Phần II – Tình trạng Dân Chủ ở Việt Nam:
Từ 70 năm nay, các chính quyền ở Việt Nam luôn lớn tiếng tự nhận là chế độ Dân Chủ Cộng Hòa nhưng hai tiếng Dân Chủ, Tự Do vẫn còn là một huyền thoại, một cái gì xa vời, chưa bao giờ hiện thực. Chính quyền thì dùng nhãn Dân Chủ để lừa gạt, dân chúng thì cam phận.
Có lẽ vì vậy mà bác sĩ Trần Ngọc Ninh, một học giả ở Hoa Kỳ đưa ra nhận xét đượm vẻ bi quan rằng Âu, Mỹ người ta có được một nền Dân Chủ tốt đẹp vì “Âu Mỹ vào tự do, dân chủ với lịch sử dân quyền ở Hellen (Hy Lạp), luật pháp của Roma (La Mã), với lời kêu gọi gạt bỏ quá khứ, với những tư tưởng của thế kỷ Quang Minh (Enlightenment, Lumière), và với khoa học bắt đầu với những cuộc cách mạng của Copernik, Galiléo. Trung Hoa và Việt Nam thiếu sự sửa soạn tri thức.” (Trần Ngọc Ninh, Ước vọng Duy Tân, Viện Việt Học xuất bản, tháng 11/2012, trang 29). Bác sĩ Phạm Hồng Sơn, một nhà hoạt động dân chủ trong nước, trong cuộc phỏng vấn của đài BBC ngày 2.03.2013 cũng đưa ra ý kiến tương tự.
Nếu nói rằng cần phải có sửa soạn đầy đủ tri thức mới có tự do, dân chủ thì không bao giờ người dân ở những nước độc tài chuyên chế (chuyên chính) đạt được vì luôn luôn những chính phủ độc tài, dù là cá nhân hay đảng, tập đoàn cầm quyền không những không cho có sự sửa soạn mà còn cấm đoán, giết chóc, bắt bớ những người có tư tưởng hay vận động cho Tự Do Dân Chủ; ngược lại, họ ru ngủ, hủ hoá dân chúng bằng rượu chè, cờ bạc, mê tín dị đoan, gây chia rẽ, khuyến khích sự lừa lọc, dối trá… làm dân chúng sa đọa, bạc nhược, làm xã hội băng hoại để dễ bề cai trị. Chính sách này thực dân Pháp đã đem áp dụng ở nước ta thời Pháp thuộc và nhà cách mạng Phan Bội Châu nêu rõ trong cuốn Cao đẳng quốc dân viết cách nay gần 100 năm.
Nhìn sang châu Âu như Nga, Đức, Tây Ban Nha, nhất là Hy Lạp và nước Ý (La Mã xưa), thì sự hình thành chính thể Dân Chủ không sớm sủa gì, nhất là nước Nga dù chế độ độc tài chuyên chính (chuyên chế) Cộng sản sụp đổ hai mươi mấy năm rồi mà người dân vẫn chưa được hưởng đầy đủ tự do, dân chủ. Hiện tại dưới sự cai trị của Putin, Hiến pháp Nga bị sửa đổi để Putin lên cầm quyền nhiệm kỳ 3, những người đối lập bị đàn áp, bỏ tù, thậm chí bị giết như cựu thiếu tá Litvinenko bị đầu độc bằng phóng xạ ở Anh hay nữ ký giả Anna Politkovskaia bị ám sát ngay tại nước Nga.
Nước Đức, trước khi đầu hàng Đồng Minh ngày 8.5.1945 nằm dưới chế độ phát xít của Hitler và chỉ khi bức tường Bá Linh sụp đổ, kéo theo sự sụp đổ của chế độ độc tài đảng trị tại Đông Đức ngày 9/11/1989, thì cả nước mới có tự do, dân chủ.
Tây Ban Nha, sau khi nhà độc tài là tướng Francisco Franco chết năm 1978 mới có Hiến pháp chuyển sang chế độ quân chủ lập hiến.
Hy Lạp, cái nôi của nền văn minh, dân chủ phương Tây và thế giới thì chế độ quân chủ chính thức bị giải tán năm 1975, sau khi chế độ độc tài của “các Đại tá” chấm dứt ngày 23.7.1974.
