Buồn giận vui khi đọc bài của Gs nguyên Uỷ viên Bộ chính trị Lê Xuân Tùng

Tôi không tin Gs Lê Xuân Tùng nguyên Ủy viên Bộ Chính trị và “ê kíp” của ông sai lầm một cách chân thành. Họ không thể không biết điều sơ đẳng: “Thực tiễn là thước đo duy nhất đúng của chân lý “.

Chỉ cần nhìn vào thực tế trên thế giới mấy chục năm qua thì sẽ thấy vì sao Tây Đức hơn Đông Đức, Đài Loan hơn Đại lục, Hàn Quốc hơn Bắc Triều Tiên…, vì sao Thành trì của CNXH là Liên Xô lại sụp đổ cái rụp như thể đó là một ngôi nhà xây trên cát! Vì sao Việt nam tụt hậu thê thảm so với các nước. Nhân tiện, tôi xin “biếu” họ câu nói chí lý của “ông tổ” “Lê” Tiên sinh :

 ” Đào xuống, lật lên, xới ra những lớp ngôn từ lý luận có vẻ như cao siêu, ta sẽ thấy đằng sau chúng  hiện ra cái lõi trần trụi – đó là QUYỀN và LỢI !”.

Có người hỏi cảm giác của tôi khi đọc bài “Phải chăng kinh tế tư nhân là nền tảng của nền kinh tế quốc dân?” của GS nguyên Ủy viên Bộ chính trị Lê Xuân Tùng (dưới đây xin viết tắt: “GS. LXT’) đã đăng trên tờ Dân trí gần đây? Tôi đã trả lời hết sức nhanh rằng “tôi buồn, giận, vui khi đọc bài báo này”.

Theo như lời phi lộ của tờ Dân trí thì đây là bài báo cực kỳ quan trọng không phải chỉ vì trình độ và vị thế chính trị của tác giả, mà còn phản bác “những quan điểm xa lạ” để bảo vệ “quan điểm chính thống của Đảng và Nhà nước ta”, nhất là về vấn đề sở hữu. Tôi và chắc chắn có rất nhiều nhà báo, nhà khoa học, nhà nghiên cứu sẽ có hàng loạt bài phản bác lại quan điểm của GS. LXT.

Bài viết ngắn đầu tiên này, tôi chỉ giải thích một điều đơn giản: tại sao “tôi buồn-giận-vui khi đọc bài báo này”?. Để mọi người đỡ sốt ruột và cũng để mở đầu cho hệ thống bài viết của mình về chủ đề này, xin được trả lời ngay:

– “Tôi buồn” vì sự thủ cựu, bảo thủ đến cực điểm của GS. LXT. Ông Tùng viết ra những điều mà người đời hay nói “xưa như trái đất”. Tôi buồn hơn, sự bảo thủ này không chỉ của GS. LXT mà thực tiễn cho thấy không ít nhà lãnh đạo cao cấp của đảng hiện nay cũng chưa thoát ra được.

– “Tôi giận” vì một người có học hàm cao và vị thế lớn như GS. LXT lại nhắm mắt nói bừa những điều sai sự thật, quá xa với cuộc sống diễn ra trên đất nước ta trong 30 năm đổi mới vừa qua. Tôi giận hơn, khi tìm hiểu hệ thống văn kiện tóm tắt đưa xuống đại hội đảng các cấp cũng có tình hình tương tự.

– “Tôi vui” vì GS. LXT đã “dũng cảm” phơi bày quan điểm bảo thủ, lạc hậu của mình (và tôi hiểu cũng là của giới bảo thủ, giáo điều trong Đảng cầm quyền) để mọi người có dịp tranh luận công khai mà không bị “trừng trị”.

Dưới đây, xin nói rõ hơn những điều nêu trên đây.

