Về bài báo của Giáo sư Lê Xuân Tùng

Báo Dân Trí đã đăng bài viết “Phải chăng kinh tế tư nhân là nền tảng của nền kinh tế quốc dân” của tác giả Lê Xuân Tùng (LXT) tại trang điện tử:

http://dantri.com.vn/xa-hoi/phai-chang-kinh-te-tu-nhan-la-nen-tang-cua-nen-kinh-te-quoc-dan-1079701.htm. Nội dung và tư tưởng chủ đạo trong bài viết của giáo sư LXT là phủ nhận vai trò chủ đạo của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế quốc dân của Việt Nam (VN) cả về lý luận cũng như thực tiễn.

Trước hết, vì nội dung và tư tưởng của bài viết đang mâu thuẫn với một chủ trương đúng đắn và hết sức sáng suốt của Nhà nước VN (đảng, chính phủ, quốc hội VN) về đẩy mạnh “cổ phần hóa” các doanh nghiệp nhà nước, “xã hội hóa” các dịch vụ công. Nghiêm trọng hơn nữa, tác giả của bài viết đã từng là một “VIP” cộng sản. Bài viết được đăng trên báo “lề phải” vào thời điểm Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đang chuẩn bị tiến hành Đại hội đảng toàn quốc lần thứ XII. Những điều đó có thể làm cho người đọc nhầm tưởng bài báo của giáo sư LXT thể hiện quan điểm chính thống của ĐCSVN.

Vì vậy, với tư cách là một đảng viên ĐCSVN (33 năm tuổi đảng), một cán bộ làm việc trong “kinh tế nhà nước” 37 năm, tôi xin trình bày một số ý kiến phản biện về những quan điểm và nhận thức lệch lạc trong bài báo của giáo sư LXT như sau:

Về mặt thực tiễn (lý luận được rút ra từ thực tiễn):

Vai trò của kinh tế tư nhân trên thế giới: Trong lịch sử của nhân loại, có rất nhiều ví dụ về việc kinh tế tư nhân đã thể hiện vai trò mà kinh tế nhà nước không thể hiện được. Trong lĩnh vực văn hóa và giáo dục (ngày nay chúng ta ghép vào “dịch vụ công”), nếu không có kinh tế tư nhân, nhân loại không thể có được những viện bảo tàng nổi tiếng (ở Nga, Pháp, Anh, Đức), không có được các trường đại học tuyệt vời (ở Mỹ, Anh, Singapore) như ngày nay. Trong khoa học, các giải thưởng Nobel, các phát minh khoa học đóng vai trò quyết định sự phát triển nền văn minh của nhân loại cũng có được là do các hoạt động của kinh tế tư nhân mang lại. Trong kinh tế, những sản phẩm của các hãng Microsoft, Google, Yahoo, IBM, Ford, GE, Rolls Royce, Toyota, Sony, Nokia, Samsung v.v… rất có hiệu quả, và không thể thay thế trong nền kinh tế-xã hội toàn cầu, không thể có được nếu các hãng này không phải là doanh nghiệp tư nhân.

Ở các nước TBCN, các doanh nghiệp nhà nước và lĩnh vực kinh tế nhà nước cũng không đóng vai trò quan trọng như những doanh nghiệp tư nhân và lĩnh vực kinh tế tư nhân. Trong lĩnh vực tài chính của thế giới, các định chế tài chính lớn như Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Châu Á, Quĩ tiền tệ quốc tế, hay kể cả Cục dự trữ Liên bang Mỹ cũng được thành lập và hoạt động chủ yếu dựa vào “kinh tế tư nhân”. Ở các nước có nền kinh tế càng phát triển, lĩnh vực kinh tế tư nhân càng có vai trò chủ đạo và có xu hướng dần dần thay thế kinh tế nhà nước (kể cả trong lĩnh quốc phòng, hay trinh phục vũ trụ). Mỹ là nước có tiềm lực quốc phòng mạnh nhất thế giới, nhưng tiềm lực này cũng dựa chủ yếu vào các doanh nghiệp tư nhân và kinh tế tư nhân. Trong nền kinh tế tư nhân hàng đầu thế giới này, chỉ riêng các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng đến 90% và luôn luôn đóng vai trò chủ đạo trong kinh tế thị trường.

