Thông cáo Báo chí của Toà trọng tài thường trực về Vụ kiện Philippines và Trung Quốc ở Biển Đông

Mặc dù không phải người Việt Nam nào cũng biết một cách tường tận nghĩa đen của từ TÀU Ô nhưng những ký ức hãi hùng, bẩn thỉu, mông muội về Tàu ô thì vẫn truyền đời cho đến tận ngày nay. Xuất hiện cách đây mấy thế kỷ, từ Tàu ô không những không cũ đi mà ngày càng trở nên phổ biến, thành một từ đầu lưỡi chỉ người Trung Quốc. Người Việt không gọi là mực Trung Quốc mà gọi là mực Tàu, ghẻ Tàu, người Tàu.

Từ điển tiếng Việt  do nhà Hán học lừng danh Văn Tân giải thích từ TÀU Ô cụt lủn, ngắn gọn hơn cả văn bia: Tàu ô- cướp biển (cũ). Chắc chắn ông Văn Tân rất rành nghĩa đen từ tàu ô, ông không giải thích có lẽ vì ông sợ đấy thôi. Không biết ông sợ Tàu hay sợ ta.

Thực ra thì nghĩa đen của tàu ô rất đơn giản: Tàu (thuyền) là tàu, ô là đen (người Việt vẫn gọi ngựa đen là ngựa ô, gà đen là gà ô đấy thôi) Như vậy tàu ô = tàu (thuyền) màu đen. Có vậy thôi. Nhưng tại sao lại gọi người Trung Quốc là TÀU Ô.

Số là Trung Quốc cũng rất giống Việt Nam, lịch sử của họ cũng là lịch sử của các cuộc chiến tranh liên miên. Chỉ khác nhau chút xíu: Việt Nam chủ yếu là đánh giặc ngoại xâm, còn Trung Quốc chủ yếu là đánh lộn nhau, nồi da nấu thịt. Đám người Trung Quốc chạy loạn biến thành thảo khấu, cướp biển sắm tàu bè (tàu của chúng sơn màu đen nên gọi là tàu ô) theo gió bắc tràn xuống nước ta, cướp của, giết người, hãm hiếp, chiếm đất, lập lãnh địa riêng… Suốt hàng trăm năm tàu ô trở thành nỗi khiếp đảm của người Việt. Tàu ô trở thành từ đồng nghĩa với cướp, hiếp, giết.

Tàu ô đến từ biển.  Và lần này, lịch sử cũng đang lặp lại, có điều lần này họa tàu ô còn lớn hơn họa tàu ô xưa kia hàng ngàn vạn lần. Chúng là loại tàu ô có Đảng lãnh đạo. Đảng của nó lại chơi thân với Đảng mình, uống máu ăn thề ăn đời ở kiếp với nhau.

Trông người lại ngẫm đến ta, thấy người Phi kiện tàu ô vất vả như vậy vừa thương họ vừa lo cho nước mình. Cha ông mình chưa bao giờ mất cảnh giác với bọn tàu ô; đã gửi đến cho con cháu lời cảnh báo tuyệt vời: Chuyện nỏ thần nhưng nhiều khi con cháu đã không chịu nghe. 

Tàu ô là cướp biển, không bao giờ được mắc mưu cướp biển. Chúc vụ kiện của Philipines thành công. Đảng và Chính phủ Việt Nam hãy mau mau khởi kiện Tàu ô. 

Bauxite Việt Nam

Vào thứ 2, ngày 13 tháng 7 năm 2015, Tòa Trọng tài đã kết thúc điều trần về thẩm quyền và khả năng thụ lý trong vụ việc trọng tài mà nước Cộng hòa Philippines đã khởi kiện chống lại nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa theo quy định của Phụ lục VII của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (“Công ước”). 

 THÔNG CÁO BÁO CHÍ

Vụ kiện Trọng tài giữa Cộng hòa Philippines và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa

La Hay, 13 tháng 7 năm 2015

Tòa Trọng tài Kết thúc Phiên điều trần về Thẩm quyền và Khả năng thụ lý 

Vào thứ 2, ngày 13 tháng 7 năm 2015, Tòa Trọng tài đã kết thúc phiên điều trần về thẩm quyền và khả năng thụ lý trong vụ việc trọng tài mà nước Cộng hòa Philippines đã khởi kiện chống lại nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa theo quy định của Phụ lục VII của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (“Công ước”).

Phiên điều trần được bắt đầu vào ngày 7 tháng 7 năm 2015 và diễn ra ở Cung điện Hòa bình, trụ sở của Tòa Trọng tài Thường trực ở La Hay, Hà Lan.

Đoàn Philippines gồm khoảng 60 người tham dự, trong đó có Cố vấn Pháp lý với vai trò là Luật sư tranh tụng của Philippines, Ngoại trưởng, Bộ trưởng Tư pháp, Bộ trưởng Quốc phòng, thành viên Tòa án Tối cao, thành viên Hạ viện, các Đại sứ, luật sư của chính phủ, các quan chức, luật sư, cố vấn, chuyên gia kỹ thuật và trợ lý.

Luật sư tranh tụng của Philippines, Cố vấn Pháp lý Florin T. Hilbay, và Ngoại trưởng Philippines, ông Albert Ferreros del Rosario đã có các bài phát biểu giới thiệu. Sau đó, Luật sư của Philippines, ông Paul S. Reichler, Giáo sư Phillipe Sands QC, ông Lawrence H. Martin, Giáo sư Bernand H. Oxman, và Giáo sư Alan Boyle đã trình bày các lập luận pháp lý của Philippines.

Tòa trọng tài đã quyết định không công khai phiên điều trần. Tuy nhiên, sau khi nhận được các văn bản đề nghị từ các Quốc gia có quan tâm đến vụ việc và tham khảo ý kiến của các Bên, Tòa trọng tài đã cho phép Chính phủ Malaysia, Cộng hòa Indonesia, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Vương quốc Thái Lan và Nhật Bản cử các đoàn nhỏ tham gia phiên điều trần với tư cách quan sát viên.