  1. GS. Lê Xuân Tùng cố tìm cách (kể cả bịa chuyện) để chống lại “những quan điểm xa lạ” để bảo vệ một trong những quan điểm chính thống của đảng cầm quyền đã được ghi vào Cương lĩnh và Hiến pháp sau đây: “ Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”, “Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”…Vấn đề này sẽ còn được bàn kỹ hơn, ở đây xin được nói nhanh hai điều:

Một, đường lối của đảng cầm quyền là để chỉ đạo hành động nhằm đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, vậy mà sau 30 năm đổi mới mọi người, kể cả các nhà khoa học lớn của đất nước vẫn còn loay hoay bàn vấn đề “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” là gì? Một đường lối như vậy làm sao bắt mọi người phải thừa nhận là đúng, bắt mọi người phải nói theo và làm theo; Ngay Bộ trưởng Bộ Kế hoạch & Đầu tư  Bùi Quang Vinh cũng thẳng thắn đánh giá “Chúng ta cứ nghiên cứu mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà mãi có tìm ra đâu. Làm gì có cái thứ đó mà đi tìm!”

Ai nói ngược, nói khác thì được lãnh đạo, mà GS. LXT “tặng cho” cái mũ “chệch hướng”?

Hai, thành quả của đổi mới lớn nhất, đáng ghi nhận và nhờ đó, chúng ta mới có bước phát triển như vừa qua là phát triển kinh tế nhiều thành phần sở hữu. Các thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật. Nhưng điều rất đáng buồn là đảng đã thụt lùi khi ghi vào Cương lĩnh (xin được nhắc lại lần nữa):.  “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu,[…]. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. […]. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”.

Đoạn trích từ Cương lĩnh trên đây đã nói lên rõ ràng rằng chính Đảng cầm quyền chứ không phải ai khác chủ trương và cổ súy cho việc phân biệt đối xử đối với các thành phần kinh tế. GS. LXT còn bảo hoàng hơn vua khi bịa ra rằng có thế lực thù địch nào đó muốn “kinh tế tư nhân là nền tảng của nền kinh tế quốc dân?”. Xin thưa với GS. LXT là mọi người, kể cả các nhà khoa học chỉ muốn đảng thực hiện chủ trương các thành phần kinh tế “bình đẳng trước pháp luật” như đã hứa thôi!

  1. Theo tôi, thực chất của Đổi mới là sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm cả về nhận thức lý luận, lẫn hành động thực tế do chính chúng ta gây ra trước đó, đưa đất nước phát triển theo quy luật của nó. Có những sai lầm, khuyết điểm được phát hiện khá sớm, nhưng không ít sai lầm khuyết điểm chỉ có thể được phát hiện dần trong quá trình thực hiện đổi mới.

Do đó, đổi mới là một quá trình lâu dài, liên tục. Mặc dầu vậy, trong Dự thảo báo cáo chính trị tóm tắt đưa đến Đại hội cấp cơ sở, một số chỗ có nói đến đổi mới, chẳng hạn: “Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế”( Văn kiện Đại hội XII, tr. 11); “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo duc…”(Văn kiện Đại hội XII, tr. 18); “Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận” (Văn kiện Đại hội XII, tr. 36); “Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ”( Văn kiện Đại hội XII, tr. 37)., nhưng tuyệt nhiên không nơi nào nói rõ ràng những sai lầm, khuyết điểm của Đảng trong lãnh đạo công cuộc đổi mới.

Trong khi đó, qua khảo sát thực tế, ý kiến của không ít chuyên gia tâm huyết khẳng định rằng “việc thực hiện công cuộc đổi mới trong 30 năm qua thiếu nhất quán, không triệt để, nghiêm trọng hơn là công cuộc đổi mới bị chững lạị. Đặc biệt, đổi mới chính trị không những không đi liền với đổi mới kinh tế như đảng đã hứa với dân từ 1986, mà hầu như còn dẫm chân tại chỗ, có mặt còn đi thụt lùi. Chính điều này đã trở thành lực cản của đổi mới kinh tế – xã hội .”

