Jokowi đã thắng và Dân chủ đã sống sót thế nào*

Nguyễn Quang A dịch

Marcus Mietzner là phó giáo sư ở Trường châu Á và Thái Bình Dương tại Đại học Quốc gia Australia. Cuốn sách mới nhất của ông là Money, Power, and Ideology: Political Parties in Post-Authoritarian Indonesia (2013).

Trong thảo luận về suy thoái toàn cẩu của dân chủ, các nhà phân tích hay tập trung vào các trường hợp kịch tính nhất của sự đảo ngược, như các cuộc đảo chính quân sự ở Ai Cập và Thái Lan. Dưới cái bóng của chúng, tuy vậy, Indonesia (nền dân chủ lớn thứ ba thế giới) đã đối mặt với một thách thức ít được thảo luận, nhưng nghiêm trọng ngang thế đối với chính thể dân chủ của nó. Mỉa mai thay, sự đe dọa này đã đến dưới hình thức của cuộc bầu cử trực tiếp Tổng thống lần thứ ba của đất nước kể từ khi nhà độc đoán lâu đời Suharto sụp đổ trong năm 1998. Được tổ chức ngày 9-7-2014, cuộc tranh đua này đã mô tả các nét đặc biệt của một thách thức dân túy khủng khiếp từ Prabowo Subianto, cựu con rể của Suharto. Hứa hẹn sự lãnh đạo cứng rắn hơn và một sự quay lại các cơ chế bầu cử gián tiếp mà với nó Suharto đã cai trị Indonesia trong 32 năm, Prabowo đã suýt thắng chức Tổng thống. Giả như ông đã thành công, các hệ quả sẽ quan trọng: Không chỉ Indonesia bị đặt lên con đường phục hồi độc đoán, mà khả năng “mất” nền dân chủ đa số-Muslim được khen ngợi nhiều sẽ làm sâu sắc thêm sự suy thoái dân chủ toàn cầu.

Cuối cùng, Prabowo đã thua Joko Widodo (được gọi thân mật là “Jokowi”), thị trưởng thủ đô Jakarta, với một tỷ lệ 53,1 trên 46,9 phần trăm. Ngay cả sau khi thất bại của ông đã rõ ràng, Prabowo đã tiếp tục thách thức của ông bằng cách công bố những tính toán nhanh bị thao túng hiển nhiên cho thấy ông ta đang thắng, và bằng cách thử can thiệp vào việc xếp thành bảng chính thức tại cơ sở. Bất chấp các thủ đoạn này, Ủy ban Tổng tuyển cử đã tuyên bố Jokowi thắng cuộc vào ngày 22 tháng Bảy, mở đường cho lễ nhậm chức của ông trong tháng Mười. Tuy nhiên, cuộc bầu cử đã tiết lộ tính dễ bị tổn thương tiếp tục của nền dân chủ non trẻ của Indonesia và đã làm nổi bật sức mạnh của các lực lượng chống dân chủ của nước này – bên trong cả elite lẫn toàn bộ cử tri nói chung. Khả năng của Prabowo để thu hút gần nửa dân cư với một chương trình nghị sự dân túy và dân tộc chủ nghĩa cực đoan gợi ý rằng nền dân chủ Indonesia cần sự tăng cường thêm – một nhiệm vụ bây giờ rơi trên vai Jokowi.

Các lựa chọn thay thế nổi bật đối mặt các cử tri Indonesia trong cuộc bầu cử tháng Bảy năm 2014 và kết cục bầu cử nói gì với chúng ta về tình trạng của nền dân chủ Indonesia? Dựa trên những phỏng vấn với các diễn viên chủ chốt, tiểu luận này nhấn mạnh rằng cuộc bầu cử đã không chỉ là một cuộc tranh đua giữa hai ứng viên, mà cũng là giữa những quan niệm hoàn toàn trái ngược nhau về quyền lực và những tầm nhìn cho tương lai của Indonesia. Như thảo luận sau đây cho thấy, những sự bất đồng này đã được phản ánh trong ba đối kháng xảy ra trong thời gian các cuộc bầu cử: thứ nhất, sự tình nguyện cơ sở đối lại (versus, vs.) hoạt động chính trị đầu não đầu sỏ; thứ hai, sự chừng mực kỹ trị vs. chính sách mị dân dân túy; và thứ ba, sự ủng hộ các cuộc bầu cử dân chủ vs. sự lên án chúng là “phi-Indonesia” và quá tốn kém. Cái gì đã làm cho nền dân chủ Indonesia có thể sống sót qua thách thức của Prabowo, và khả năng của chính thể hậu-Suharto sẽ ổn định trong những năm tới là thế nào?