Khởi đầu của vụ kiện trọng tài

Quá trình trọng tài bắt đầu vào ngày 22 tháng 1 năm 2013 khi Philippines gửi tới Trung Quốc Thông báo và Bản yêu sách “liên quan đến tranh chấp với Trung Quốc đối với quyền tài phán trên biển của Philippines ở vùng Biển Tây Philippines”. Vào ngày 19 tháng 2 năm 2013, Trung Quốc đã gửi Philippines công hàm ngoại giao trong đó đưa ra “Quan điểm của Trung Quốc đối với các vấn đề ở Biển Đông” và từ chối, trả lại Thông báo của Philippines.

Tòa trọng tài gồm năm thành viên được chủ trì bởi Thẩm phán Thomas A. Mensah đến từ Ghana. Các Thành viên khác gồm có Thẩm phán Jean-Pierre Cot người Pháp, Thẩm phán Stanislaw Pawlak người Ba Lan, Giáo sư Alfred Soons người Hà Lan và Thẩm phán Rudiger Wolfrum người Đức. Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) đóng vai trò là Cơ quan đăng ký của cuộc tố tụng.

Trung Quốc không tham gia

Chính phủ Trung Quốc đã duy trì quan điểm không chấp nhận và cũng như không tham gia vào quá trình tố tụng trọng tài này. Trung Quốc đã tái khẳng định quan điểm này trong các công hàm ngoại giao, các tuyên bố chính thức, “Tuyên bố Lập trường của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Vấn đề Thẩm quyền trong Vụ kiện Trọng tài Biển Đông do Cộng hòa Philippines đệ trình” ngày 7 tháng 12 năm 2014, và hai lá thư do Đại sứ Trung Quốc tại Hà Lan gửi hai thành viên của Tòa Trọng tài. Chính phủ Trung Quốc cũng đã khẳng định rằng những tuyên bố và tài liệu này “sẽ không được hiểu là Trung Quốc đang tham gia vào quá trình tố tụng trọng tài dưới bất kỳ hình thức nào”.

Điều 9 của Phụ lục VII Công ước quy định rằng:

Khi một trong số các bên trong vụ tranh chấp không ra Toà hoặc không trình bày các lý lẽ của mình, thì bên kia có thể yêu cầu Toà tiếp tục trình tự tố tụng và phán quyết. Việc một bên vắng mặt hay việc một bên không trình bày các lý lẽ của mình không cản trở cho trình tự tố tụng. Trước khi ra phán quyết, Toà trọng tài cần phải biết chắc chắn rằng không những Toà có thẩm quyền xét xử vụ tranh chấp mà còn chắc chắn rằng đơn kiện có cơ sở về mặt thực tế pháp lý.

Phù hợp với nghĩa vụ theo Điều 5 của Phụ lục VII Công ước về việc “cho mỗi bên có khả năng bảo vệ các quyền của mình và trình bày căn cứ của mình”, Tòa Trọng tài đã thường xuyên cập nhật cho Trung Quốc những tiến triển của mọi giai đoạn trong quá trình tố tụng. Bản ghi chép của các phiên xét xử đều đã được chuyển tới Trung Quốc và Trung Quốc đã được mời đưa ra ý kiến đối với tất cả những gì đã được nêu ra ở phiên xét xử.

Quá trình tố tụng về Thẩm quyền và Khả năng thụ lý

Theo quy định của Công ước, một tòa trọng tài thành lập theo Phụ lục VII có thẩm quyền xem xét một tranh chấp giữa các Quốc gia Thành viên Công ước trong phạm vi tranh chấp đó liên quan đến việc “giải thích hay áp dụng” Công ước. Tuy nhiên, Công ước cũng loại trừ một số loại tranh chấp khỏi thẩm quyền của tòa trọng tài và bao gồm một số điều kiện tiên quyết cần phải được đáp ứng trước khi tòa trọng tài thực thi thẩm quyền của mình.

Vì những lý do đã nêu tại Lệnh Thủ tục số 4 ngày 21 tháng 4 năm 2015, Tòa Trọng tài đã coi những trao đổi của Trung Quốc là cấu thành lập luận cho rằng vụ kiện của Philippines nằm ngoài phạm vi thẩm quyền của Tòa Trọng tài. Vì vậy, Tòa Trọng tài đã quyết định mở phiên sơ thẩm để xem xét phạm vi thẩm quyền và khả năng thụ lý các yêu sách của Philippines. Trong trường hợp Tòa Trọng tài quyết định rằng Tòa có thẩm quyền đối với một số yêu sách của Philippines thì Tòa sẽ tiếp tục mở các phiên xét xử về nội dung vụ tranh chấp.

Tòa Trọng tài tiếp tục có nghĩa vụ theo Điều 9 Phụ lục VII của Công ước về việc thỏa mãn được yêu cầu rằng Tòa có thẩm quyền đối với vụ tranh chấp. Theo đó, trước và trong phiên xét xử Tòa Trọng tài đã làm rõ rằng Tòa sẽ xem xét các vấn đề về thẩm quyền và khả năng thụ lý cho dù nó có được nêu lên trong Tuyên bố Quan điểm của Trung Quốc hay không.

Vào ngày 23 tháng 6 năm 2015, Tòa Trọng tài đã gửi thư tới các Bên với hướng dẫn về những vấn đề cần giải quyết liên quan đến phiên xét xử. Tòa Trọng tài cũng đặt thêm câu hỏi trong quá trình xét xử.

Tóm tắt Tuyên bố Lập trường của Trung Quốc về Vấn đề Thẩm quyền

Tuyên bố Lập trường của Trung Quốc được đưa ra vào ngày 7 tháng 12 năm 2014 “nhằm chứng minh rằng [Tòa Trọng tài] không có thẩm quyền đối với vụ việc này”. Tuyên bố Lập trường này “không thể hiện bất kỳ quan điểm nào đối với các vấn đề thực chất liên quan đến nội dung vụ kiện trọng tài mà Philippines đệ trình lên” và “sẽ không được coi là Trung Quốc chấp nhận hay tham gia vào quá trình tố tụng này”.