Ở các nước XHCN cũ: Phương thức sản xuất trước đây dựa chủ yếu vào doanh nghiệp nhà nước và kinh tế nhà nước đã phải nhường chỗ cho phương thức sản xuất dựa chủ yếu vào doanh nghiệp tư nhân và kinh tế tư nhân. Nước Nga, sau khi Liên Xô tan rã, đã không thể tồn tại được nếu như không có cuộc cách mạng “tư nhân hóa” do B. Enxin khởi xướng từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước.

Trong bài viết của mình, giáo sư LXT đã đưa ra nhận xét phiến diện về công cuộc đổi mới nền kinh tế và cải cách thể chế chính trị (mà nòng cốt của chúng là giải thể mô hình XHCN và tư nhân hóa nền kinh tế) đã được diễn ra thành công trên quê hương của Cách mạng Tháng Mười vĩ đại. Người dân Nga, kể cả những người cộng sản, đều thừa nhận vai trò to lớn của kinh tế tư nhân và những đóng góp quan trọng của những người từng là VIP cộng sản như M. Gorbatrốp, B. Enxin, V. Putin vào việc đoạn tuyệt dứt khoát với đường lối XHCN và CSCN để cứu nước Nga sau gần ¾ thế kỷ tồn tại và phát triển theo những định hướng sai lầm. Nếu không có sự chuyển đổi mạnh từ kinh tế nhà nước sang kinh tế tư nhân, các nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa xô viết cũ cũng không thể phát triển và tồn tại được như ngày nay. Trên thế giới, những nước có nền kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo chỉ đếm trên đầu ngón tay và rất dễ nhận biết như Trung Quốc, Triều Tiên, Cu Ba, v.v.

Giáo sư LXT viết: “Quá trình tư nhân hóa điển hình diễn ra ở nước Nga … những kẻ tài phiệt.

Trong đoạn văn trên, tác giả đưa ra những nhận định chủ quan và phiến diện. Việc tư nhân hóa ở nước Nga hoàn toàn không phải là “điển hình”, chỉ mang tính rất riêng biệt và có phần độc đáo. Nội dung câu này cho thấy tác giả chỉ nhận thấy cái “đuôi” của con voi “quá trình tư nhân hóa” ở nước Nga. Nên nhớ rằng, trên thực tế, người Nga coi cuộc cách mạng “tư nhân hóa” của B. Enxin giống như “cách mạng tháng Mười” của V.Lênin (chúng tôi xin phép bàn riêng về đề tài này).

Vai trò của kinh tế tư nhân ở VN: Trong một thời gian dài, ở VN, khi gianh giới giữa lập pháp, hành pháp, và tư pháp còn chưa rõ nét như ngày nay, trong lĩnh vực kinh tế, nhà nước đã thực hiện chức năng quản lý kinh doanh là chủ yếu. Vì vậy, kinh tế tư nhân gần như bị coi nhẹ và vai trò quan trọng của nó không được nhận ra cho đến khi nhà nước (mà cụ thể là Chủ tịch Hồ Chí Minh) cho thực hiện chính sách “ruộng 5%”- tức thực hiện kinh tế tư nhân trong nông nghiệp. Và ngay từ khi đó, mọi người đều thừa nhận trong nông nghiệp, 5% đã quan trọng (có vai trò chủ đạo) hơn 95%.

Các doanh nghiệp nhà nước lớn của VN- những quả đấm “thép” của nền kinh tế nhà nước, từ các tập đoàn Dầu khí, Viễn thông, Điện lực … đến các tổng công ty lớn như Hàng không, Thép, Xi măng, Hóa chất … trong thời gian qua chắc chắn đã không thể phát triển được, thậm chí còn bị xóa sổ nếu không dựa vào sự hợp tác (mua bán, trao đổi) với các doanh nghiệp tư nhân nước ngoài. Nền kinh tế của VN phát triển được như ngày nay chủ yếu dựa vào đầu tư nước ngoài. Đầu tư nước ngoài chính là lĩnh vực kinh tế tư nhân.

Những công trình kinh tế quan trọng ở VN (chủ yếu thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng) được xây dựng bằng nguồn vốn ODA và vốn vay của nước ngoài đang đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của VN. Nên nhớ rằng, các nguồn vốn đó (mà các chính phủ nước ngoài có được để cho vay) hoàn toàn do kinh tế tư nhân nước ngoài nộp thuế tạo ra. Hiện nay, nếu không tính hai lĩnh vực nông nghiệp và đầu tư nước ngoài (là kinh tế tư nhân gần như 100%), phần còn lại là doanh nghiệp nhà nước không thể đóng vai trò chủ đạo, kể cả về giá trị thặng dư mà nó mang lại, kể cả về lực lượng lao động mà nó nuôi sống.

