mới cảm thấy đủ an toàn để ngừng lệnh cấm giao thương nước ngoài của tư nhân. Dọc theo bờ biển phía Nam của Trung Quốc, các thương gia ra khơi tìm kiếm thị trường mới. Đến cuối thế kỷ XVII, với lợi thế tại chỗ và biên tế thấp (không cần tới việc đánh nhau tốn kém), họ đã biến người Châu Âu thành ‘kẻ thua cuộc’ ở Biển Đông. Người Bồ Đào Nha có được Macao và Timor nhưng rất ít chỗ khác. Người Tây Ban Nha đã phát triển mạnh thương mại giữa Mỹ-Latin và Manila nhưng không vượt khỏi đó. Người Hà Lan từng thống trị trong nhiều thập kỷ đã bị trục xuất khỏi Đài Loan, rút lui khỏi Bắc Bộ (miền Bắc Việt Nam) và Campuchia và mất mối quan hệ đặc biệt với Nhật Bản. ‘Đế chế’ Anh trong khu vực bao gồm một xưởng giao dịch tại Quảng Châu. Tóm lại, người Châu Âu chỉ là một nhóm các thương nhân khác từ nước ngoài: được dung nạp, miễn là họ tôn trọng thông lệ địa phương. Đó là khởi đầu của ‘thế kỷ Trung Quốc’ trong khu vực Biển Đông.
Bây giờ các rào cản đối với việc di dân đã được dỡ bỏ, rất nhiều người Trung Quốc ra đi để tìm kiếm vận may. Một số đi đi về về nhưng số khác ở lại tại nơi xa, hầu hết là thương nhân nhưng một số ít làm quan chức cho nhà cầm quyền địa phương. Sau đó, người lao động cũng bắt đầu đi ra nước ngoài. Khi nhu cầu về tiêu, vàng và thiếc trong nước tăng lên, hàng ngàn người Trung Quốc di cư đến Đông Nam Á để thiết lập các đồn điền hoặc làm việc trong các hầm mỏ. Ở một số nơi họ đã tạo ra các cộng đồng tự quản – công ty (公司/gongsi) – và ở những nơi khác họ đã trở thành một phần không thể thiếu của các khu định cư do các công ty kinh doanh Châu Âu tạo ra. Các thành phố thuộc địa như Macao của Bồ Đào Nha, Manila của Tây Ban Nha hoặc Batavia của Hà Lan không thể hoạt động nếu không có lao động người Hoa.
Người Châu Âu sợ bị phụ thuộc vào người Hoa và áp dụng chính sách phân biệt chủng tộc để giữ họ bên lề. Điều này kết hợp với các kiểu cách làm ăn hết sức không công bằng đã thường xuyên gây ra tình trạng bất ổn và đôi khi thảm sát. Tuy nhiên, cộng đồng người Trung Quốc ở nước ngoài chịu đựng, tạo ra của cải và đóng góp kỹ năng và lao động làm cho các cộng đồng chủ nhà được phát triển. Kết quả là điều được mô tả như một ‘đế chế phi chính thức’ quanh rìa Biển Đông: ‘phi chính thức’ theo nghĩa là nó không được nhà Thanh khai thác một cách hệ thống. Đối với triều đình đó là một nguồn thu nhập chứ không phải lãnh thổ. Họ ít quan tâm đến thế giới bên ngoài bờ biển.