Tuyên bố Lập trường, có thể được truy cập tại http://www.fmprc.gov.cn/mfa_eng/zxxx_662805/t1217147.shtml, nêu ra bốn quan điểm sau, theo Trung Quốc:

  • Nội dung trọng tâm của vụ kiện trọng tài là chủ quyền lãnh thổ đối với một số cấu trúc trên biển ở Biển Đông, nó nằm ngoài phạm vi của Công ước và không liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước;
  • Trung Quốc và Philippines đã thỏa thuận, thông qua các văn bản song phương và Tuyên bố về Ứng xử của các Bên ở Biển Đông, rằng hai bên sẽ giải quyết các tranh chấp có liên quan qua con đường đàm phán. Bằng việc đơn phương khởi động vụ kiện trọng tài này, Philippines đã vi phạm nghĩa vụ của mình theo luật quốc tế;
  • Ngay cả khi giả định, vì mục đích tranh luận, rằng nội dung vụ kiện liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước, thì nội dung đó là một phần không thể tách rời của công tác phân định trên biển giữa hai nước, vì vậy nó sẽ rơi vào phạm vi của tuyên bố của Trung Quốc năm 2006 phù hợp với Công ước, trong đó loại trừ những tranh chấp liên quan đến phân định biển khỏi thẩm quyền bắt buộc của trọng tài và các thủ tục giải quyết tranh chấp bắt buộc khác;
  • Hệ quả là, Tòa Trọng tài rõ ràng không có thẩm quyền đối với vụ việc này. Dựa trên những quan điểm nêu trên và quyền tự do của Quốc gia được phép chọn phương thức giải quyết tranh chấp, việc Trung Quốc bác bỏ và không tham gia vào vụ việc trọng tài hiện tại là hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế.

Tóm tắt lập luận của Philippin

Trong bài phát biểu giới thiệu lúc khai mạc phiên xét xử về thẩm quyền và khả năng thụ lý, Bộ trưởng del Rosario đã tóm tắt đệ trình của Philippines về nội dung tranh chấp của hai Bên như sau:

  • Đầu tiên, Trung Quốc không có quyền thực hiện cái mà nước này gọi là “quyền lịch sử” đối với các vùng biển, đáy biển và vùng đất dưới đáy biển ngoài giới hạn mà nước này được hưởng theo Công ước;
  • Thứ hai, cái gọi là “đường chín đoạn” không hề có bất kỳ căn cứ nào theo luật quốc tế khi ý nghĩa của nó là nhằm vạch ra giới hạn yêu sách “quyền lịch sử” của Trung Quốc;
  • Thứ ba, những cấu trúc trên biển mà Trung Quốc dựa vào để làm căn cứ nhằm khẳng định yêu sách của mình ở Biển Đông không phải là các đảo có khả năng tạo ra quyền đối với vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa. Thay vào đó, một số cấu trúc đó là “đảo đá”, theo định nghịa của Điều 121(3); một số khác là các cấu trúc lúc chìm lúc nổi; còn số khác là đảo chìm. Do đó, không một cấu trúc nào có khả năng tạo ra quyền ngoài phạm vi 12 hải lý, thậm chí một số cấu trúc còn không tạo ra bất kỳ một quyền nào. Những hoạt động cải tạo với quy mô lớn gần đây của Trung Quốc không thể thay đổi một cách hợp pháp bản chất và đặc điểm nguyên thuỷ của những cấu trúc này;
  • Thứ tứ, Trung Quốc đã vi phạm Công ước bằng việc can thiệp vào quyền thực thi quyền chủ quyền và quyền tài phán của Philippin; và
  • Thứ năm, Trung Quốc đã vi phạm [Công ước] bằng việc gây ra thiệt hại không thể phục hồi đối với môi trường biển trong khu vực, thông qua việc phá hủy các bãi san hô ở Biển Đông, bao gồm các khu vực thuộc [vùng đặc quyền kinh tế] của Philippines, thông qua thực tiễn đánh cá mang tính phá hủy và nguy hại của mình, và qua việc đánh bắt những loài vật có nguy cơ tuyệt chủng.

Bộ trưởng del Rosario cũng nhấn mạnh rằng “qua việc đệ trình vụ việc này, Philippines không yêu cầu Tòa Trọng tài xét xử về khía cạnh chủ quyền lãnh thổ của các tranh chấp với Trung Quốc. Chúng tôi có mặt ở đây vì muốn làm rõ những quyền trên biển của mình ở Biển Đông, một câu hỏi mà Tòa có thẩm quyền xem xét”.

Tiếp sau Bộ trưởng del Rosario là Luật sư của Philippines, ông đã bắt đầu bằng việc trả lời câu hỏi rằng vụ kiện của Philippines liên quan đến việc có tồn tại một tranh chấp pháp lý giữa Philippines và Trung Quốc đối với một số vấn đề hay không và liệu những tranh chấp đó có đòi hỏi việc giải thích hay áp dụng Công ước hay không. Theo Philippines, tranh chấp giữa các Bên, ở mức rộng nhất, liên quan đến các quan điểm trái chiều của các Bên về nguồn gốc các quyền trên biển của mình. Theo quan điểm của Philippines, “các quyền và nghĩa vụ của Philippines và Trung Quốc chính là các quyền và nghĩa vụ được quy định trong Công ước 1982, không hơn không kém” và Công ước quy định đầy đủ về các vùng biển của các Quốc gia Thành viên. Vì vậy, đối với Philippines, câu hỏi về việc “liệu ‘quyền lịch sử’ của Trung Quốc theo luật quốc tế có trái với các điều khoản của Công ước 1982 , hay được bảo vệ bởi những điều khoản đó, là một vấn cần phải giải thích và áp dụng Công ước”. Tương tự, Philippines lập luận rằng những đệ trình của mình liên quan đến quy chế của một số cấu trúc trên biển và các hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông, đòi hỏi Tòa Trọng tài phải áp dụng các điều khoản có liên quan của Công ước, vì vậy chúng là những vấn đề thuộc thẩm quyền của Tòa Trọng tài.