Nếu không có kinh tế tư nhân, chỉ dựa vào kinh tế nhà nước, liệu hai trung tâm kinh tế lớn là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, có phát triển được như hiện nay? Việc giao lưu giữa hai bờ sông Hồng (qua cầu Thành trì, Vĩnh Tuy, Nhật Tân), sông Sài Gòn (Cầu Sài Gòn 2, hầm Thủ Thiêm) có được như biện nay cũng dựa vào kinh tế tư nhân. Các công trình cầu, đường, sân bay, cảng biển khác trong cả nước cũng được xây dựng bằng nguồn vốn vay của kinh tế tư nhân nước ngoài là chủ yếu. Các phương tiện vận tải khách và hàng hóa nội địa chủ yếu cũng của kinh tế tư nhân trong nước. “Tam giác kinh tế” Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh nếu chỉ dựa vào các đại gia “Đường sắt Việt Nam” hay “Đường bộ Việt Nam”, không có sự tham gia của lực lượng vận tải hành khách và vận tải hàng hóa của tư nhân, chắc chắn đã chết yểu từ lâu.

Trước đây, nếu không có các tư nhân và kinh tế tư nhân, trong lĩnh vực văn hóa giáo dục VN không thể có được ngôn ngữ tiếng Việt với 24 chữ cái tuyệt vời như hiện nay, nhà hát Lớn, các nhà thương Bạch Mai, Phủ Doãn, Xanh Pôn, các trường Bưởi, quốc học Huế. Trong lĩnh vực kinh tế, nếu không có kinh tế tư nhân, VN không thể có được nhà đèn Yên Phụ, khu mỏ Hòn Gai, cảng Hải Phòng, sân bay Bạch Mai, nhà ga Hàng Cỏ v.v. Tất cả những công trình đó (là thành quả của kinh tế tư nhân), đã từng làm tiền đề cho sự nghiệp xây dựng kinh tế-xã hội và hình thành kinh tế nhà nước ở VN.

Ngày nay, nếu không có kinh tế tư nhân, VN không thể trở thành nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. Trong quá khứ, chúng ta đã xây dựng hàng trăm nông trường, lâm trường quốc doanh (kinh tế nhà nước) nhưng lương thực, thực phẩm phải bán theo tem phiếu, phải nhập tới 2 triệu tấn gạo/năm để nuôi 31 triệu người.

Nếu chỉ dựa vào kinh tế nhà nước, đời sống văn hóa của chúng ta sẽ đi đến đâu?. Ở thủ đô Hà Nội, chưa có công trình văn hóa nào của kinh tế nhà nước “qua mặt” được Nhà hát Lớn. Rạp xiếc Trung ương (kinh tế nhà nước) phải cho tư nhân thuê để kinh doanh bia, nhà hát Kim Mã phải đóng cửa, công viên Thống Nhất đang bị “kinh tế nhà nước” xẻ thịt bán đất để tồn tại v.v. Trong khi đó, các tầng hầm ở Royal City lúc nào cũng đông nghẹt người đến vui chơi, mua sắm. Trong khi, bị kinh tế nhà nước chiếm hết chỗ dành cho vui chơi, thể dục, thể thao và hóng mát, người già, con trẻ ở thủ đô Hà Nội phải đến các tòa nhà của kinh tế tư nhân trả tiền để tắm mát, bơi lội, trượt băng, chốn tránh những ngày hè nóng bức.

Nếu không có lĩnh vực kinh tế tư nhân chúng ta đã không giải quyết được vấn đề nhà ở (từ nông thôn đến thành thị) như hiện nay, không thể có được những khu đô thị mới bên bờ sông Hồng Hà Nội như Ecopark và giữa Sài Gòn như Phú Mỹ Hưng. Khi kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, chung cư cao nhất Hà Nội chỉ xây được có 6 tầng. Ngày nay, các tòa nhà của kinh tế tư nhân Mường Thanh, Vincom, Hoàng Anh Gia Lai, Bitexco v.v. thấp nhất cũng trên 20 tầng, được xây ở khắp mọi nơi. Nếu không có kinh tế tư nhân, khách sạn Thắng Lợi bên Hồ Tây liệu có đủ chỗ để chúng ta đón các các đoàn khách nước ngoài đến dự IPO, nhà khách Chính phủ bên Hồ Hoàn Kiếm liệu có đủ điều kiện để đón các nguyên thủ quốc gia đến dự các hội nghị của APEC, ASEAN v.v.