Trái lại ở châu Á, Nhật và Ấn, Phillippines đã thiết lập được nền Dân Chủ sớm hơn cả Nga, Hung, Tiệp, Ba Lan, Tây ban Nha, Hy Lạp…
Nhật có truyền thống quân chủ rất lâu đời. Nhật hoàng được người dân sùng bái tới mức độ cuồng tín thế mà sau khi bị hai trái bom nguyên tử tàn phá phải đầu hàng vô điều kiện 15.8.1945 thì trở thành một nước Dân Chủ. Hiến pháp hiện giờ do người Mỹ tới chiếm đóng ban hành, dân Nhật không có quyền soạn thảo, biểu quyết. Nhưng kể từ năm 1945 đến nay Nhật có một nền Dân Chủ vững vàng, tiến bộ nhất châu Á, người dân được bảo đảm về nhân quyền, quyền bình đẳng và các quyền tự do sinh sống, hội họp, tự do ngôn luận, báo chí, tự do tôn giáo…
Ấn là trường hợp đặc biệt. Đấu tranh dưới sự lãnh đạo của thánh Gandhi và luật sư Nerhu, Ấn được Anh trao trả độc lập năm 1947 với tình trạng đất nước bị phân hoá về tôn giáo, đẳng cấp, địa phương, ngôn ngữ; dân trí thấp kém, hơn 90% mù chữ, mê tín dị đoan, nghèo đói; công kỹ nghệ không có, nông nghiệp lạc hậu, đất ít người đông thế mà ông Nerhu và người Ấn đã vượt qua các trở ngại để thiết lập nền Dân Chủ vững vàng từ đó đến nay.
Như vậy Việt Nam có cần một giai đoạn chờ đợi để sửa soạn tri thức trong một, hai thế kỷ như châu Âu thế kỷ thứ 17, 18 (thời kỳ kỷ nguyên Ánh Sáng hay còn gọi là kỷ nguyên Lý Trí: Age of Enlightenment, Age of Reason) để có Tự Do Dân Chủ?
Qua những trình bày trên, yếu tố quyết định cho một nền Dân Chủ chưa hẳn do trình độ dân trí hay có lịch sử (truyền thống) Dân Chủ thừa hưởng của La, Hy. Trường hợp Đức, Ý, Tây Ban Nha, Nga và nhất là Hy Lạp tri thức, lịch sử Dân Chủ có đủ mà vẫn bị độc tài. Trái lại Ân, Nhật thì lại có nền Dân Chủ sớm và ổn định.
Không phải chỉ một yếu tố đơn thuần tạo ra nền Dân Chủ mà tùy thuộc vào:
- Văn hoá: trình độ dân trí cao, có ý thức và hành xử văn minh, biết dung hoà, tôn trọng ý kiến người khác.
- Lịch sử: đã từng trải qua Dân Chủ (nếu mất sẽ đấu tranh lấy lại).
- Chính trị: không bị ảnh hưởng, lệ thuộc vào nước khác.
- Kinh tế, xã hội ổn định – không phân hóa, chia rẽ về tôn giáo, địa phương. Và quan trọng hơn hết là
- Ý thức cao về quốc gia, dân tộc: đặt quyền lợi chung của quốc gia lên trên quyền lợi cá nhân, phe, đảng,tôn giáo.
- Cuối cùng và không kém phần quan trọng là người lãnh tụ. Đó là trường hợp của Ấn Độ và cả nước Mỹ sau khi thoát khỏi sự đô hộ của thực dân Anh.
Nưóc Mỹ sau khi đạo quân 6.000 binh sĩ của Lord Cornwallis đầu hàng tại York Town, Virginia ngày 19/10/1781 là 13 xứ Độc Lập nhưng với biết bao nhiêu khó khăn, dân chúng thì tạp chủng, tứ xứ, nghèo đói, bệnh tật. Mười ba “Tiểu Bang” thì lớn nhỏ khác nhau, kinh tế, nông nghiệp, công nghệ phát triển chênh lệch tạo ra rất nhiều trở ngại trong việc thành lập một chính phủ chung.