Tiếp theo, Luật sư của Philippines nói tới mối quan hệ giữa các đệ trình của Philippines trong vụ trọng tài này và các yêu sách của Philippines về chủ quyền đối với các cấu trúc trên biển ở Biển Đông, cụ thể là phản đáp lại các lập luận trong Tuyên bố Quan điểm của Trung Quốc. Theo Philippines, quy chế của một cấu trúc theo quy định của Công ước và các vùng biển mà nó có thể tạo ra không đòi hỏi phải xác định trước rằng Quốc gia nào có chủ quyền đối với cấu trúc đó. Vì vậy, Tòa Trọng tài không cần phải xem xét đến vấn đề chủ quyền khi xét xử các đệ trình của Philippines, do quy chế của các cấu trúc sẽ không thay đổi, cho dù Quốc gia nào có chủ quyền với chúng đi chăng nữa. Hơn nữa, Philippines cho rằng theo luật quốc tế tòa và tòa trọng tài có quyền thực thi thẩm quyền đối với một phần của một tranh chấp đa chiều, ngay cả khi tòa đó không có thẩm quyền xem xét tất cả các vấn đề liên quan đến tranh chấp.

Tiếp đó, Luật sư của Philippines quay sang câu hỏi về các điều kiện tiên quyết đối với thẩm quyền của Tòa Trọng tài và liệu Tuyên bố về Ứng xử của các Bên ở Biển Đông năm 2002  hay Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á năm 1976 có cấu thành một thỏa thuận giữa các Bên về việc loại trừ quyền giải quyết tranh chấp giữa các bên bằng hình thức trọng tài theo quy định của Công ước hay không. Theo Philippines, Tuyên bố năm 2002 không phải là một thỏa thuận có tính ràng buộc về pháp lý, một thực tiễn mà Trung Quốc đã nhiều lần khẳng định. Hơn nữa, Philippines lập luận rằng, Tuyên bố 2002 không chứa bất kỳ nội dung nào có thể được hiểu là loại trừ giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, và bản thân Tuyên bố cũng dẫn chiếu đến việc giải quyết tranh chấp theo quy định của Công ước. Tương tự như vậy, theo Philippines, mặc dù Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác là một thỏa thuận có tính ràng buộc giữa các Bên, bản thân Hiệp ước cũng đã khẳng định về khả năng sử dụng các biện pháp giải quyết tranh chấp khác. Theo quan điểm của Philippines, điều khoản này chỉ áp đặt một “trách nhiệm khiêm tốn” với các Quốc gia tranh chấp và trách nhiệm đó đã được thỏa mãn thông qua trao đổi ngoại giao giữa Philippines và Trung Quốc.

Sau đó, Luật sư của Philippines nói tới các ngoại lệ đối với thẩm quyền được quy định trong Công ước và lập luận trong Tuyên bố Quan điểm của Trung Quốc rằng các đệ trình của Philippines là một phần không thể tách rời của một tranh chấp đối với phân định ranh giới trên biển và do đó bị loại trừ khỏi thẩm quyền của Tòa Trọng tài theo quy định của Điều 298 của Công ước. Theo Philippines, “các vấn đề về phân định trên biển chỉ phát sinh trong bối cảnh chồng chéo quyền của các quốc gia ven biển” và Trung Quốc, với sự phản đối của mình, đã gộp vấn đề về quyền đối với các vùng trên biển với câu hỏi về việc phân chia các vùng đó trong trường hợp có sự chồng chéo. Theo quan điểm của Philippines, một trong những thành tựu nổi bật của Công ước là đã xác định được quyền trên biển của các Quốc gia ven biển và xây dựng được cơ chế giải quyết tranh chấp đối với bản chất và giới hạn của các quyền đó. Vì vậy, Philippines cho rằng, cho dù Tòa Trọng tài không thể phân định các quyền chồng chéo, nhưng Tòa không bị cản trở trong việc xác định sự tồn tại của các quyền đó, như Philippines đã yêu cầu.

Liên quan đến việc loại trừ theo Điều 298 đối với các tranh chấp liên quan đến “vịnh hoặc danh nghĩa lịch sử”, Luật sư của Philippines lập luận rằng các yêu sách của Trung Quốc về “quyền lịch sử” là hoàn toàn khác biệt với “danh nghĩa lịch sử” được quy định trong Công ước. Khi rà soát bản tiếng Trung của Công ước, cũng như của năm thứ tiếng chính thức khác (tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Ả Rập, và tiếng Nga), Philippines cho rằng một “vịnh hay danh nghĩa lịch sử” bị giới hạn ở các yêu sách ở vùng biển nội thủy liền kề với đường bờ biển của một Quốc gia. Hơn nữa, theo Philippines, các tuyên bố và trao đổi ngoại giao của Trung Quốc cũng chưa hề sử dụng những thuật ngữ đó để mô tả các “quyền lịch sử” mà Trung Quốc yêu sách ở Biển Đông.

Luật sư của Philippines sau đó nói về các ngoại lệ về thẩm quyền đối với các tranh chấp liên quan đến hoạt động quân sự hoặc chấp pháp. Theo Philippines, ngoại lệ đối với các hoạt động chấp pháp là hẹp và chỉ áp dụng với các hoạt động chấp pháp có liên quan đến nghiên cứu khoa học trên biển hay quản lý tài nguyên sinh vật (cả hai lĩnh vực này đã bị loại trừ khỏi giải quyết tranh chấp bắt buộc). Do đó, Philippines không coi ngoại lệ về chấp pháp là có liên quan đến các đệ trình của mình. Còn với ngoại lệ về hoạt động quân sự, Philippines cho rằng việc coi các hoạt động là có tính quân sự phụ thuộc vào mục đích của chúng và lập luận rằng Trung Quốc, chứ không phải Philippines, mới có khả năng cung cấp thông tin về bản chất và mục đích các hoạt động của mình ở Biển Đông. Tuy nhiên, Philippines cũng lưu ý rằng Trung Quốc đã không coi các hoạt động của mình là có tính quân sự và cũng không viện dẫn đến ngoại lệ này trong Tuyên bố Lập trường. Thêm vào đó, Philippines nhận định rằng “nhiều Quốc gia đã sử dụng tàu hải quân của mình cho mục đích chấp pháp ít nhất là vài lần” và lập luận rằng “việc các cán bộ quân sự tham gia vào các hoạt động xây dựng hay cải tạo đất không đồng nghĩa với việc mục đích của các hoạt động đó là quân sự”.