Thương gia người Trung Quốc sử dụng biển thường coi nó như là một sự bất tiện và nguy hiểm và chỉ bám vào rìa của nó, vẫn tin chắc rằng Vạn Lý Thạch Đường – quần đảo huyền thoại dài vạn dậm dọc theo bờ Biển Đông Dương chặn lối các tuyến đường đi thẳng.[4] Sách chỉ dẫn của Trung Quốc như Đông Tây Dương khảo (東西洋考/Tung Hsi Yang Kao) – xuất bản năm 1617 – cho thấy rõ điều này.[5] Chính những người Châu Âu đã ngu ngốc tới mức cố tìm một con đường chạy thẳng qua trung tâm Biển Đông. Thành công và thất bại của họ đã được ghi nhận lại trên các hải đồ: bãi ngầm Macclesfield, ở chính giữa Biển Đông, được John Harle, thuyền trưởng của con tàu Anh Macclesfield, mô tả lần đầu năm 1701.[6] Một thất bại đáng chú ý đã cho tên của nó cho bãi cạn Scarborough, sau khi tàu Scarborough của Anh bị đắm ở đó ngày 12 tháng 9 năm 1748.[7] Các thảm họa hàng hải này là bi kịch cho người Châu Âu nhưng cung cấp công việc hữu ích cho những người khác với kỹ năng thu lượm của cải từ các tàu đắm. Công việc này tốt đến nỗi các chúa nhà Nguyễn của vùng đất mà sau này là miền Trung Việt Nam đã cấp phép cho một nhóm thủy thủ đi thu nhặt các hàng hóa – một sự việc đang được sử dụng để hậu thuẫn cho yêu sách của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. [8]
Năm 1795 Công ty Đông Ấn Anh thuê người mà sau đó sẽ cách mạng hóa việc đi lại ở Biển Đông: nhà thuỷ văn học James Horsburgh. Từ năm 1807 đến 1810, tàu của EIC đã vẽ bản đồ hầu hết các bờ biển của Biển Đông và cuối cùng bác bỏ sự tồn tại của Vạn Lý Thạch Đường. Năm 1809 và 1811 Horsburgh xuất bản sách danh bạ Ấn Độ (India Directory) về các chỉ dẫn hàng hải gồm 2 tập và sau đó, năm 1821, một hải đồ cho Biển Đông có chứa bản đồ chính xác hợp lý đầu tiên của khu vực hiện được gọi là Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa.[9] Kiến thức Châu Âu này đã không chuyển giao một cách nhanh chóng tới các nhà địa lý Trung Quốc. Cho tới năm 1843, tác giả Uông VănThái (汪文泰/Wang Wen Tai) vẫn còn đối chiếu tuyến đường đi của các nhà hàng hải Châu Âu với tuyến đường mà những người đi biển Trung Quốc dùng. Trong quyển sách Hồng mao phiên Anh Cát Lợi khảo lược (红毛番英吉利考略/Hong mao fan ying ji li kao lue – Nghiên cứu bọn phiên Anh), tên mà ông sử dụng cho các bãi ngầm Macclesfield – Hồng Mao Thiển (红毛浅/Hong Mao Qian) nghĩa đen là ‘bãi ngầm của bọn phiên lông đỏ’, dịch từ ‘Banc des Anglais’ hay ‘English Bank’, tên được dùng trên bản đồ của Pháp trước khi nó được đổi tên thành bãi ngầm Macclesfield.[10]
Hai thập kỷ sau khi hải đồ Horsburgh được công bố, Uông Văn Thái vẫn còn tin rằng quần đảo Hoàng Sa dài 1000 lý (500 km) và ở khu vực được cho là quần đảo Trường Sa, ông viết ‘ở Thất Châu Đại Dương (七州大洋/Qi Zhou Da Yang) có nhiều đá lớn, nhưng chúng ta không biết về nó.’[11]
Nhưng Horsburgh đã phát hiện là một số người đi biển địa phương đã biết cách để đi lại giữa các rạn san hô và đá. Trong mô tả về quần đảo Hoàng Sa trong ấn bản danh bạ Ấn Độ (India Directory) 1852 ông ghi nhận rằng:
Có rất nhiều thuyền đánh cá thuộc đảo [Hải Nam], đóng bằng gỗ nặng và cứng thay vì đóng bằng gỗ thông như các tàu thuyền Trung Quốc, và chúng chạy nhanh; nhiều thuyền trong số đó mỗi năm trong các chuyến đi đánh bắt cá kéo dài hai tháng và đi xa đến bảy hoặc tám trăm dặm, để thu nhặt bicho de mer [hải sâm], và mua đồi mồi khô và vi cá [mập], có trong rất nhiều bãi cạn và bãi cát ở phần phía Đông Nam của Biển Đông. Họ bắt đầu chuyến đi vào tháng 3, khi họ tới các bãi phía Bắc họ để lại ở đó một hoặc hai người trong đoàn và một vài vại nước ngọt, rồi đi tiếp tới một số bãi lớn trong vùng phụ cận của Borneo, và tiếp tục đánh bắt cá cho đến đầu tháng 6, trên đường về sẽ ghé rước nhóm người đó và những thứ họ thu thập được. Chúng tôi đã gặp rất nhiều thuyền đánh cá này khi chúng tôi tới quanh các bãi cát ngầm ở Biển Đông.[12]