Trên cơ sở đó, nhiều nhà nghiên cứu kiến nghị “đẩy mạnh công cuộc đổi mới”; “Đổi mới lần 2”; “Đổi mới mô hình tăng trưởng”; “Đổi mới thể chế”…..Đề nghị GS. LXT và những người cổ vũ cho quan điểm của ông dành thì giờ đọc kỹ các bài viết đăng trên các báo chính thống trước khi phát biểu ý kiến của mình!

  1. Đại hội XII của Đảng sắp tới, chắc chắn phải đánh giá chúng ta đang ở đâu và từ đó sẽ đi đến đâu trong giai đoạn tiếp theo. Đại hội XII diễn ra trong bối cảnh nước ta đã trải qua chặng đường 30 năm đổi mới, nếu chỉ tính từ Đại hội VI (1986-2015) và một phần tư thế kỷ thực hiện công nghiệp hóa theo mục tiêu đưa nước ta “trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020” đề ra tại Đại hội VII (1991-2015). Đồng thời cũng đã gần ¼ thế kỷ, nước ta thoát khỏi bao vây, cấm vận và tham gia ngày càng đầy đủ vào quá trình toàn cầu hóa, thực chất là quá trình phân công lao động trên phạm vi khu vực rộng lớn và toàn cầu.

Do đó, để đánh giá tình hình hiện nay, cần điểm lại những thành quả quan trọng mà nhân dân ta đã giành được, những bài học quý giá cả thành công, nhất là những bài học thất bại xảy ra không chỉ trong một nhiệm kỳ 5 năm mà trong cả 30 năm ấy. Và trong bối cảnh mới này, việc đánh giá những mặt làm được và chưa làm được nhất thiết phải đặt trong mối tương quan so sánh  giữa ta và các nước trên thế giới, trước hết là các nước trong khu vực.

Trong phạm vi bài viết này, chỉ xin nêu vắn tắt vài hệ lụy:

Một là Việt Nam đã tụt hậu xa hơn (hay doãng ra) chứ không còn là “nguy cơ” và không chỉ tụt hậu về kinh tế mà cả văn hóa, xã hội so với các nước.  Riêng về thu nhập bình quân theo đầu người, VN tụt hậu ngày càng xa hơn so với bình quân chung của thế giới và khu vực đã trở thành hiện hữu, chứ không còn là nguy cơ như các văn kiện trình Đại hội Đảng khóa XII nhận định.

Trong các văn kiện chính thức, chúng ta thường chỉ đánh giá một chiều rằng Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế thuộc nhóm nước cao nhất thế giới, coi đó là thành tựu “có ý nghĩa lịch sử”. Nhưng thực chất, nếu xem xét kỹ về số tuyệt đối, mà điều đó mới là quan trọng nhất thì Việt Nam tụt hậu ngày càng xa hơn so với bình quân chung của thế giới và các nước trong khu vực.

Mong muốn đuổi kịp nước này, nước khác trong vùng về thu nhập đầu người đã trở nên không tưởng. Chẳng hạn, năm 1990, GDP bình quân đầu người của Thái Lan là 1508 USD và VN là 98 USD, cách nhau 1410 USD. Đến năm 2013 lần lượt là 5674 USD và 1908 USD, cách nhau 3766 USD, tức khoảng cách doãng ra gấp 2,67 lần, sau 23 năm. So với hầu hết các nước trong khu vực đều thấy có tình hình tương tự.

Hai là để lại gánh nặng nợ nần cho giai đoạn tới. Do sử dụng các nguồn lực để thực hiệm nhiệm vụ công nghiệp hóa kém hiệu quả, nên để lại gánh nặng nợ nần cho giai đoạn tiếp theo.

Ba là rất nhiều nước, sau khoảng 30 năm thực hiện công nghiệp hóa đã phải nhập khẩu lao động, còn nước ta chắc còn phải vác rá đi xin việc làm dài dài. Thực chất, hiện chúng ta đang thiếu việc làm nghiêm trọng. Nếu có quyết tâm cao và tạo được nguồn lực lớn thì cũng phải cần một thời gian dài nữa mới xử lý được vấn đề này. Thiếu công ăn việc làm, người có việc làm thì thu nhập không đủ sống là nguyên nhân quan trọng tạo nên sự bất an xã hội.