Cuốn The Challenge of Democrcy Goverment in America của ba Giáo sư Đại học Kenneth Janda, Jeffrey M. Berry, Jerry Goldman mô tả tình trạng khi ấy ở Philadelphia: “Già nửa dân chúng sống nghèo khó. Gái điếm và bệnh tật lan tràn”. (“More than half population existed on edge of poverty. Prostitution and disease were widespread” – trang 80). Các xứ tranh chấp nhau, họp hành kéo dài làm các đại biểu chán nản lang thang tới các quán nhậu (tavern) đến nỗi đích thân ông Washington có lúc phải đi kiếm lôi cổ về họp.
Nếu không có ông Washington với uy tín và sự cương quyết thì chưa chắc hội nghị Lập Hiến đã thành công (“Still, if it were not for Washington, some historians believe, the convention would never have succeeded. His character and authority kept the convention from flying apart” – sách đã dẫn, trang 80). Và cũng chính với nhân cách cao quý, với lý tưởng dân chủ nhiệt thành, với sự nghiệp và uy tín của ông mà bản Hiến Pháp Dân Chủ đầu tiên trên thế giới đã ra đời tại nước Mỹ.
Cũng chính bản Hiến pháp không ghi Tổng Thống Hoa Kỳ được đảm nhiệm mấy nhiệm kỳ nhưng ông chỉ tái ứng cử một lần, tức làm Tổng thổng hai nhiệm kỳ, 8 năm, từ 1789 đến 1797. Thời hạn này được những Tổng thống kế tiếp noi theo và trở thành tập tục không những của nước Mỹ mà còn được phần lớn các nước Dân Chủ trên thế giới ghi trong Hiến pháp. (*)
So với Ấn Độ, dù sao thì dân chúng Mỹ từ châu Âu tới với văn hóa ảnh hưởng của Hy Lạp, La Mã, trình độ văn minh cao, nhất là những lãnh tụ cách mạng như George Washington, Thomas Jefferson, John Adams… là những trí thức mang nặng lý tưởng Dân Chủ do chịu ảnh hưởng của những triết gia John Locke (1632-1704), Francois M.A. Voltaire (1694-1778), J. J. Rousseau (1712-1778)… của thời kỷ nguyên Ánh sáng ở châu Âu.
Ấn, trái lại, ngoài dân trí thấp kém, hơn 90% mù chữ, nghèo khổ, lại bị phân hoá về địa phương, tôn giáo, ngôn ngữ, đẳng cấp… thế mà dưới sự lãnh đạo của ông Nehru và đảng Quốc Đại đã trở thành một nước Dân Chủ đầu tiên ở châu Á. Cũng chính gia đình này chi phối nền chính trị Ấn từ năm 1947 đến nay với ba đời làm Thủ tướng (Nerhu, con gái là bà Indira Gandhi, cháu là Rajiv Gandhi và cháu dâu Sonia – vợ góa Rajiv – làm Chủ tịch đảng Quốc Đại) nhưng cả thế giới không ai nói gia đình Nerhu là độc tài, là gia đình trị.
Cả gia đình ông để hết tâm trí phục vụ dân tộc Ấn, không tham quyền cố vị, không tham nhũng, không lợi dụng chức vụ để vơ vét hay buôn bán làm giàu mà trái lại xả thân cho lý tưởng, cho quốc gia: Nữ Thủ tướng Indira Gandhi bị ám sát chết, Thủ tướng Rajiv Gandhi cũng bị ám sát chết.
Ấn Độ có những nhà lãnh đạo siêu việt cả về đạo đức, tư cách, tài năng và tận tụy hiến dâng.
Ngược lại, ông Tôn Dật Tiên làm cuộc cách mạng Tân Hợi 1911 nhưng không xây dựng được nền Dân Chủ ở Trung Hoa. Sau khi nhà Thanh bị lật đổ thì nước này coi như thuộc về gia đình nhà vợ Tôn Dật Tiên (**) và các lãnh chúa tung hoành. Đúng hơn, sau chế độ quân chủ của nhà Thanh là chế độ phong kiến. Cho đến nay người dân lục địa Trung Hoa vẫn phải sống dưới chế độ độc tài đảng trị và Đài Loan chỉ có bầu cử tự do sau khi Tưởng Kinh Quốc – con Tưởng Giới Thạch, cháu dượng Tôn Dật Tiên chết (Tôn và Tưởng là anh em rể).