Nếu chỉ có kinh tế nhà nước, nền kinh tế quốc dân của VN đang dựa vào ai? và dựa như thế nào?. Hiện tượng Vinashin, như đã được giáo sư LXT đề cập hời hợt trong bài báo, nói lên điều gì?. Nếu đi sâu phân tích đến cùng (cả về lý luận lẫn thực tiễn) vụ việc Vinashin chắc chắn chúng ta sẽ có câu trả lời cho câu hỏi nên gán “vai trò chủ đạo” cho lĩnh vực kinh tế nào?. Không chỉ có Vinashin. Sau gần 20 năm hình thành và phát triển, các doanh nghiệp nhà nước lớn (tập đoàn và tổng công ty)- những “quả đấm thép” của kinh tế nhà nước đến nay ra sao?. Vinaline cũng giống như Vinashin. Các Vina cà phê và Vina gạo tồn tại trên lưng của kinh tế tư nhân. Tập đoàn Điện lực tồn tại được nhờ tăng giá điện liên tục, mọi yếu kém, thua lỗ đổ hết lên đầu người dùng điện. Các tập đoàn Dầu khí, Than-khoáng sản chỉ tồn tại được nhờ nguồn tài nguyên khoáng sản có sẵn trong nước. Các dự án đầu tư ra nước ngoài của hai “đại gia” này chỉ thấy tiền có “đi” mà không có “về”. Các tổng công ty nhà nước trong lĩnh vực sản xuất xi măng, sắt thép, phân bón, hóa chất liên tục sản xuất ra các sản phẩm có giá thành cao hơn so với giá nhập khẩu từ các nhà máy của tư nhân nước ngoài. Nhà máy pin Văn Điển của kinh tế nhà nước, đã sang thế kỷ XXI rồi vẫn chưa chế tạo nổi một cục pin kiềm chỉ nhỏ bằng cái đầu đũa, vẫn tiếp tục tung ra thị trường sản phẩm pin kẽm “con thỏ” lạc hậu hàng trăm năm. Trong khi các nhà máy cơ khí chế tạo của kinh tế nhà nước “một thời vang bóng” (cơ khí Trần Hưng Đạo, cơ điện Hà Nội, cơ khí Chính xác, công cụ Số 1, cơ khí Trung qui mô v.v.) phải bán đất cho kinh tế tư nhân để xây bất động sản (Vincom, Melia, Royal City), thì cơ khí Quang Trung của kinh tế tư nhân đã đóng vai trò quan trọng và quyết định trong việc sớm đưa công trình thủy điện Sơn La vào vận hành vượt tiến độ, góp phần làm lợi hàng chục ngàn tỷ đồng. Cơ khí ô tô của kinh tế nhà nước (cơ khí Giao thông vận tải) chỉ đóng được vài chục thùng xe tải, rồi cũng phải bán đất cho dự án nhà ở (Nam Đô). Trong khi người VN vẫn phải mua ô tô giá cao (gấp 2-3 lần so với các nước), cơ khí ô tô của kinh tế tư nhân (Vinaxuki, Toyota, Honda, Hyundai, Ford v.v.) đã vận dụng chính sách thuế của nhà nước để thu lợi hàng tỷ đô la mỗi năm.

Nói tóm lại, thực tế cho thấy, nền kinh tế quốc dân ở VN không thể phát triển được như ngày nay nếu không có kinh tế tư nhân.

Về mặt lý luận

Nhà nước, theo nghĩa triết học và chính trị – kinh tế học, có vai trò quản lý, không có vai trò kinh doanh. Ngay trong nghĩa hẹp của ‘quản lý’, nhà nước cũng thực hiện chức năng quản lý nhà nước, không thực hiện chức năng quản lý kinh doanh. ‘Doanh nghiệp nhà nước’ chỉ làm ‘kinh tế nhà nước’, nhưng, ‘doanh nghiệp tư nhân’ có thể vừa làm ‘kinh tế tư nhân’, vừa làm “kinh tế nhà nước”.