Bốn là nguyên nhân của tình hình trên có nhiều và lâu nay trong các văn kiện chính thức chưa bao giờ nói một cách rõ ràng nguyên nhân cốt lõi. Ở  đây xin nêu tiêu đề của hai nguyên nhân cốt lõi:

Thứ nhất, do Đảng không tiếp tục, không kịp thời đổi mới tư duy. Đảng ta vẫn cố bám lấy những mặt sai, lỗi thời của chủ nghĩa Mác – Lênin, đặc biệt là trong những nguyên lý xây dựng chủ nghĩa xã hội, vẫn tiếp tục lấy nó làm nền tảng tư tưởng và phương hướng hành động của đảng. Trong khi đó chủ nghĩa Mác-Lênin ngày càng được nhiều học giả chân chính và thực tiễn chứng minh là một học thuyết chưa hoàn chỉnh có rất nhiều sai lầm, khuyết tật đặc biệt là trong những nguyên lý xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Hơn thế nữa, thực tiễn áp dụng học thuyết này vào cuộc sống là Liên Xô trong một thời gian đủ dài tới 73 năm đã bị thất bại thảm hại ngay trên quê hương nó, phải thừa nhận là một sự kìm hãm lịch sử phát triển của một đất nước. Điều dễ nhận thấy là tuy có một số lập luận về sự phát triển học thuyết này, nhưng ít có cơ sở khoa học thuyết phục, thực chất chỉ là sự biến tấu, về cơ bản Đảng ta đang từng ngày, từng giờ đi theo vết xe đổ của đảng cộng sản Liên Xô. Cho nên, Đảng ta “lấy chủ nghĩa Mác – Lênin … làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động…” (Cương lĩnh 2011) là rất sai lầm.  “Chủ nghĩa Mác-Lênin” là thuật ngữ hàm hồ, của Stalin, “Chủ nghĩa Mác-Lênin” là thuật ngữ hàm hồ do Stalin nêu ra đầu tiên sau khi Lênin mất, không nên tiếp thu và phổ biến.

Liệu ở thời đại ngày nay với sự hiểu biết và nhận thức về lịch sử phát triển thế giới khác hẳn những năm 1930, ai và dân tộc nào tán đồng và chấp nhận một cuộc thí nghiệm kéo dài đã biết trước kết quả như ĐCS Liên Xô và nhà nước Xô Viết đã làm? Người dân, đặc biệt là những trí thức đủ kiến thức để nhận biết những người đang chủ trương đường lối xây dựng đất nước vì những lợi ích cá nhân đặt trên quyền lợi của đất nước của dân tộc. Trong lịch sử Việt Nam đã ghi nhận không ít những Vương triều đã để lại vết nhơ không ai và không bao giờ xóa được là bài học đâu có phải mất nhiều công tìm kiếm.

Thứ hai, là do Đảng vẫn duy trì mô hình về tổ chức bộ máy cầm quyền lỗi thời, lạc hậu, kìm hãm quá trình phát triển của đất nước.

Đảng độc quyền tuyệt đối về công tác tổ chức và cán bộ tạo ra bộ máy kém năng lực, thiếu tư chất và trách nhiệm là nguyên nhân gây ra tệ tham ô lãng phí tràn lan (không còn là “con sâu… hay một bộ phận nhỏ đảng viên”… quan liêu kém hiệu quả của bộ máy dẫn đến không chỉ mất dân chủ, mất lòng tin của nhân dân, ảnh hưởng đến an ninh, chủ quyền của đất nước. Vì vậy, đảng phải chịu trách nhiệm toàn diện về lĩnh vực hoạt động này. Điều rất đáng quan tâm là hiện nay đảng ta không nhận ra hiện trạng yếu kém nói trên, vẫn duy trì mô hình về tổ chức bộ máy cầm quyền lỗi thời, lạc hậu, kìm hãm quá trình phát triển của đất nước giống như Liên Xô trước khi tan rã.