Cuối cùng, Luật sư của Philippines nói tới các ngoại lệ về thẩm quyền đối với các tranh chấp liên quan đến tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế trong phạm vi các đệ trình của Philippines về tổn hại đối với môi trường và các loài sinh vật có nguy cơ tuyệt chủng. Theo Philippines, ngoại lệ này không thể được áp dụng, do các vi phạm của Trung Quốc không xảy ra ở vùng lãnh hải bao quanh Bãi cạn Scarborough hay trong các vùng gần Bãi Second Thomas Shoal và Đá Vành khăn, những vùng mà chỉ có Philippines được hưởng vùng đặc quyền kinh tế. Theo Philippines, trong trường hợp này Tòa Trọng tài không bị hạn chế về thẩm quyền. Philippines cũng làm rõ rằng các đệ trình của mình liên quan đến các nội dung của Công ước về môi trường biển và ở đây Philippines không khiếu kiện về một vi phạm riêng đối với Công ước về Đa dạng sinh học.

Vào ngày cuối cùng của phiên xét xử, để trả lời các câu hỏi của Tòa Trọng tài, Philippines đã đưa thêm những lập luận về (a) sự tồn tại của một tranh chấp pháp lý liên quan đến từng đệ trình của Philippines; (b) phạm vi thẩm quyền lệ thuộc của một tòa trọng tài đối với các vấn đề nhỏ liên quan đến chủ quyền lãnh thổ có thể được nêu trong đệ trình của Philippines; (c) việc áp dụng nguyên tắc estoppel (cấm phản cung) đối với Tuyên bố về Ứng xử các Bên ở Biển Đông năm 2002; (d) về việc Philippines có nghĩa vụ cố gắng giải quyết tranh chấp giữa các Bên theo quy định của Tuyên bố năm 2002 hay Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á năm 1976 hay không; (e) phạm vi và ý nghĩa của các ngoại lệ theo Công ước đối với các tranh chấp liên quan đến hoạt động quân sự; và (f) liệu câu hỏi về thẩm quyền đối với bất kỳ một đệ trình nào của Philippines không mang “tính sơ thẩm một cách thuần túy” và đòi hỏi Tòa Trọng tài phải xác định trước một hay nhiều vấn đề liên quan đến nội dung yêu sách của Philippines hay không. Philippines cũng trả lời các câu hỏi của các thành viên trong Tòa Trọng tài.

Bước tiếp theo của Tòa Trọng tài

Các Bên sẽ có thời hạn đến thứ 2 ngày 20 tháng 7 năm 2015 để rà soát và đệ trình những thay đổi đối với bản ghi chép của phiên xét xử về thẩm quyền và khả năng thụ lý. Đến thứ 5 ngày 23 tháng 7 năm 2015 Philippines sẽ đệ trình các văn bản phản hồi các câu hỏi của Tòa Trọng tài trong phiên xét xử. Tòa Trọng tài kỳ vọng rằng các bản ghi chép sửa đổi sẽ có thể được truy cập tại trang mạng của PCA.

Phù hợp với nghĩa vụ của Tòa Trọng tài theo Điều 5 Phụ lục VII của Công ước về việc “cho mỗi bên có khả năng bảo vệ các quyền của mình và trình bày căn cứ của mình”, Tòa Trọng tài đã quyết định cho Trung Quốc cơ hội được bình luận bằng văn bản, với thời hạn là ngày 17 tháng 8 năm 2015, đối với tất cả những gì được nói tại Phiên xét xử về Thẩm quyền và Khả năng thụ lý này.

Tòa Trọng tài hiện đang bước vào quá trình phân xử và ý thức được nghĩa vụ của mình theo Quy tắc Thủ tục về việc “tránh sự trì hoãn và chi phí không cần thiết và cung cấp một tiến trình công bằng và hiệu quả”. Tòa Trọng tài sẽ cố gắng đưa ra quyết định về các vấn đề về Thẩm quyền và Khả năng thụ lí mà Tòa coi là hợp lý một cách nhanh nhất có thể và hy vọng sẽ làm được trước thời điểm cuối năm.

Nếu Tòa Trọng tài xác định rằng có những phản đối đối với thẩm quyền hay các vấn đề về khả năng thụ lí không mang tính sơ thẩm một cách thuần túy thì, theo quy định của Điều 20(3) của Quy tắc thủ tục, những vấn đề đó sẽ được xem xét và quyết định tại các phiên sau của quá trình tố tụng.

***

Các thông tin thêm về vụ kiện, bao gồm Quy định Thủ tục và các Thông cáo Báo chí trước đây và hình ảnh của buổi điều trần có thể xem tại http://www.pca-cpa.org/showpage.asp?pag_id=1529.

Thông tin về Toà Trọng tài Thường trực (PCA):  Toà Trọng tài Thường trực là một cơ quan liên chính phủ được thành lập năm 1899 bởi Công ước Hague về việc xét xử hoà bình các tranh chấp quốc tế. Có trụ sở tại Cung điện Hoà Bình ở La Hay, Hà Lan, Toà Trọng tài Thường trực thực hiện việc phân xử bằng hình thức trọng tài, hoà giải, tìm hiểu tình hình thực tế một cách trung lập và các thủ tục giải quyết tranh chấp khác giữa các quốc gia, các thực thể nhà nước, các tổ chức phi chính phủ và các chủ thể tư nhân.

Dịch: Việt Phạm

Hiệu đính: Kim Minh

Nguồn: http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-nuoc-ngoai/5117-thong-cao-bao-chi-vu-kien-trong-tai-philippines-trung-quoc

 ***

Trung Quốc nhìn nhận vụ kiện ở Biển Đông như thế nào?

17-07-2015

Bài viết của TS. Xue Li, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế, Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới, Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc phân tích lập trường của Trung Quốc đối với vụ kiện và dự đoán cách đối phó của Trung Quốc nếu phán quyết của Tòa trọng tài nghiêng về phía Philippines.