Tại sao Horsburgh lại phân biệt thuyền gỗ cứng với thuyền ‘Trung Quốc’? Có lẽ chính vì những người trên các thuyền này không phải là người Trung Quốc theo nghĩa mà ông hiểu từ này. Lối sống bán du mục của họ cho thấy rằng họ có thể là dân ‘digan trên biển’ (sea gypsies) – một bộ phận của người Tanka hoặc U-tsat, hoặc những người Dan-Jia của hệ Nusantao còn sót lại (xem Chương 1) vốn sống dọc theo bờ biển của Việt Nam và miền Nam Trung Quốc (có thể vẫn tìm thấy người Dan-Jia ở đảo Hải Nam, sống trên các làng nổi). Những người khác có thể từ xa đến: người Badjao từ Philippines, người Orang Laut từ Malaysia và các nhóm du mục khác đều được biết là đã đánh bắt trong những đảo này. Dù từ đâu đến, những người du mục có cuộc sống trên biển rất tách biệt với các nhà chức trách trên đất liền. Họ bị nghi ngờ trong đối xử, thường được coi là kẻ xấu hoặc cướp biển và không được coi là công dân trọn vẹn. Thật mỉa mai là những người này bây giờ được coi là những người mở đường cho các yêu sách chủ quyền quốc gia hiện đại đang được đưa ra trong biển này.
EIC của Anh đã sẵn sàng chi tiền cho các cuộc khảo sát vì việc giao thương của họ với Trung Quốc rất hấp dẫn. Từ khởi đầu nhỏ, EIC tiến tới chu cấp cho cả Đế quốc Anh. Trong nửa đầu thế kỷ thứ XVIII, 90 % xuất khẩu của EIC tới Quảng Châu nằm dưới dạng bạc. Nhưng, cũng giống như thế kỷ trước, giá bạc giảm đi một cách đột biến. Sau năm 1775 bạc chỉ chiếm 65 % xuất khẩu của công ty này tới Quảng Châu.[13] Vào năm 1780 EIC đột nhiên cần tới một mô hình kinh doanh mới. Chính phủ Anh đã giảm thuế trà Trung Quốc và nhu cầu về bia bùng nổ. EIC cần một thứ gì khác để bán đổi lại và tìm thấy câu trả lời là thứ trồng trên vùng đất của họ ở Bengal: thuốc phiện. Việc trao đổi chất gây nghiện của Ấn Độ với chất gây kích thích của Trung Quốc đã tăng lên theo tỉ lệ lớn: nhập khẩu trà ở London đem lại £23 triệu vào năm 1800. Thuế hải quan đánh lên trà chu cấp chính phủ Anh, chính phủ dùng nó để chi trả cho Hải quân Hoàng gia, lực lượng này cuối cùng bảo vệ các thương nhân và đế quốc Anh. Mọi thứ đều dựa vào thuốc phiện để xây lên.
EIC, giống như các công ty trước đó, bây giờ rất cần một cơ sở ở eo biển Malacca, một cảng mà ở đó họ có thể hoạt động như người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Hà Lan trước đây và kết nối với thương mại thuyền mành Trung Quốc. Năm 1786 công ty này đã thuê đảo Penang ở đầu Bắc của eo biển nhưng chỉ thành công khiêm tốn. Chính việc thu được Singapore vào năm 1819 mới cho người Anh được lợi thế. Nằm ở vị trí hoàn hảo để tiếp nhận giao thương từ tất cả các hướng và không bị các nhà cai trị truyền thống, tôn giáo độc đoán cùng hệ thống quan liêu cồng kềnh ràng buộc, Singapore nhanh chóng phát triển từ một đầm lầy hang ổ bệnh sốt rét thành một trung tâm Anh-Trung (hoặc có lẽ chính xác hơn là Trung-Anh) của khu vực. Với thắng lợi trong cuộc chiến tranh Napoleon với Pháp, Anh đã trở thành bá chủ toàn cầu mới và, cũng giống như những bá chủ trước, tìm cách kiểm soát việc thương mại với Trung Quốc thông qua eo biển Malacca. Người Hà Lan có thể phản đối nhưng họ ở vị thế không cưỡng lại được.