Thứ hai, là do Đảng vẫn duy trì mô hình về tổ chức bộ máy cầm quyền lỗi thời, lạc hậu, kìm hãm quá trình phát triển của đất nước.

Trên thực tế cho đến nay, những người lãnh đạo đảng ta là người điều hành độc quyền và duy nhất quá trình phát triển của đất nước, can thiệp vào mọi hoạt động lớn, nhỏ của hơn 90 triệu dân Việt Nam. Rất khó tìm một lĩnh vực, một khu vực, một hoạt động cụ thể nào, cả đối nội lẫn đối ngoại trong đời sống hằng ngày của người dân mà ở đó không có sự can thiệp của cơ quan lãnh đạo đảng.

Quyền cực lớn và vô giới hạn đến như vậy, nhưng về mặt pháp luật không hề có quy định nào nêu rõ trách nhiệm của Đảng cộng sản Việt Nam trước tổ quốc, trước dân, ngoài vài câu khẩu hiệu ghi tại Điều 4 Hiến pháp năm 2013 (tương tự như Điều 126 Hiến pháp Liên Xô năm 1936 và Điều 6 Hiến pháp Liên Xô năm 1977). Kinh nghiệm chung của cả thế giới, kể cả Liên Xô và các nước XHCN cũ chỉ ra rằng: Độc quyền mà không hề bị giám sát, không hề bị kiểm soát theo pháp luật thì tất yếu dẫn đến lộng quyền, làm những điều sai trái gây phương hại đến lợi ích của đất nước, của người dân. “

Thay cho lời kết

Nếu có một diễn đàn khoa học dân chủ, công khai, minh bạch, thiện chí và bình đẳng, chắc chắn sẽ có nhiều học giả ở nước ta không phân biệt đảng phái, giai cấp sẽ tình nguyện (không cần phải đầu tư tổ chức tốn kém và không hiệu quả như hiện nay đang làm !) tham gia bàn luận nghiêm túc có tính xây dựng về vấn đề nêu trên, điều mà trên thế giới đang làm sẽ là những thông tin đa chiều mà từ đó sẽ tìm hoặc lựa chọn ra được những chân lý có cơ sở khoa học định hướng tốt nhất, phù hợp nhất cho sự phát triển đất nước. Trong lịch sử nước ta đã từng có Hội nghị Diên Hồng, Hội nghị Tân Trào của Mặt trận Việt Minh.  Còn các dạng bài viết và nghị quyết, cương lĩnh,… theo đặt hàng định hướng hiện nay thường rơi vào những tư tưởng duy ý chí, không phải và không thể là một luận cứ mang tính biện chứng khoa học thuyết phục.

Bài viết của GS Lê Xuân Tùng thuộc dạng thứ hai nêu trên là sắp xếp cho ra vẻ có lớp lang một mớ hổ lốn những điều cũ kỹ đã được nhồi nhét và tự nhặt nhạnh từ những bản dịch cũ nát, đã được lựa chọn nhằm mục đích như hai mảnh che mắt con ngựa thồ chạyđường dài. Nhưng dù có giỏi ngụy biện đến đâu cũng không che dấu nổi mâu thuẫn ngay trong bài viết.

Bài viết của Gs Lê Xuân Tùng đại diện cho tư duy giáo điều, bảo thủ của giới cầm quyền, vẫn bám giữ con đường xã hội chủ nghĩa theo học thuyết Mác-Lênin. Dù sao, nó cũng tạo cơ hội cho những ý kiến phản biện lên tiếng, trong khi giới cầm quyền đang tìm mọi cách không cho những tiếng nói phản biện được công khai tranh luận.

T.V.T.

Tác giả gửi BVN

This entry was posted in Tản Mạn. Bookmark the permalink.