Chúng ta không phủ nhận vai trò của kinh tế nhà nước, nhưng vai trò chủ đạo đó (nếu có) không thể “bất di, bất dịch”. Trong các giai đoạn phát triển của nền kinh tế VN, kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân đã thay nhau đóng vai trò chủ đạo. Nếu như điều gì đó có thể coi như “chân lý bất di bất dịch của mọi thời đại”, đó chính là điều đã được C. Mác và V. Lênin tiên đoán: nhà nước sẽ dần dần phải giảm nhẹ đi vai trò của nó và cuối cùng phải biến mất trong phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Có thể hiểu, kinh tế nhà nước, cuối cùng cũng phải nhường chỗ cho kinh tế phi nhà nước (kinh tế tư nhân) để chịu sự chi phối của “bàn tay vô hình” (như Adam Shmit- người được C. Mác coi là thày, đã đề cập từ trước khi xuất hiện phương thức sản xuất XHCN). Cố tình nhấn mạnh vai trò của kinh tế nhà nước là chúng ta vô tình phủ nhận chân lý của C.Mác và V.Lênin.

Như C.Mác đã dạy: phương thức sản xuất này chỉ thắng phương thức sản xuất khác bằng năng suất lao động cao hơn. Ở VN hiện nay, rõ ràng năng suất lao động (hay hiệu quả) của các doanh nghiệp tư nhân và trong lĩnh vực kinh tế tư nhân cao hơn nhiều so với doanh nghiệp nhà nước và trong lĩnh vực kinh tế nhà nước.

Xưa kia, để xây dựng nền kinh tế ở Nga theo phương thức XHCN, chính V. Lênin đã từng mong muốn có được một nền giáo dục của Mỹ, một nền công nghiệp của Anh, của Đức- những nơi V. Lênin thừa hiểu đều do kinh tế tư nhân đóng vai trò chủ đạo.

Sự phủ nhận vai trò chủ đạo của kinh tế tư nhân trong bài viết của giáo sư LXT thật khó hiểu xét cả về lý luận và thực tiễn. Câu hỏi cần được đặt ra và thảo luận hoàn toàn ngược lại: tại sao cứ phải ghép cho các doanh nghiệp nhà nước “vai trò chủ đạo”- cái mà chúng không thể có về mặt lý thuyết và thực tế. Liệu câu trả lời ở đây có phải là “lợi ích nhóm”? hay “nhóm lợi ích”?.

Giáo sư LXT viết: “Điều nói trên chứng minh tính đúng đắn trong luận điểm của C. Mác rằng, không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển vẫn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chin muồi trong lòng bản thân xã hội cũ”.

Về lý luận, viết như trên người đọc có thể hiểu sai là, hình thái xã hội chỉ diệt vong khi tất cả những lực lượng sản xuất phát triển. Hình thái xã hội được xác định bằng “lực lượng sản xuất” và “quan hệ sản xuất”. Theo phép biện chứng của C. Mác, khi lực lượng sản xuất (đã phát triển) mâu thuẫn với quan hệ sản xuất (còn lạc hậu) sẽ dẫn đến sự thay đổi của phương thức sản xuất, và kéo theo sự thay đổi (phát triển ở mức cao hơn) của hình thái xã hội (cách mạng về quan hệ sản xuất).

Giáo sư LXT viết: “… gán cho kinh tế tư nhân vai trò mà nó không thể làm được xét cả về lý luận và thực tiễn.

Trong câu văn trên, tác giả đã đưa ra một “lý luận” bất chấp mọi “thực tiễn”. Về lý thuyết, kinh tế tư nhân (nói chung), cũng như kinh tế nhà nước (không phải của VN), có thể làm được mọi thứ (từ đào kênh xuyên lục địa nối hai đại dương đến chế tạo máy bay hay phóng tầu vũ trụ). Thực tiễn ở VN, cũng như ở các nước, đã chứng minh kinh tế tư nhân có hiệu quả hơn kinh tế nhà nước (nông nghiệp ở VN chỉ là một ví dụ). Sau khi Hiến pháp mới được ban hành, vấn đề nguyên tắc không phải là “gán” hay không “gán”, “cho” hay không “cho” kinh tế tư nhân một vai trò nào đó. Theo Hiến pháp, chúng ta phải chấp nhận và khuyến khích quyền tự do chính đáng của con người, trong đó có quyền tự do kinh doanh và làm giầu chân chính của mỗi cá thể (kinh tế tư nhân). Đường lối của ĐCSVN liên quan đến vấn đề này là nhất quán và đúng đắn. Chúng ta không nên đặt lại vấn đề theo kiểu “cả vú lấp miệng em” như trong bài báo của giáo sư LXT.