Cho đến thế kỷ XIX, việc can thiệp của các cường quốc Châu Âu trong khu vực Đông và Đông Nam Á đã tăng lên đáng kể nhưng nhìn chung có tính cục bộ và tạm thời. Tuy nhiên, với sức mạnh của cách mạng công nghiệp phía sau họ, điều đó đã thay đổi. Đế chế giao thương phát triển thành đế chế lãnh thổ và các đế chế mới này sẽ tạo ra các ranh giới và các cuộc xung đột mới. Câu chuyện về hai tranh chấp lãnh thổ sau đây minh họa rất rõ điều này. Vào giữa thế kỷ XVII, hoàng đế nhà Lê Việt Nam và vua Lào đã tranh nhau phần thượng thung lũng sông Mekong. Cuộc xung đột cuối cùng đã được giải quyết khi hai nhà cai trị đồng ý rằng ai ở nhà sàn (người ‘Lào’) thì phải trung thành với vua Lào, còn ai sống ngay trên đất (người ‘Việt’) thì trung thành với hoàng đế Việt Nam. Một ranh giới xác định không quan trọng bằng lòng trung thành cá nhân của người dân.[14] Trái ngược hoàn toàn, Anh và Hà Lan giải quyết tranh chấp trong eo biển Malacca hồi thế kỷ XIX với một kiểu thỏa thuận rất khác biệt. Hiệp ước Anh-Hà Lan vạch một đường xuyên qua biển – các hoạt động của Anh giới hạn ở phía Bắc còn của Hà Lan ở phía Nam. Điều đó có nghĩa là người Anh phải từ bỏ vùng định cư của họ tại Bencoolen trên đảo Sumatra và người Hà Lan buộc phải rời khỏi Malacca. Quan hệ cá nhân là vô nghĩa, còn quốc tịch, vị trí mới là tất cả. Hiệp ước đã giải quyết vấn đề của người Châu Âu nhưng lại tạo ra thêm nhiều rắc rối cho cộng đồng người Malay bản địa vốn từ lâu lang bạt trên cả hai phía của đường tưởng tượng này. Những người cố sống theo cách truyền thống bị gọi là ‘kẻ sống lậu’, những người cố chống lại bị gọi là ‘cướp biển’.[15]
Vào đầu thế kỷ XIX, người Châu Âu và người Đông Nam Á có quan niệm hoàn toàn khác biệt về các yếu tố cấu thành ‘quốc gia’. Các đơn vị chính trị truyền thống ở Đông Nam Á được xác định bởi trung tâm của nó: bởi uy tín cá nhân của nhà cai trị. Trong hệ thống mandala này, quyền của vua chúa suy giảm dần theo khoảng cách tới trung tâm vương quốc. Tại Châu Âu, ít ra là kể từ Hòa ước Westphalia, đơn vị chính trị đã xác định bằng các đường biên: luật pháp, quyền hạn và nghĩa vụ áp dụng như nhau trên toàn lãnh thổ nhưng hoàn toàn dừng lại tại biên giới. Trong hệ thống Châu Á có thể có quá trình chuyển đổi dần dần về thẩm quyền và thậm chí có cả những chỗ trống không có nhà cai trị nào được thừa nhận ở đó. Những đơn vị nhỏ có thể thừa nhận nhiều hơn một chủ quyền hoặc có thể không thừa nhận đâu cả. Theo truyền thống, ranh giới ở Đông Nam Á dịch chuyển – còn biên giới biển thì cực kì mơ hồ. Sự mơ hồ cho phép quan hệ giữa các nhà cai trị biến chuyển và biên giới xê dịch: đôi khi hòa bình, dù thường xuyên hơn là bạo lực Trong hệ thống Châu Âu không có những khoảng trống – nơi nào cũng phải thuộc về một chủ quyền và chỉ một mà thôi. Lựa chọn khó khăn là vốn có.