Nền Dân chủ của Yudhoyono: 2004 đến 2014

Cả thách thức dân túy của Prabowo lẫn sự nổi lên của đối thủ của ông ta, Jokowi, đều không thể hiểu được ngoài bối cảnh của nhiệm kỳ Tổng thống của Susilo Bambang Yudhoyono (2004–14). Các chiến dịch dân túy chống lại hiện trạng status quo xảy ra điển hình trong các chính thể gặp nỗi thống khổ của các khủng hoảng chính trị và kinh tế.1 Điều này có thể gợi ý rằng tính hiệu quả của thách thức của Prabowo đã gắn với sự thất bại thực hoặc được cảm nhận của nền dân chủ Indonesia để thỏa mãn các công dân của nó. Thế nhưng nền dân chủ Indonesia đã không có vẻ bị khủng hoảng dưới thời Yudhoyono. Về chính trị, Yudhoyono đã xoay xở để ổn định hóa hệ thống rối loạn trước đây, chấm dứt các xung đột chung có từ lâu đời (giữa chúng, cuộc chiến tranh ba mươi năm ở Aceh), và trông coi sự củng cố của các định chế mới, như Tòa án Hiến pháp. Sự thỏa mãn đối với nền dân chủ đã cao trong cuối các năm 2000 và đầu các năm 2010 (83 phần trăm trong tháng Bảy 2014),2  và tỷ lệ người đi bỏ phiếu đã trên 70 phần trăm trong các cuộc bầu cử quốc gia suốt thời kỳ hậu-Suharto. Điều này tương phản sắc nét với tình hình ở các nước khác đã trải qua sự tiếp quản dân túy: ở Venezuela, chẳng hạn, tỷ lệ người đi bỏ phiếu đã sụt xuống 62 phần trăm trong năm 1998, khi Hugo Chávez được bầu lần đầu tiên, và các định chế chính phủ đã được xem một cách rộng rãi là không hiệu quả và suy sụp.

Về kinh tế, Indonesia đã thịnh vượng dưới thời Yudhoyono. Thu nhập bình quân đầu người của Indonesia đã tăng gấp ba giữa 2004 và 2012 (từ US$1.161 lên $3.557), và tầng lớp trung lưu đã mở rộng nhanh chóng. Indonesia bây giờ khoe khoang về 74 triệu người trung lưu và người tiêu dùng giàu có, một nhóm người tăng 8 đến 9 triệu người mỗi năm.3 Tăng trưởng kinh tế hầu hết đã trên 5 phần trăm trong nhiệm kỳ của Yudhoyono, với Indonesia đạt địa vị của một nền kinh tế một ngàn tỷ dollar trong năm 2014. Lần nữa, tình hình đã rất khác ở Venezuela trước sự tiếp quản của Chávez – ở đó, thu nhập đầu người đã giảm một nửa trong bảy năm trước thắng lợi năm 1998 của ông ta.

Bất chấp sự ổn định nói chung của chính thể và nền kinh tế, sự bất mãn đáng kể với Yudhoyono (và chính trị elite nói chung) đã đang lên men. Diễn giải tối thiểu chủ nghĩa của Yudhoyono về củng cố dân chủ (tức là, sự ưa thích của ông cho ổn định hóa status quo hơn là thúc đẩy những cải cách thêm) đã tạo ra một cảm giác về sự ngưng trệ chính trị xã hội, đặc biệt trong nhiệm kỳ hai của ông (2009–14). Trong thực tế, Yudhoyono bị giới hạn nhiệm kỳ đã không khởi động một sáng kiến chính sách đáng kể duy nhất nào trong nhiệm kỳ hai (và cuối cùng) của ông, làm thất vọng những người bỏ phiếu đã bầu lại ông trong một thắng lợi long trời lở đất năm 2009. Kết quả là, sự mến mộ dân chúng của Tổng thống đã suy sụp – giảm từ 75 phần trăm trong tháng Mười Một 2009 xuống 47 phần trăm tháng Sáu 2011 và 30 phần trăm vào tháng Năm 2013.4 Nó đã chỉ phục hồi chút ít trong năm 2014 khi các cử tri chuyển sự chú ý của họ sang các ứng viên ganh đua để kế vị ông.

Yudhoyono đã bị phê phán đặc biệt vì sự thất bại của ông để chế ngự tham nhũng. Trên thực tế, Đảng Dân chủ (PD) của ông đã trở thành biểu tượng của sự câu kết và thói bao che dung túng tràn lan gây tai họa cho Indonesia. Chủ tịch đảng Anas Urbaningrum đã bị buộc tội năm 2013 và muộn hơn đã bị bắt, cũng như người được ưa thích một thời để kế vị ông, Bộ trưởng Bộ Thể thao và Thanh niên Andi Mallarangeng. Hai Bộ trưởng khác của PD cũng đã dính đến các vụ tai tiếng tham nhũng, với con trai của một trong hai người đã bị bắt trong tháng Sáu 2014. Con trai Tổng thống và Tổng thư ký của đảng, Edhie Baskoro Yudhoyono, đã được nhắc đến trong nhiều vụ xử tham nhũng, tuy không lời buộc tội nào được đưa ra chống lại ông. Những người Indonesia cũng đã chau lông mày vào danh sách các ứng viên lập pháp 2014 của PD, mà bao gồm không ít hơn mười lăm thành viên gia đình Yudhoyono.