Ngày 7/12/2014, Bộ Ngoại giao Trung Quốc được ủy quyền công bố “Tài liệu Lập trường của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Vấn đề Thẩm quyền trong Vụ kiện Biển Đông do Cộng hoà Philippines khởi xướng”. Truyền thông Trung Quốc và nước ngoài đã đưa ra nhiều lý giải xoay quanh bản văn kiện này, và hiện nay chủ đề này lại đang nóng lên. Tòa Trọng tài Thường trực La Hay đã kết thúc phiên điều trần các tranh tụng của Philippines, nhưng do Trung Quốc từ chối không tham gia vụ kiện, tài liệu lập trường hồi tháng 12 sẽ là văn bản trình bày rõ ràng nhất về quan điểm của Trung Quốc đối với vụ kiện. Nội dung chính và những nét nổi bật của tài liệu này là gì? Tác động của việc công bố tài liệu này ra sao? Và những bước đi tiếp theo của Trung Quốc sẽ như thế nào?

Bối cảnh vụ kiện

Như những gì mà mọi người đang theo dõi vấn đề Biển Đông đã biết, Philippines đã đệ trình bản tranh tụng gồm 10 chương, dài gần 4.000 trang lên Tòa Trọng tài Quốc tế về Luật Biển. Trong bản tranh tụng đó, chương 1 là quan trọng nhất – dài 270 trang bao gồm các phân tích pháp lý và những bằng chứng có liên quan đến vụ kiện, và giải thích cụ thể tại sao tòa trọng tài lại có thẩm quyền chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Philippines. Chương 2 đến chương 10 là các phụ lục, bao gồm các dữ kiện lịch sử, bằng chứng và bản đồ bổ trợ cho lập trường của Philippines.

Theo thủ tục của tòa, Trung Quốc phải nộp bản tranh tụng phản biện vào ngày 15/12/2014. Nhưng vào ngày 31/3/2014, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã tuyên bố rõ ràng rằng Trung Quốc không chấp nhận và sẽ không tham gia vào vụ kiện. Việc công bố bản văn kiện lập trường của Trung Quốc ngay trước hạn nộp bản phản biện vào tháng 12 có hai tác dụng: văn bản này vừa giải thích tại sao tòa không có thẩm quyền đối với vụ kiện vừa nhấn mạnh lập trường của Trung Quốc không tham gia vào vụ kiện. Vậy điều này phải chăng phản ánh một sự chuyển biến trong chính sách Biển Đông của Trung Quốc, từ lập trường mềm mỏng trong “cách tiếp cận kép” cho đến quan điểm rõ ràng được nêu trong tài liệu lập trường? Nếu không phải như vậy, làm thế nào để giải thích mối quan hệ giữa hai hành động này?

Vào tháng 8/2014, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị nêu ra “cách tiếp cận kép”, gửi đến thông điệp rằng Trung Quốc đồng ý xử lý tranh chấp Biển Đông trong khuôn khổ đa phương. Cả khối ASEAN có thể đóng một vai trò thích hợp trong tranh chấp, nhưng Trung Quốc phản đối sự can dự của các nước khác ngoài khu vực; đặc biệt là sự hòa giải có phần thiên vị hơn cho một bên yêu sách. Theo đó, chúng ta có thể thấy rằng, Trung Quốc không còn phản đối bất kỳ mọi hình thức quốc tế hóa, thay vào đó là ủng hộ việc khu vực hóa vấn đề một cách có giới hạn (hay có thể kiểm soát một cách tương đối) để tránh việc toàn cầu hóa không giới hạn (hay không thể kiểm soát).

Vào 13/11/2014 ở Naypyidaw, Thủ tướng Lý Khắc Cường đã có một bài phát biểu về vấn đề Biển Đông, chính thức làm rõ quan điểm của Trung Quốc: áp dụng “cách tiếp cận kép” để giải quyết tranh chấp Biển Đông. Lập trường của Trung Quốc về Bộ Quy tắc Ứng xử cũng thay đổi, từ nhấn mạnh “các kỳ vọng hợp lý” đến bàn bạc về “thúc đẩy nhanh” tiến trình nếu đạt được “một thỏa thuận đồng nhất”. Hai bài phát biểu này đều cho thấy sự linh hoạt về mặt ngoại giao của chính quyền Trung Quốc hiện nay. Lập trường này cũng liên quan đến Sáng kiến “Một vành đai, Một con đường” của Trung Quốc – với mục tiêu là để tháo ngòi tranh chấp Biển Đông, mắt xích yếu nhất trong quan hệ Trung Quốc – ASEAN, hay ít nhất là để ngăn cản tranh chấp không tác động xấu đến làn sóng hợp tác mới giữa Trung Quốc và ASEAN.

Trung Quốc chấp thuận cách tiếp cận “đa phương khi cần thiết” và “khu vực hóa khi thích hợp”, nhưng ngoại giao nước lớn không thể lúc nào cũng mềm mỏng. Ngoại giao nước lớn thường phải kết hợp giữa các chiến thuật mềm mỏng và cứng rắn. Mặt “cứng rắn” của Trung Quốc thể hiện qua các nỗ lực của nước này trong  năm 2014 chủ động kiểm soát và củng cố sự hiện diện ở khu vực. Các hoạt động xây dựng ở Hoàng Sa và Trường Sa và sự kiện giàn khoan HD-981 là những bằng chứng rõ ràng của nỗ lực này. Việc công bố tài liệu lập trường cũng cho thấy thái độ cứng rắn của Trung Quốc. Tài liệu chủ yếu nhằm nêu lên ba điểm điểm: tranh chấp Biển Đông cần được giải quyết thông qua đối thoại chính trị; Trung Quốc không chấp nhận bất kỳ phán quyết nào của tòa trọng tài quốc tế và hành động của Trung Quốc là có cơ sở pháp lý vững chắc.

Những điểm mạnh và điểm yếu của Tài liệu Lập trường

Tháng 12/2014 là thời điểm đầu tiên chính phủ Trung Quốc công bố một bản tài liệu lập trường chi tiết về vấn đề Biển Đông, và một số cơ quan truyền thông coi tài liệu này như là “sách trắng” về Biển Đông của Trung Quốc. Bản lập trường bao gồm 6 phần và 93 điều.