Giáo sư LXT viết: “… con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước … là “đối tác công tư”, “công – tư kết hợp”.

Sau khi “Chính sách kinh tế cộng sản thời chiến” thất bại và nền kinh tế Nga lâm vào bế tắc, V. Lênin đã tự ý sáng tác ra “Chủ nghĩa tư bản nhà nước” (C. Mác và Ph. Anghen chưa bao giờ đề cập đến vấn đề nhạy cảm này) để bào chữa cho việc thực hiện “Chính sách kinh tế mới” theo con đường phát triển kinh tế hàng hóa, nhà nước chấp nhận các mối quan hệ của thị trường, cho phép tự do buôn bán. Thực chất quan điểm “chủ nghĩa tư bản nhà nước” của V. Lênin là phát triển nền kinh tế Nga theo định hướng TBCN. Tuy nhiên, với nguồn gốc Do Thái của mình, V. Lênin đã lợi dụng ý tưởng “con ngựa TBCN” của Ph. Anghen để sáng tác ra các lập luận như “bác những chiếc cầu nhỏ xuyên qua CNTB”, “lợi dụng CNTB”, “đi xuyên qua CNTB”, v.v. Thực tế, sau khi chính sách “Kinh tế cộng sản thời chiến” thất bại, từ tịch thu sản phẩm, quốc hữu hóa các doanh nghiệp, chuyển sang thu thuế của nông dân và hợp tác với tư sản, V. Lênin đã nhận ra tính tất yếu của phương thức sản xuất TBCN. Cuộc đấu tranh gay gắt trong nội bộ ĐCS Bôn sơ vích Nga lúc bấy giờ đã làm cho ngòi bút của V. Lênin uyển chuyển hơn khi viết ra các lập luận mơ hồ về “thời kỳ quá độ” hay “chủ nghĩa tư bản nhà nước”. Như chúng ta đã biết, “thời kỳ quá độ” ở Liên Xô cũ đã kéo dài 73 năm, nhưng, về mặt xã hội, một vấn đề “dân tộc” cũng không được giải quyết xong. Về mặt kinh tế, qua 28 kỳ đại hội, 8 chức tổng bí thư, với mấy chục triệu đảng viên và hàng trăm triệu dân của Liên Xô cũ, trong suốt gần ¾ thế kỷ vẫn chưa xây xong “chiếc cầu bắc qua TBCN”. Đặc biệt, trong “Chính sách kinh tế mới”, tất cả những khuyết tật, tệ nạn, yếu kém của CNXH như: giảm sút lòng tin của nông dân vào chính quyền xô viết, tệ quan liêu, đầu cơ, sự yếu kém trong quản lý, xã hội không ổn định, tình trạng khốn cùng của người lao động, tình trạng không có đường xá, nông nghiệp suy yếu, công nghiệp khai khoáng không phát triển được, thiếu sự liên kết giữa nông nghiệp và công nghiệp, không có công nghệ, không biết cách tổ chức và quản lý nền sản xuất lớn v.v. đều được V. Lênin hy vọng giải quyết thông qua con đường phát triển TBCN (chủ nghĩa tư bản nhà nước). Trong bài viết của mình, giáo sư LXT mới chỉ nhìn thấy bề ngoài của “con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước” của V. Lênin. Rất may, giáo sư LXT chưa phản đối việc thực hiện chính sách “xã hội hóa”, “đối tác công tư”, hay “công tư kết hợp” của nhà nước VN.

Giáo sư LXT viết: “Đừng bao giờ gán cho kinh tế tư nhân vai trò và nhiệm vụ mà nó không thể có và không thể nào thực hiện được”. Đây là một câu kết luận vội vã và vô trách nhiệm. Xét về mặt logic, không “gán” thì làm sao “có” được. Chưa “gán” sao đã khẳng định “không thể nào thực hiện được”. Xét về nội dung, ở phần trên của bài viết, chính tác giả đã thừa nhận, bằng các chính sách giao ruộng 5%, khoán “10”, chỉ thị “100”, ĐCS và nhà nước VN đã coi kinh tế tư nhân như một sách lược để cứu nền kinh tế.

Về cách trình bầy

Dân trí ở Việt Nam đã phát triển. Để người đọc có thể chấp nhận được, mọi lý luận và lập luận (quan trí) phải được trình bày khoa học, trước hết, nói và viết phải đúng ngữ pháp.