Nhưng phần lớn sự vỡ mộng với chính phủ Yudhoyono đã liên quan đến chính sách kinh tế và xã hội. Mặc dù tình trạng chung của nền kinh tế đã lành mạnh dưới thời Yudhoyono, và các số thống kê nghèo khổ và thất nghiệp đã có vẻ ấn tượng (giữa 2004 và 2013, tỷ lệ nghèo đã giảm từ 16,7 xuống 11,4 phần trăm, và thất nghiệp đã giảm từ 9,9 xuống 5,9 phần trăm), 43 phần trăm người Indonesia vẫn sống dưới $2 một ngày.5  Nhiều trong số những người nghèo cảm thấy họ đã không được lợi từ sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Hầu hết các kinh tế gia thống nhất, lưu ý rằng phần lớn “cơn bột phát” của Indonesia đã được gây ra bởi khu vực hàng hóa thâm dụng vốn, chứ không bởi chế tác thâm dụng lao động. Nói cách khác, phần lớn tăng trưởng đã làm cho người giàu giàu hơn, trong khi tạo ra ít ích lợi cho các giai cấp dưới. Gây ấn tượng mạnh, hệ số Gini, cho biết mức bất bình đẳng trong xã hội (0 biểu thị sự bình đẳng hoàn toàn của phân bố thu nhập; 1 biểu thị sự bất bình đẳng hoàn toàn), đã đạt mức cao kỷ lục 0,413 trong năm 2013. Như thế, trong khi Indonesia của Yudhoyono đã không bày tỏ các đặc điểm thông thường của một chính thể suy tàn, đã có đủ nguồn bất mãn cho những kẻ thách thức dân túy để khai thác.

Cả hai ứng viên kế vị Yudhoyono đã sử dụng sự bực tức dồn nén của những người Indonesia cho thế lợi của họ, nhưng theo cách rất khác nhau. Về phần mình, Prabowo đã giới thiệu mình như một người dân túy mạnh mẽ cổ điển, quở trách sự yếu kém và tham nhũng của giai cấp chính trị Indonesia. Cho rằng tài nguyên của đất nước đã bị bán rẻ cho những người nước ngoài, ông đã hứa bảo vệ sự giàu có của quốc gia và khôi phục sự kiêu hãnh của nó. Vay mượn từ các kịch bản của Chávez và người Thái hùng mạnh Thaksin Shinawatra, Prabowo đã kêu gọi người nghèo, đưa ra cho họ một catalog chi tiết về sự giúp đỡ. Ông thậm chí đã tiếp quản một tổ chức nông dân trong năm 2004 – một nước đi được thiết kế để che dấu địa vị như một triệu phú mà chiến dịch tranh cử của ông được cấp tiền bởi em ông, Hashim Djojohadikusumo, một trùm tư bản. Trên thực tế, cả Prabowo và Hashim đã là những kẻ tìm kiếm đặc lợi nguyên mẫu, có được của cải thông qua các mối quan hệ và các danh mục đầu tư tài nguyên thiên nhiên.6 Prabowo đã không chỉ là một người xa lạ với nghèo khổ mà ông hứa khắc phục; ông cũng đã tham gia vào chính việc khai thác tài nguyên thiên nhiên mà ông phê phán kịch liệt đến vậy.

Phóng chiếu một hình ảnh mạnh mẽ xuất phát chủ yếu từ lịch sử của ông với tư cách một chủ huy các Lực lượng Đặc biệt dưới chế độ Trật tự mới của Suharto, Prabowo đã lôi cuốn các mảng cử tri bảo thủ. Nhưng sự nghiệp quân sự của ông là một tài sản nợ chính trị cũng nhiều như một tài sản có. Trong năm 1997 và 1998, đơn vị của Prabowo đã bắt cóc ít nhất 22 nhà hoạt động chống chế độ, 13 người trong số đó đã chẳng bao giờ tái xuất hiện. Prabowo được cho là phải chịu trách nhiệm về các sự kiện này và bị sa thải khỏi quân đội tháng Tám 1998. Sau đó ông đã đi lưu vong ở Jordan trước khi trở về Indonesia năm 2001 để khởi động sự nghiệp chính trị của ông. Trong năm 2004, ông đã không thành công tìm kiếm sự đề cử làm ứng viên Tổng thống của Golkar, bộ máy bầu cử trước kia của Suharto, sau việc đó ông đã lập đảng riêng của mình, Gerindra. Trong năm 2009, Prabowo đã là ứng viên phó Tổng thống của Megawati Sukarnoputri, nhưng Yudhoyono đã đánh bại cặp này trong một chiến thắng vang dội. Các vụ bắt cóc đã đè nặng tất cả các cuộc vận động hậu-Suharto của Prabowo, nhưng đã đóng một vai trò đặc biệt trong huy động các nhóm xã hội dân sự chống lại việc đề cử ông năm 2014. Thế mà một số thăm dò dư luận đã gợi ý không chỉ rằng một số đáng kể những người Indonesia đã không biết hoặc không quan tâm đến quá khứ của Prabowo, mà cả rằng một số đã thậm chí ủng hộ ông bởi vì việc đó.7  Có lẽ, họ đã coi những vi phạm nhân quyền của ông như một dấu hiệu của sự cứng rắn và sự hiến dâng cương quyết cho nhà nước.