Sau phần giới thiệu, tài liệu đưa ra ba luận điểm ứng với ba mục để chứng minh một cách cụ thể rằng động thái đưa đơn kiện ra tòa trọng tài của Philippines là bất hợp pháp và vô lý, và rằng tòa trọng tài không có thẩm quyền. Xem xét lần lượt từng luận điểm một, Trung Quốc cho rằng vụ kiện không hợp pháp vì đã vi phạm “Tuyên bố Ứng xử các bên ở Biển Đông” (DOC); hơn nữa, cốt lõi của vụ kiện liên quan đến vấn đề chủ quyền đối với một số đảo và đá ở Biển Đông và do đó nằm ngoại phạm vi điều chỉnh của Công ước và không thể áp dụng Công ước để xử lý vụ kiện. Vụ kiện không hợp lý vì đã vi phạm một thỏa thuận song phương giữa Trung Quốc và Philippines không đơn phương kiện đối phương ra tòa trọng tài trong khi vẫn còn những kênh giải quyết tranh chấp hiệu quả khác. Philippines biết rằng Trung Quốc sẽ không chấp nhận phán quyết của một tòa trọng tài quốc tế, nhưng vẫn lựa chọn biện pháp này. Đối với luận điểm cho rằng Tòa không có thẩm quyền, theo quy định của UNCLOS, vào năm 2006, Trung Quốc đã tuyên bố không chấp nhận bất kỳ thủ tục bắt buộc nào của tòa đối với cả việc phân định biên giới biển cũng như giải quyết tranh chấp.

Sau ba mục này, tài liệu đưa ra một mục khác chứng minh việc Trung Quốc có quyền không tham gia vào vụ kiện là hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế. Tài liệu kết thúc với kết luận rằng: tòa trọng tài không có thẩm quyền đối với vụ kiện; cách đúng đắn để giải quyết tranh chấp là thông qua tham vấn và đàm phán; Trung Quốc sẽ không thay đổi quan điểm hay chính sách hiện hành vì vụ kiện.

Một đặc điểm nổi bật của tài liệu lập trường này là, cùng với việc sử dụng các văn bản chính trị và các sự thật lịch sử, nó cũng tham chiếu đến các các án lệ trong luật quốc tế và các công trình nghiên cứu của một vài học giả luật quốc tế. Đây cũng là văn bản chính trị có hàm lượng nghiên cứu cao, được chính phủ Trung Quốc chuẩn bị một cách chu đáo. Các quan điểm của chính phủ trong tài liệu này đã đại diện cho (nhưng không chỉ giới hạn trong) những thành tựu gần đây của các học giả Trung Quốc về chính trị và luật quốc tế.

Tài liệu cũng chỉ ra Trung Quốc đã giải quyết tranh chấp biên giới trên bộ với 12 trong số 14 nước láng giềng, phân định 90% đường biên giới trên bộ của của nước này. Cùng lúc, Trung Quốc đã phân định biên giới trên biển với Việt Nam ở Vịnh Bắc Bộ; ký các hiệp định nghề cá riêng rẽ với Hàn Quốc và Nhật Bản; ký thỏa thuận về hợp tác phát triển dầu khí với Bắc Triều Tiên. Tất cả những kết quả này đều đạt được thông qua đàm phán. Đây là một thông điệp rõ ràng muốn gửi gắm đến Philippines.

Tuy nhiên, tài liệu cũng bộc lộ hai điểm yếu. Đầu tiên, Trung Quốc tin rằng vụ kiện mà Philippines đưa ra thực chất là liên quan đến vấn đề chủ quyền đối với các thực thể ở Biển Đông, và do đó tòa không có thẩm quyền. Nhưng Philippines tin rằng vụ kiện của mình chỉ yêu cầu toà trọng tài phân xử việc liệu Trung Quốc có khẳng định quyền trên biển phù hợp với UNCLOS hay không, một vấn đề mà Tòa hoàn toàn có thẩm quyền. Trước hai lập luận mâu thuẫn này, bên thứ ba có thể kết luận rằng vụ kiện thuộc thẩm quyền của Tòa, trừ phi Trung Quốc đưa ra được các bằng chứng thuyết phục hơn. Quan điểm của Trung Quốc đối với vấn đề cốt lõi của vụ kiện dù sao cũng chỉ là một nhận định chủ quan, do đó hiệu quả về mặt pháp lý khá hạn chế. Hơn nữa, theo thực tiễn luật quốc gia của Trung Quốc, quyền quyết định thẩm quyền thuộc về tòa, và không thuộc về bất kỳ bên nào trong vụ kiện.

Thứ hai, tài liệu lập trường không làm rõ được “đường chín đoạn”. Việc cần làm rõ ý nghĩa của “đường chín đoạn” được hầu như tất cả các quốc gia công nhận ngoại trừ Trung Quốc, và nếu làm được điều này, Trung Quốc có thể tạo ra một ấn tượng tốt đối với tòa trọng tài. Mặc dù Trung Quốc quyết định không tham gia vào vụ kiện, Trung Quốc cũng nên tận dụng thời cơ này để đưa ra các giải thích chính thức về “đường chín đoạn”, qua đó có thể làm dịu đi những nghi ngại từ các nước khác. Đây là một cơ hội tuyệt vời cho Trung Quốc để triển khai chính sách “hữu nghị, thân thiện, cùng có lợi, và rộng mở”  và chính sách “láng giềng tốt” của mình.

Trung Quốc cần một kế hoạch dự phòng

Bằng việc công bố tài liệu lập trường vào tháng 12/2014,Trung Quốc hy vọng có thể đạt được ít nhất hai điều sau: gây ảnh hưởng đến quyết định của tòa trọng tài về vấn đề thẩm quyền và ảnh hưởng đến các hành động tiếp theo của Philippines.