Giáo sư LXT viết: “Còn nhớ những năm 1958-1960, thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở miền Bắc chúng ta đã lên án tư hữu, coi nó là biểu hiện của phương thức sản xuất lạc hậu, không tương thích với chủ nghĩa xã hội (CNXH).

Cách dùng từ “cải tạo xã hội chủ nghĩa” ở đây không đúng. Những năm 1958-1960, ở miền Bắc chưa có chế độ xã hội chủ nghĩa để làm đối tượng cho việc cải tạo. Chỉ có thể nói “cải tạo xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (hay chưa đúng, nhưng còn có thể chấp nhận được là “cải tạo xã hội xã hội chủ nghĩa”).

Giáo sư LXT viết: “Vì vậy, đã phát động phong trào đưa nông dân ồ ạt vào hợp tác xã từ bậc thấp đến bậc cao”. Câu văn này được giáo sư viết sai chính tả, không có chủ ngữ, không đúng cách đặt câu trong ngữ pháp tiếng Việt.

Giáo sư LXT viết: “Lối làm ăn tập thể kiểu cũ kéo dài về cơ bản cho đến những năm 80 của thế kỷ trước”. Trong câu văn này, tác giả đã tùy tiện dùng các khái niệm không chính thống “lối làm ăn tập thể kiểu cũ”. Viết như vậy, người đọc có thể đặt câu hỏi “lối làm ăn tập thể kiểu mới” sau những năm 80 là gì?.

Giáo sư LXT viết: “Và câu nói nổi tiếng của Ph. Ăng-ghen: Bắt con ngựa TBCN cầy trên mảnh đất của CNXH.

Câu trên không đúng hành văn (thừa chữ “và”), không đúng ngữ pháp, sau hai chấm (:) không mở đóng ngoặc kép (“”) nhưng lại viết hoa. Tác giả đã lẫn lộn khái niệm cơ bản (nếu “con ngựa” có tính từ là “TBCN” thì “mảnh đất” không thể đi với bổ từ là “CNXH”, mà phải là “XHCN”). Nên nhớ rằng “CNXH” và “XHCN” là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau trong lý luận chính trị.

Giáo sư LXT viết: “Việc xa rời những chỉ dẫn quan trọng trong xây dựng CNXH đã dẫn đến căn bệnh “ấu trĩ tả khuynh” mà V.I. Lê-nin đã từng căn dặn …”.

Trong ngữ cảnh của câu trên, sau động từ “xây dựng” không thể có bổ ngữ là “CNXH”, mà phải là “xã hội XHCN”. “Việc xa rời những chỉ dẫn” có thể được gán cho căn bệnh “quan liêu”, chứ không phải là căn bệnh “ấu trĩ tả khuynh”. Khái niệm “căn bệnh ấu trĩ tả khuynh” của người cộng sản được V. Lênin đưa ra để chỉ những việc làm dốt nát của người cộng sản “coi trời bằng vung” (giống như việc cải cách ruộng đất hay cải tạo công thương nghiệp ở VN trước đây).

Giáo sư LXT viết: “Còn nhớ hồi đầu năm 1987, ngay sau Đại hội VI, tháng 12-1986, đồng chí  Tổng Bí thư …”. Câu văn này được viết rất tùy tiện, coi thường người đọc. “Tháng 12-1986” chưa phải là “đầu năm 1987”.

Giáo sư LXT viết: “Có nhà kinh tế nước ngoài đã đúc kết bằng một mệnh đề “sở hữu công nhưng quản lý tư”. Hàm ý là tư nhân quản lý chặt đồng tiền của mình bỏ ra”.

Nếu đúng có “nhà kinh tế nước ngoài” (hoàn toàn mơ hồ) đưa ra một “mệnh đề” như vậy, thì “hàm ý” của “sở hữu công nhưng quản lý tư” không phải là “tư nhân quản lý chặt đồng tiền của mình bỏ ra”. Giải nghĩa một “mệnh đề” như vậy, hoặc là coi thường người đọc, hoặc là không hiểu “nhà kinh tế nước ngoài” kia nói gì.

Giáo sư LXT viết: “Tất cả các chức vụ quan trọng phải bằng lựa chọn thi tuyển công khai, minh bạch”. Câu này được viết không đúng ngữ pháp. Nội dung có thể được đoán ra, nhưng hành văn không thể là của một giáo sư.

Giáo sư LXT viết: “Không thể thượng tầng kiến trúc của chúng ta vận hành theo định hướng XHCN mà hạ tầng cơ sở dựa trên sở hữu tư nhân”.