Về chính trị, Prabowo đã đưa ra đề nghị quay lại một chính thể trong đó sự lãnh đạo Tổng thống sẽ phá vỡ sự không ăn khớp của các lợi ích mà nền dân chủ đã gây ra. Trong nhiều bài phát biểu và tuyên bố, ông đã đề xuất phục hồi phiên bản gốc của Hiến pháp 1945 đã được dùng như nền tảng của các chế độ của cả Suharto và tiền nhiệm của ông Sukarno (Tổng thống sáng lập của Indonesia).8  Kể từ 1998, hiến pháp đã được sửa đổi bốn lần, để đưa ra các cuộc bầu cử trực tiếp Tổng thống, một Quốc hội mạnh hơn, một hiến chương nhân quyền, và một hệ thống kiểm soát và đối trọng mới. Việc quay lại Hiến pháp 1945 sẽ có nghĩa là hủy tất cả các cải cách hậu-Suharto này và khôi phục khung khổ độc đoán trước. Prabowo đã không biện hộ chương trình nghị sự này: Ông đã tuyên bố rằng các cuộc bầu cử trực tiếp là một ý tưởng Tây phương không phù hợp với Indonesia và, hơn nữa, rằng, chúng quá tốn kém và gây ra tham nhũng.9

Tuy vậy, trái ngược với các cuộc vận động dân túy thành công của Chávez và Thaksin, Prabowo đã làm phiền việc thu hút các cử tri mục tiêu của ông, những người nghèo nông thôn. Một cách nghịch lý, Prabowo đã được nhiều sự ủng hộ từ các cử tri giàu có, đô thị, và được giáo dục tốt. Một thăm dò cử tri vừa bỏ phiếu đã tiết lộ rằng Prabowo đã lết sau Jokowi, 39 so với 47 phần trăm, giữa những các cử tri chỉ có trình độ tiểu học, nhưng Jokowi đã dẫn đầu, 46 so với 34 phần trăm, giữa những người tốt nghiệp đại học, một nhóm nhỏ hơn rất nhiều.10  Tương tự, Prabowo lết sau Jokowi với 37 so với 47 phần trăm giữa các cử tri có thu nhập thấp (dưới $100 một tháng), nhưng đã vượt Jokowi với 45 so với 39 phần trăm những người có thu nhập cao hơn (trên $200 hàng tháng). Prabowo cũng đã lết sau ở vùng nông thôn, 38 so với 47 phần trăm, trong khi dẫn trước ở các thành phố 42 so với 40 phần trăm. Các cuộc thăm dò đã cho thấy rằng các cử tri tầng lớp trên đã ủng hộ Prabowo bởi vì họ coi ông như người có kinh nghiệm, tự tin, và tinh tế hơn so với Jokowi không viển vông và khá thô, và sức lôi cuốn của ông giữa quần chúng nông thôn đã chọc tức nhiều người thành thị. Chung cuộc, tuy vậy, sự ủng hộ Prabowo giữa các công dân giàu có của Indonesia đã không đủ để bù cho sự thiếu hụt của ông giữa các giai cấp thấp hơn.

Những người Indonesia nghèo ở nông thôn đã cảm thấy được Jokowi lôi cuốn một cách tự nhiên, ngăn cản những cố gắng của Prabowo để tranh thủ các cử tri đó. Không giống Prabowo, Jokowi đã gới thiệu mình như một người dân túy – nhưng thuộc một loại rất khác. Trái ngược với hầu hết các nhà dân túy thường, ông đã không chê bai sự suy đồi chung của nhà nước và xã hội; ông đã không thử đóng vai người nghèo chống lại người giàu; và ông đã không kích động chống lại những ảnh hưởng nước ngoài. Thay vào đó chủ nghĩa dân túy của Jokowi đã là thực dụng, ôn hòa, và dung nạp. Ông đã có khả năng huy động các giai cấp thấp hơn mà không sử dụng vốn tiết mục điển hình của lối nói hoa mỹ dân túy “cứng rắn” chủ yếu bởi vì nguồn gốc và cách sống khiên tốn của ông. Sinh năm 1961 ở Solo, Jokowi đã xây dựng một doanh nghiệp nhỏ về đồ nội thất trước khi tranh cử chức thị trưởng của thành phố quê ông năm 2005. Nhanh chóng có được uy tín vì việc giải quyết vấn đề và sự hiến dâng để cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe và giáo dục đáng tin cậy, Jokowi đã thắng dễ dàng cuộc bầu cử lại trong năm 2010. Tuy vậy, cũng quan trọng như các thành tựu của mình ông đã cẩn trọng nuôi dưỡng hình ảnh cá nhân của ông: Mặc đồ rẻ tiền và nói theo cách bình thường, không tao nhã, Jokowi đã trông và nghe giống một người Indonesia trung lưu thấp trung bình, khiến ông có vẻ giống người tương phản với các chính trị gia elite Indonesia điển hình.11