Như một kết quả của sự tranh cãi giữa Grotius và Selden (và những người kế tục) bây giờ đã có một sự đồng thuận giữa các nhà cai trị phương Tây về những biên giới xác định có thể mở rộng ra biển được. Khi đế quốc của họ mở rộng, sự đồng thuận đó đi theo họ về phía Đông và đã được áp đặt trên một khu vực vốn đã có một cách hiểu hoàn toàn khác biệt về biên giới trên biển. Việc chuyển đổi từ biên giới linh động sang biên giới cố định là gốc rể của cuộc xung đột hiện nay ở Biển Đông.
B.H.
Dịch giả gửi BVN
[1] Peter Borschberg, ‘The seizure of the Sta Catarina Revisited: The Portuguese Empire in Asia, VOC Politics and the Origins of the Dutch-Johor Alliance (1602-c.1616)’, Journal of Southeast Asian Studies, vol. 33, no.1 (2002), 31-62; Peter Borschberg, Hugo Grotius, the Portuguese and the Free Trade in the East Indies (Singapore, 2011); Martine Julia Van Ittersum, Profit ansd Principle: Hugo Grotius, Natural Rights Theories and the Rise of Dutch Power in the East Indies, 1595-1615 (Leiden, 2006)
[2] Bardo Fasshender et al, The Oxfod Handbook of the History of International Law (Oxford, 2012), 369.
[3] Edward Gordon, online note for the exhibition curated by Edward Gordon and Mike Widener, Freedom of the Seas, 1609: Grotius and the Emergence of International Law, at Yale Law School in Autumn 2009.
[4] Roderich Ptak, ‘The Sino-European Map (Shanhai yudi quantu) in the Enclyclopaedia Sancai Tuhui, in Angela Stottenhammer and Roderich Ptak (eds), The Perception of Maritime Space in Traditional Chinese Sources (Weisbaden, 2006), 191-207.
[5] Léonard Blussé, “No boat China. The Dutch East India Company and the Changing Pattern of the China Sea Trade 1635-1690’, Modern Asian Studies, vol. 30 (1996), 51-76.
[6] Hydrographic Office, The Admiralty, The China Sea Directory (London, 1889), vol. 2, 108.
[7] David Hancox and Victor Prescott, ‘Secret Hydrographic Surveys in the Spratly Islands’ (London, 1999). Spanish cartographers already knew Scarborough Shoal as Maroona Shoal and later the Bajo de Masingloc.
[8] Edyta Roszko, ‘Commemoration and the State: Memory and Legitimacy in Vietnam’, Sejourn: Journal of Social Issues in Southeast Asia, vol. 25, no. 1 (2010), 1-28.
[9] .David Hancox and Victor Prescott, ‘A Geographical Description of the Spratly Islands and an account of Hydrographic Surveys amongst those Islands’, Maritime Briefings, vol. 1. No. 6 (1995). Có thể xem tại https://www.dur.ak.uk/ibru/publications/view/?id=22.
[10] .Wang Wen Tai, Hong mao fan ying ji li kao lue [To Study the Foreigners], 1843, quoted in Han Zhen Hua, Lin Jin Zhi and Hu Feng Bin (eds) Wo Guo Nanhai shi liao huibian [Compilations of Historical Documents on Our Nanhai Islands], Dong Feng chu ban she, 1988, 163, quoted in François-Xavier Bonnet, ‘Geopolitics of Scarborough Shoal’, Irasec’s Discussion Paper, no. 14 (November, 2012), 13. Có thể xem ở https://www.irasec.com.
[11] Ibid.
[12] James Horsburgh, The India Directory Or, Directions for Sailing from and to the East Indies, China, Australia and the Interjacent Ports of Africa and South America, 6th edn, (London, 1852), vol. 2. 346.
[13] Dennis Owen Flynn and Arturo Giráldez, “Cycles of Silver: Global Economic Unity through the Mid-Eighteenth Century’, Journal of World History, vol. 13 (2002), 391-427.
[14] David P. Chandler et al, In search of Southeast Asia: A Modern History, rev. edn (Honolulu 1987).
[15] Carl A.Trocki, Prince of Pirates: The Temenggongs and the Developments of Johor and Singapore, 1784-1885, (Singapore, 2007).