Trong câu văn trên, tác giả đã đưa ra một sự so sánh hoàn toàn vô trách nhiệm và thiếu hiểu biết. Chỉ có thể so sánh “định hướng XHCN” với “định hướng TBCN”, hoặc so sánh “sở hữu tư nhân” với “sở hữu toàn dân”. Không thể so sánh trình độ của ông giáo sư này với cái ghế của ông giáo sư kia.

Giáo sư LXT viết: “Hạ tầng cơ sở của mỗi thời đại lấy quan hệ sản xuất đặc chưng, tiêu biểu của thời đại đó làm nền tảng”.

Trước hết, câu văn trên tối nghĩa do dùng từ sai. “Hạ tầng cơ sở” lại còn có “nền tảng”. Nghĩa của câu trên cần được diễn đạt: “Mỗi thời đại lấy quan hệ sản xuất đặc chưng, tiêu biểu của thời đại đó làm nền tảng”. Không thể coi một vấn đề được diễn đạt sai cả ngữ pháp là “chân lý của mọi thời đại”. Lý luận như vậy là “ngọa ngôn”.

Giáo sư LXT viết: “Tầm vóc của nó thật là vĩ đại, vì …”. Đây là câu văn nói. Viết theo kiểu “tự sướng” như vậy, người đọc không hiểu “tầm vóc” của cái gì vĩ đại?.

Giáo sư LXT viết: “V.I.Lê-ninrằng: “danh từ nước Cộng hòa xô-viết xã hội chủ nghĩa … là chế độ xã hội chủ nghĩa”.

Câu trên vừa sai chính tả, vừa sai ngữ pháp. “Vấn đề này” là vấn đề nào?. Sau hai chấm, mở ngoặc kép lại không viết hoa. Tiếng Nga có cấu trúc ngữ pháp rất chặt trẽ. Vì vậy, người viết phải xem lại ngữ cảnh câu nói này của V. Lênin. Một câu viết vô trách nhiệm như thế này không thể dịch ngược sang tiếng Nga (tiếng nói của V. Lênin). Trong tiếng Nga, nếu dịch ra tiếng Việt chỉ có “Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết”, chứ không có “nước Cộng hòa xô-viết xã hội chủ nghĩa”.

Giáo sư LXT viết: “Những vấn đề nói trên mang tính quy luật đối với các nước tiền TBCN hoặc những nước TBCN kém phát triển tiến lên CNXH.

Người đọc không tin câu văn trên là của một giáo sư chính trị. Nếu đã dùng “TBCN” thì phải dùng “XHCN” chứ không thể dùng “CNXH”. Tác giả vẫn không phân biệt được “Xã hội chủ nghĩa” với “Chủ nghĩa xã hội”.

Tóm lại:

Không công nhận vai trò chủ đạo của kinh tế tư nhân là phủ nhận lịch sử, quay lưng lại với thực tế, và không nhìn thấy tương lai của nền kinh tế toàn cầu cũng như của nền kinh tế VN.

Bài viết của giáo sư LXT đề cập đến những vấn đề lý luận chính trị mang tính nguyên tắc, nhưng, bằng những lập luận phiến diện, và bằng các hành văn không chuẩn, thậm chí sai chính tả và không đúng ngữ pháp. Nội dung bài viết xa rời thực tế, thiếu cơ sở lý luận, phản ánh những tư duy bảo thủ của một số người cố tình cổ xúy cho cả dân tộc đi ngược với xu thế chung của thời đại.

Những luận điểm được nêu trong bài viết của giáo sư LXT cho thấy, người viết hiểu về chủ nghĩa Mác-Lênin, nhận thức về xu thế chung của thời đại, và đánh giá thực tế ở VN còn phiến diện, theo kiểu “ếch ngồi đáy giếng”.

Ngoài ra, từ hành văn, cách dùng từ, cách lập luận, đến các trích dẫn kinh điển trong bài báo cho thấy, giáo sư LXT đã đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng liên quan đến vai trò của kinh tế tư nhân ở Việt Nam. Nhưng rất tiếc, nội dung của bài báo còn thiếu tính thuyết phục, cần được trao đổi rộng rãi và khách quan./.

N.T.S.

Tác giả gửi BVN

Phòng A120, nhà 2F, phố Quang Trung, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

nguyenthanhsontkv@yahoo.com

0903412138.

This entry was posted in báo chí. Bookmark the permalink.