Với vóc dáng tầm quốc gia của ông tăng lên sau 2010, Jokowi được sự chú ý của các lãnh tụ đảng của Indonesia. Mặc dù Jokowi về danh nghĩa đã là một đảng viên của đảng Dân chủ chiến đấu Indonesia (PDI-P) đa nguyên và dân tộc chủ nghĩa của Megawati, ông đã ít quan tâm đến hoạt động của đảng. Nhưng trong năm 2012, Megawati đã biệt phái Jokowi ra tranh cử trong các cuộc bầu cử thống đốc Jakarta chống lại một người đương chức có vẻ vô địch. Lý thú là, Prabowo  và  Hashim  đã ủng hộ sự đề cử  Jokowi – một nước đi họ đã thấy hối tiếc. Phát triển một cuộc vận động cơ sở và phương tiện xã hội hiệu quả, Jokowi đã đi tiếp một cách bất ngờ để thắng cuộc bầu cử. Thắng lợi này đã là bước đột phá lớn của ông như một ngôi sao truyền thông quốc gia – từ đó trở đi, ông đã là một người ngồi lỳ đều đặn trên TV và các site tin tức trên Internet. Media cũng đã giúp ông quảng bá các thành tựu của ông với tư cách thống đốc mới của thủ đô. Trong vòng mấy tuần sau khi nhậm chức, ông đã khởi động một sơ đồ chăm sóc sức khỏe mở cửa bệnh viện của Jakarta cho người nghèo; ông đã đưa ra một chương trình học bổng mới cho các học sinh từ các gia đình có thu nhập thấp; ông đã ưu tiên hệ thống giao thông nhanh đại chúng đã bị chậm trễ từ lâu. Vào đầu 2013, Jokowi đã đột ngột dẫn đầu các cuộc thăm dò dư luận về các ứng viên Tổng thống khả dĩ, và tuy ban đầu Megawati đã có vẻ lưỡng lự, bà đã trao cho ông sự đề cử của đảng bà trong tháng Ba 2014.

Nhưng mặc dù Jokowi đã có được những mức chưa từng thấy về sự nổi tiếng cá nhân, ông đã không trình bày được một chiến lược hay tầm nhìn chính trị rõ ràng cho pha tiếp theo của sự dân chủ hóa Indonesia. Khi được các nhà báo hỏi, Jokowi đã khẳng định sự ủng hộ mạnh mẽ cho khung khổ dân chủ hiện tồn của Indonesia, hứa làm cho nó hiệu quả hơn. Nhưng ông đã thường bày tỏ sự ngạc nhiên khi bị đặt câu hỏi này, chỉ ra các nhiệm kỳ của ông ở Solo và Jakarta như bằng chứng của lòng tin của ông vào tính công khai, minh bạch, và sự công bằng dân chủ.

Tin chắc rằng việc này sẽ là đủ để gây ảnh hưởng các cử tri, ông đã tự kiềm chế không xây dựng một chương trình nghị sự dân chủ mạch lạc để phản lại tầm nhìn dân túy và tân độc đoán của Prabowo. Thay vào đó, ông đã tập trung vào nuôi dưỡng hình ảnh của mình như một người khiêm tốn của nhân dân, tổ chức cuộc vận động của ông như một loạt các cuộc viếng thăm các chợ và các quán ăn ven đường. Trong khi đi diễn thuyết khắp nơi cho các ứng viên lập pháp của PDI-P trong tháng Tư 2014, ông đã từ chối  đề cập đến các vấn đề cương lĩnh, và chỉ từ từ phát triển một cương lĩnh cho cuộc vận động tranh cử Tổng thống trong tháng Sáu và tháng Bảy. Sự mến mộ của dân chúng đối với ông do đó đã tụt. Trong tháng Mười Hai 2013, ông đã dẫn trước Prabowo 39 điểm phần trăm (62 so với 23 phần trăm), và tiếp theo, sự dẫn đầu của Jokowi đã thu hẹp chỉ còn 16 điểm (52 so với 36 phần trăm), và vào tháng Sáu, ông và Probowo đã suýt soát ở 46 với 45 phần trăm, một cách tương ứng.12 Jokowi, có vẻ, đã hướng tới thất bại, cùng với nền dân chủ mà những người Indonesia đã xây dựng từ 1998.

Việc Jokowi cuối cùng đã thắng thế – và nền dân chủ Indonesia đã sống sót – phần lớn là do những diễn tiến trong ba lĩnh vực then chốt của sự tranh cãi dân chủ: 1) sự căng thẳng hình mẫu giữa sự huy động cơ sở do công dân dẫn dắt và chính trị bộ máy đầu sỏ; 2) sự cạnh tranh giữa sự điều độ và tính chiến đấu dân túy; và 3) sự đàm luận về tầm quan trọng của các cuộc bầu cử cho nhà nước quốc gia Indonesia.

Chính trị Bộ máy vs. Hành động Tình nguyện Cơ sở

Một trong những thảo luận quan trọng nhất giữa các nhà khoa học chính trị tập trung vào Indonesia trong thập niên vừa qua đã liên quan tới vai trò của những kẻ đầu sỏ trong hoạt động chính trị dân chủ.13 Trong khi một số học giả đã khẳng định rằng những kẻ đầu sỏ đang kiểm soát các định chế và các thủ tục dân chủ của Indonesia (bằng việc có khả năng tài trợ hay kiểm soát trực tiếp các bộ máy chính trị bảo vệ các lợi ích của họ), các học giả khác – kể cả tác giả này – đã mô tả hoạt động chính trị hậu độc đoán như một cuộc tranh cãi đang tiếp tục và thường là cân bằng ngang nhau giữa các lực lượng đầu sỏ và không đầu sỏ.14  Có thể cho rằng, sự cân bằng này lần nữa đã biểu lộ trong các cuộc bầu cử 2014, với chiến dịch của Prabowo dựa vào chính trị bộ máy đầu sỏ, trong khi cuộc vận động của Jokowi phần lớn đã phụ thuộc vào những người tình nguyện cơ sở. Và cuối cùng, bộ máy bầu cử được tài trợ tốt của Prabowo đã thất bại, song chỉ với một sự chênh lệch nhỏ.