Quan điểm chính thức của một nước – đặc biệt là nước lớn – chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến tòa, dù chỉ về mặt tâm lý. Trên thực tế, phiên tranh tụng nói về vấn đề thẩm quyền diễn ra vào tuần này được tiến hành để đáp lại các lập luận của Trung Quốc trong tài liệu lập trường. Nhưng các thẩm phán của tòa trọng tài bao gồm những chuyên gia pháp lý hàng đầu của các quốc gia, và họ thường được đánh giá cao bởi sự độc lập trong các phán xét của mình. Do vậy, tài liệu lập trường của Trung Quốc không thể tác động mạnh đến phán quyết của các thẩm phán về vấn đề thẩm quyền cũng như phán quyết đối với chính bản thân vụ kiện.

Chính quyền Trung Quốc nhìn nhận vụ kiện là một phần trong tổng thể quan hệ Trung Quốc – Philippines. Quan điểm của Trung Quốc rất rõ ràng: cố gắng giải quyết tranh chấp Biển Đông bằng việc “quốc tế hóa” hoàn toàn không có lợi cho việc giải quyết tranh chấp và chỉ gây tác động xấu đến quan hệ song phương. Vụ kiện sẽ gây hại nhiều hơn lợi cho Philippines. Đối với Trung Quốc, quay trở lại đàm phán hòa bình trong khuôn khổ Trung Quốc – ASEAN là con đường duy nhất để giải quyết tranh chấp theo cách đôi bên cùng thắng. Và giờ, một khi Philipines đã kiện Trung Quốc ra tòa, Philippines cần kết thúc nó. Nhưng điều này khó có thể xảy ra, ít nhất là trước khi nhiệm kỳ của Tổng thống Aquino kết thúc vào năm 2016. Do đó, nhìn theo góc độ này, tác động của tài liệu lập trường của Trung Quốc là khá hạn chế.

Tuần này, tòa trọng tài đã nghe Philippines trình bày về các lập luận đối với vụ kiện, điều này cũng có nghĩa tòa sẽ có quyết định sớm nhất vào khoảng cuối năm 2015. Nếu tòa quyết định không có thẩm quyền hay có phán quyết chống lại Philippines, vụ kiện sẽ chấm dứt tại đó. Đối với Trung Quốc, đây chính là kết quả mà họ mong đợi. Vấn đề là, điều gì sẽ xảy ra nếu phán quyết của Tòa chống lại Trung Quốc? Trung Quốc cần một kế hoạch dự phòng.

Nhiều khả năng tòa sẽ quyết định có thẩm quyền đối với vụ kiện và vụ kiện của Philippines sẽ giành được sự ủng hộ. Trung Quốc nên chuẩn bị trước cho một vài kết quả có thể xảy ra của tòa sau đây:

Thứ nhất, phán quyết cho rằng “đường chín đoạn” không có giá trị pháp lý. Nếu trường hợp này xảy ra, các nước yêu sách ASEAN sẽ từ bỏ sự thận trọng còn lại và tiến hành khoan dầu quy mô lớn bên trong “đường chín đoạn”, có thể kêu gọi hợp tác với nhiều công ty dầu khí quốc tế và do đó sẽ liên quan đến rất nhiều quốc gia. Trong trường hợp đó, Trung Quốc nên làm gì? Từ bỏ hoàn toàn việc hợp tác với các công ty dầu khí quốc tế rõ ràng là không thực tế, nhưng liệu Trung Quốc có thể hạn chế hoạt động của các công ty này bên trong Trung Quốc hay không? Nhiều công ty có hoạt động khai thác khá hạn chế tại Trung Quốc, và do đó biện pháp này sẽ không mang lại hiệu quả.

Thứ hai, tòa trọng tài có thể quyết định rằng quyền của Philippines trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa là phù hợp với UNCLOS. Trong trường hợp đó, Trung Quốc nên điều chỉnh cách làm của mình hiện giờ hay không? Trung Quốc có thể từ chối chấp nhận phán quyết của tòa và vẫn kiên quyết tiếp tục với các hoạt động chấp pháp của mình; không nước nào có khả năng ngăn chặn Trung Quốc. Nhưng nếu xung đột nổ ra giữa Trung Quốc và các nước yêu sách ASEAN (điều mà khó có thể tránh khỏi và có thể xảy ra bất cứ lúc nào), truyền thông phương Tây và các nước ASEAN sẽ buộc tội Trung Quốc là bá quyền, không tôn trọng luật quốc tế và đẩy các nước ASEAN phụ thuộc vào Mỹ để đảm bảo an ninh. Điều này hiển nhiên không hề có lợi cho tầm nhìn của Trung Quốc về an ninh Châu Á và sáng kiến Một vành đai Một con đường.

Thứ ba, tòa trọng tài có thể ra phán quyết rằng một vài hành động của ngư dân Trung Quốc gần bãi cạn Scarborough (Hoàng Nham) và Bãi Second Thomas Shoal (Bãi Cỏ Mây hay Bãi Nhân Ái) – như việc đánh bắt các loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng như loài ngao khổng lồ – đã vi phạm trách nhiệm của Trung Quốc trong các công ước bảo vệ môi trường biển quốc tế. Trong trường hợp này, làm thế nào để Trung Quốc ngăn các hành động của các ngư dân, đặc biệt là khi sự ngăn ngừa này có thể tác động đến kế sinh nhai của hàng trăm ngư dân? Dựa trên ví dụ về thỏa thuận Vịnh Bắc Bộ, Trung Quốc có thể không có lựa chọn nào ngoài việc buộc các ngư dân của mình từ bỏ tàu thuyền và tìm kiếm nghề mới. Trong trường hợp đó, sẽ tốt hơn nếuTrung Quốc đưa ra sáng kiến và bắt đầu từ bây giờ, hơn là chờ đợi cho đến khi Trung Quốc buộc phải hành động theo phán quyết không có lợi cho nước mình.

Xue Li là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế, Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới, Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc. Bài viết được đăng lần đầu tiên trên trang The Diplomat.

Người dịch: Thùy Anh

Hiệu đính: Minh Ngọc

Nguồn: http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-nuoc-ngoai/5122-trung-quoc-nhin-nhan-vu-kien-o-bien-dong-nhu-the-nao

 

This entry was posted in Biển Đông, Quốc Tế. Bookmark the permalink.