Như vậy thì lãnh đạo (đạo đức, tư cách, tài năng, sự tận trụy) là yếu tố rất quan trọng trong việc xây dựng nền Dân Chủ của một quốc gia không những ở những nước kém phát triền như Trung Hoa, Việt Nam, Myanmar, Lybia, Tunisia… mà cả ở những nước phát triển như Nga, Hy Lạp, Ý, Tây Ban Nha, Đức…
Xét về lịch sử, nếu tin vào huyền thoại, thì Việt Nam chúng ta có lịch sử Dân Chủ từ nhiều ngàn năm, có lẽ trước cả Hy Lạp vì Đại Việt sử ký tiền biên soạn thời nhà Nguyễn Quang Trung ghi rằng vào đời nhà Hùng, vua với dân cùng đi cày lấy lúa mà ăn, không sưu dịch, thuế khoá, không bắt lính tráng… Đó là thời đại thái bình, thiên đường nơi hạ giới. Vua không nắm quyền hành, chỉ tượng trưng cho sự thống nhất dân tộc.
Sự thật lịch sử là chế độ xã thôn tự trị chỉ bị xóa bỏ sau năm 1954 ở miền Bắc và sau năm 1975 ở miền Nam.
Trong chế độ xã thôn tự trị, mỗi làng (xã) tự xếp đặt công việc nội bộ từ bảo vệ an ninh, ấn định thuế khoá, hội hè, cúng tế đến việc cưới hỏi… qua Hội Đồng Kỳ Mục là cơ quan lập ra hương ước (tựa như Hiến pháp) riêng cho xã mình, việc thi hành thì giao cho lý trưởng và phó lý. Vì thế phong tục, luật lệ của làng xã Việt Nam được người dân tôn trọng còn hơn cả phép tắc của vua chúa:
- Phép vua thua lệ làng, hay:
- Quan cần dân không vội,
Quan có cần quan lội quan đi.
Nhưng qua thời gian, nhất là ảnh hưởng càng ngày càng nặng nề của đạo Nho trải dài từ các đời Lý, Trần, Lê, Nguyễn rồi cả đến thời Pháp thuộc, thời nào cũng muốn xoá bỏ chế độ Xã Thôn Tự Trị để nắm hết quyền hành vào tay vua chúa, vào tay chính quyền thực dân làm cho định chế không thành văn ấy bị suy thoái chỉ còn cái xác không hồn và biến thành hương đảng, xôi thịt, bộ tộc.
Đó là cái hoạ của dân tộc trong mấy chục năm nay. Không phải chỉ có các đảng phái mà các đoàn thể, các tôn giáo cũng phần lớn mắc phải đầu óc hương đảng, phe phái đó.
Chính cái đầu óc hương đảng, phe phái làm cho dân tộc Việt Nam, dù đã thống nhất đất nước 40 năm, nhưng người dân vẫn chưa biết thế nào là Dân Chủ, Tự Do. Dù nền kinh tế Việt Nam đã đi theo kinh tế tư bản nhưng hầu hết dân chúng vẫn nghèo khổ vì bị bóc lột sức lao động, bị tước đoạt nhà cửa, ruộng đất, bị kỳ thị trong việc làm, việc sinh sống, bị đàn áp, tước đoạt hết các quyền tự do và nhân phẩm. Bao nhiêu quyền lợi, chức tước, cơ hội tốt đều thu về Đảng, đảng viên, những kẻ biết luồn lọt để làm giàu và nắm quyền cai trị.
P. Đ. N.
Ghi chú:
(*) Sau khi TT thứ 32 là Franklin Delano Rosevelt (1882-1945) giữ 3 nhiệm kỳ từ 1933-1945 thì quốc hội Mỹ tu chính Hiến Pháp chỉ cho TT Mỹ giữ 2 nhiệm kỳ.
(**) Tống Giáo Nhân, cha vợ của Tôn Dật Tiên và Tưởng Giới Thạch có 6 người con, người nào cũng là triệu phú thời ấy (tỷ phú bây giờ), tiêu biểu là Tống Tử Văn, luôn cặp kè bên Tưởng Giới Thạch, từng là Thống đốc Ngân hàng Trung ương Trung Quốc, Bộ trưởng Tài chánh, Bộ trưởng Ngoại giao…
Tác giả gửi BVN.