Hệ thống bầu cử Tổng thống trực tiếp của Indonesia, được đưa vào năm 2004, đã tạo ra một môi trường trong đó chính trị bộ máy được dẫn dắt bằng tiền là một phần quan trọng của cạnh tranh bầu cử. Để có đủ tư cách cho việc bỏ phiếu, các ứng viên Tổng thống phải có được sự ủng hộ của các đảng hay của liên minh các đảng đã nhận được hơn 20 phần trăm số ghế hoặc 25 phần trăm phiếu bầu trong các cuộc bầu cử Quốc hội trước đó. Được thiết kế để hạn chế số các ứng viên và để cho Tổng thống sắp nhậm chức một cơ sở quyền lực ở Quốc hội, quy định này đã trao cho các bộ máy đảng một vai trò then chốt trong các cuộc vận động bầu Tổng thống. Prabowo, về phần mình, đã kết hợp một liên minh bảy đảng chính trị lại với nhau, kể cả bốn đảng với các bộ máy được thử thách: Golkar; PKS (đảng Công lý thịnh vượng) Islamist, có một mạng lưới mạnh các nhà hoạt động trung thành; đảng Gerindra của riêng Prabowo; và đảng PD của Yudhoyono. Bản thân Tổng thống ban đầu đã trung lập, nhưng đã tiếp Prabowo tại dinh thự riêng của ông vài ngày trước bầu cử – một nước đi được diễn giải rộng rãi như sự xác nhận của Yudhoyono cho Prabowo.

Đúng như cơ sở hạ tầng hiện tồn của các đảng là quan trọng, các nhà lãnh đạo đầu sỏ tài trợ cho chúng cũng quan trọng. Những người này đã gồm chủ tịch Golkar, Abdurizal Bakrie, một ông trùm tư bản với tài sản $2,45 tỷ nhưng cũng có nợ đáng kể;15 em trai của Prabowo và nhà bảo trợ đảng Gerindra, Hashim Djojohadikusumo có tài sản ước tính $700 triệu; bản thân Prabowo, người đã khai tài sản khoảng $160 triệu cho Ủy ban Bầu cử; và ứng viên phó Tổng thống của ông, Hatta Radjasa, chủ tịch đảng Ủy nhiệm Quốc gia (PAN), người đã khai tài sản chỉ $3 triệu, nhưng được cho một cách rộng rãi là có sự ủng hộ của Muhammad Riza Chalid một nhà buôn dầu giàu có. Ngoài các đầu sỏ đảng này ra, Prabowo đã tìm thêm sự ủng hộ của Hary Tanoesoedibjo, một ông trùm tư bản có gốc Hoa người có tài sản thuần $1,4 tỷ và – quan trọng – đã sở hữu ba đài TV với thị phần khoảng 40 phần trăm. Nhìn tổng thể, thì bộ máy của Prabowo đã được tra dầu mỡ tốt, như được minh chứng bởi tính chuyên nghiệp của những quảng cáo trên media của nó và tốc độ mà tiền đã đến các thành phần địa phương của bộ máy.

Công việc của các bộ máy chính trị của Prabowo (cả được vận hành bởi các đảng lẫn hoạt động bên ngoài các đảng) đã tỏ ra là công cụ đắc lực cho các cố gắng huy động cử tri của ông. Thí dụ, các đảng bộ và các nhà hành động khác ủng hộ Prabowo đã tổ chức các cuộc meeting của các lãnh đạo địa phương có ảnh hưởng; đã phân phát tiền cho các trưởng thôn hay các nhóm tôn giáo, sắc tộc, và xã hội; và đã hứa phân phát các lợi ích phúc lợi và các dự án nếu Prabowo thắng. Tính hiệu quả của chiến dịch này đã đặc biệt dễ thấy giữa những người ủng hộ của các đảng khác nhau tụ hợp trong liên minh Prabowo. Trong khi vào lúc đầu chiến dịch, nhiều cảm tình viên của các đảng thuộc liên minh Prabowo đã tuyên bố ý định của họ để bỏ phiếu cho Jokowi, theo thời gian phần lớn đã cúi mình theo mong muốn của ban lãnh đạo của họ. Ngay trước ngày bầu cử, 81 phần trăm các cử tri PKS đã cam kết ủng hộ Prabowo (tăng từ 53 phần trăm hai tuần trước), như 56 phần trăm cử tri Golkar đã hứa (tăng từ 43 phần trăm), 50 phần trăm cử tri PD (tăng từ 37 phần trăm), và 90 phần trăm cử tri Gerindra.16

Nhưng dẫu bộ máy của Prabowo có hiệu quả đến đâu, đã có những giới hạn về tầm với của nó. Những người hành động ở địa phương của Prabowo đã thú nhận rằng các lãnh tụ cộng đồng và các cử tri mà họ có khả năng huy động đã thiếu nhiệt tình. Một phụ nữ có nhiệm vụ phân phát tiền cho các giáo sĩ Muslim ở Madiun, Đông Java, đã thú nhận rằng “nếu giả như họ đã không nhận được khuyến khích, tất cả họ đã bỏ phiếu cho Jokowi.”17 Tương tự, người thăm dò ý kiến chính của Prabowo ở Đông Java đã dự đoán đúng, “Prabowo có thể dẫn đầu trong thăm dò dư luận, nhưng các cử tri của Jokowi tận tâm hơn – và họ sẽ tập hợp mạnh mẽ vào ngày bỏ phiếu.”18 Quả thực, tỷ lệ đi bỏ phiếu tương đối thấp 69,6 phần trăm ngụ ý rằng nhiều công dân hứa bỏ phiếu cho Prabowo rốt cuộc đã ở nhà. Một nhân tố then chốt trong quyết định của cử tri để không bỏ phiếu đã là sự bất lực của bộ máy của Prabowo để tiến hành mua phiếu một cách có hệ thống. Tuy ứng viên đã có thể có đủ sức để phân phát các số tiền nhỏ cho các lãnh đạo xã hội – và đã có những báo cáo riêng biệt về mua phiếu bầu – ngay cả các két tiền đầu sỏ của Probowo hợp lại đã không được nhồi đủ để đưa tiền cho mỗi trong số 194 triệu cử tri của Indonesia. Việc này, tất nhiên, đã khác hoàn toàn với các cuộc bầu cử Quốc hội, khi hơn 230.000 ứng viên đã cạnh tranh vì các lá phiếu, nhiều trong số họ bằng cách phân phát tiền mặt (xem tiểu luận của Edward Aspinall ở pp. 96–110 [trong cùng số Journal of Democracy]).

Ngược lại, Jokowi đã giao chiến dịch của mình cho những người tình nguyện cơ sở nhiều hơn cho các chính trị gia bộ máy. Chắc chắn, việc này đã không hoàn toàn do lựa chọn. Bốn đảng chính trị ủng hộ việc đề cử Jokowi: PDI-P; đảng Thức tỉnh Quốc gia (PKB), một đảng Muslim theo chủ nghĩa truyền thống; NasDem (đứng đầu bởi ông trùm media Surya Paloh, có tài sản được ước tính $100 triệu); và Hanura, đứng đầu bởi Wiranto, một cựu tư lệnh lực lượng vũ trang và đối thủ của Prabowo. Thêm vào bốn đảng này, ứng viên phó Tổng thống của Jokowi là một cựu phó Tổng thống giàu có và một nhân vật của Golkar, Jusuf Kalla. Nhưng bộ máy đảng của PDI-P – giả sử là động cơ chính của cuộc vận động – đã không hoạt động trơn tru. Trước hết, một phái mạnh bên trong ban lãnh đạo trung ương của đảng, kể cả con gái của Megawati, Puan Maharani, đã coi Jokowi như một người mới đến không xứng đáng sự ủng hộ của PDI-P và vì thế đã làm chậm việc giải ngân các quỹ vận động từ nhiều nhà tài trợ lớn của đảng. Kết quả là, các đảng bộ địa phương đã gặp rắc rối để tiến hành các hoạt động có hệ thống. Hơn nữa, nhiều lãnh đạo địa phương của PDI-P đã bị thất vọng bởi sự bất lực của Jokowi để tăng thành tích của đảng trong các cuộc bầu cử Quốc hội (nó đã chỉ được 19 phần trăm số phiếu), và như thế đã cảm thấy không có nghĩa vụ làm việc cho ông.

Thay cho một bộ máy đảng có thể làm việc, Jokowi đã dựa nhiều vào một mạng lưới được điều phối lỏng lẻo của các tình nguyện viên. Những người này gồm các nhà chuyên nghiệp trẻ quảng cáo ông trên mạng truyền thông xã hội; các sinh viên tổ chức các mạng hỗ trợ; các nhà hoạt động vươn tới các cộng đồng của họ; và các nhân vật tôn giáo Muslim và non-Muslim. Trong khi hầu hết những người tình nguyện này đã làm việc một cách độc lập, đã có hai tổ chức thử thực thi một mức điều phối tối thiểu: Ban thư ký Quốc gia cho Jokowi (Seknas Jokowi) và Pro-Jo. Jokowi đã xem chúng như các trụ cột chính của chiến dịch của mình và đã thường đến thăm các văn phòng địa phương của chúng trước các đảng bộ PDI-P.

Hơn nữa, Jokowi đã là ứng cử viên Tổng thống đầu tiên trong lịch sử Indonesia để khởi động một nỗ lực huy động quỹ đáng kể dựa trên cộng đồng. Trong một lời ám chỉ tinh tế cho PDI-P rằng ông đã biết các khoản quỹ cho ông đã bị giữ lại, Jokowi đã kêu gọi những người ủng hộ mình tặng tiền cho cuộc vận động của ông. Bình thường trong các nền dân chủ được củng cố hơn, việc này đã là mới ở Indonesia, nơi các cuộc vận động thường được tài trợ bởi những kẻ đầu sỏ, các nhóm lợi ích, và bản thân các ứng viên. Trong đợt vận động, Jokowi đã gom được ít nhất $3,8 triệu từ hơn 40.000 nhà tài trợ cá nhân được báo cáo chính thức, so với khoảng $200.000 mà Prabowo đã nhận được từ 47 nhà tài trợ cá nhân.19

Thắng lợi 2014 của chiến dịch do tình nguyện viên cơ sở dẫn dắt của Jokowi, tuy vậy, không là dấu hiệu rằng sự chấm dứt của chính trị bộ máy đầu sỏ ở Indonesia là gần. Chính bộ máy được bôi trơn bằng tiền của Prabowo đã là cái biến ông ta từ một kẻ bên ngoài, mà hầu hết nhà quan sát đã cho là không thể bầu được, thành một ứng viên Tổng thống đối thủ hết sức cạnh tranh. Tương tự, ngay cả cuộc vận động của Jokowi đã không thể vận hành mà không có sự ủng hộ của các nhà hảo tâm và các chính trị gia giàu có đã cung cấp ngân quỹ khẩn cấp khi PDI-P không chi tiền được phân bổ cho bầu cử. Các chuyến đi vận động của Jokowi khắp quần đảo mênh mông, việc in các áo ngắn tay và các biểu ngữ vận động, việc thuê các phương tiện vận động – tất cả đã cần đến sự ủng hộ của các nhà tài trợ. Việc này không biến Jokowi thành một “công cụ của bọn đầu sỏ” như kẻ đầu sỏ Prabowo đã gợi ý một cách khá phi lý sau thi thua cuộc bầu cử, nhưng nó chỉ ra tầm quan trọng liên tục của tiền và hoạt động chính trị bộ máy có tổ chức ở Indonesia hậu-Suharto.

Chủ nghĩa Dân túy gây Chia rẽ vs. sự Điều độ

Một lĩnh vực tranh cãi khác trong các nền dân chủ – đặc biệt trong các xã hội hậu độc đoán – thả tính chiến đấu dân túy ra chống lại sự điều độ chính trị. Các nền dân chủ đang hoạt động cần thích nghi và tổng hợp những quan điểm đa dạng khác nhau nhằm duy trì tính hợp pháp của chúng, trong khi các nhà dân túy cực đoan than vãn cách tiếp cận này như một dấu hiệu của sự yếu kém, thỏa hiệp, và sự lãnh đạo không hiệu quả. Nhiều sự đảo ngược dân chủ, như thế, bắt đầu với ý kiến dân túy có được ưu thế trên các quan điểm thực dụng, đa nguyên.20 Ở Indonesia hậu-Suharto, mọi Tổng thống đã đều tránh lối nói cực đoan hoặc gây chia rẽ. Thay vào đó, tất cả họ đều thử đưa ra một hình ảnh về một Indonesia ôn hòa, dung nạp, và cởi mở, cả cho công chúng trong nước của họ và cho thế giới bên ngoài. Trong khi bức tranh này đã luôn hơi gây lạc lối – đặc biệt dưới thời Yudhoyono, khi các nhóm Islamic chiến đấu đã công khai kích động chống các thiểu số tôn giáo – nó đã là lối nói hoa mỹ chính thức của chính trị dòng chủ lưu.

Prabowo đã thách thức sự đồng thuận điều độ này theo nhiều cách. Để bắt đầu, ông đã khẳng định rằng các chính trị gia dòng chủ lưu của Indonesia đã cho phép các lực lượng bên ngoài bóc lột đất nước, từ chối tính vĩ đại quốc gia mà một thời đã và vẫn xứng đáng. Prabowo đã thúc đẩy quan điểm dân túy này với không chỉ lời nói của ông mà cả diện mạo của ông. Ông đã mặc giống Tổng thống sáng lập Sukarno – nguyên thủ quốc gia duy nhất trong lịch sử đất nước đã làm theo một lối nói khoa trương chiến đấu và đối đầu trong việc theo đuổi các mục tiêu của mình. Prabowo đã bắt chước những cử chỉ và những điểm thắt nút của Sukarno, sử dụng một microphone cổ để nhấn mạnh những sự giống nhau. Nhưng ông đã đi còn xa hơn Sukarno, gắn chiến dịch của ông với những hình ảnh của các cuộc chiến tranh chống thực dân trong thế kỷ thứ mười chín. Trong tháng Ba, Prabowo đã xuất hiện trong sân vận động chính của Jakarta mặc một bộ đồ chiến tranh giả của người Java, bổ sung bằng một dao găm truyền thống. Cưỡi một trong những con ngựa đắt tiền của mình, ông đã duyệt một cuộc diễu hành của dân quân, các đội nhạc diễu hành, các đội bảo vệ riêng của ông. Sự kiện đã lên đỉnh cao trong một bài phát biểu nóng nảy quở trách bâng quơ (không nêu tên) những kẻ nói dối, những kẻ tham nhũng, và những kẻ yếu ớt, cũng như những cường quốc nước ngoài mà được cho là đang thử cản ông trở thành Tổng thống.

Prabowo đã không chỉ huy động các bản năng chống đế quốc có gốc rễ trong nỗi luyến tiếc quá khứ của Indonesia về cuộc đấu tranh cách mạng của những năm 1940, mà ông cũng đảm bảo sự ủng hộ của các nhóm Islamic bảo thủ và chiến đấu. Ba đảng Islamic bảo thủ nhất của Indonesia (PKS, đảng Phát triển thống nhất, và đảng Trăng lưỡi liềm) đã ủng hộ chiến dịch của Prabowo, như Mặt trận Những người bảo vệ Islamic chiến đấu đã ủng hộ. Cũng ủng hộ ông đã là Jafar Umar Thalib, người đứng đầu Các chiến sĩ Thánh chiến bây giờ không tồn tại nữa, một nhóm đã tiến hành thánh chiến (jihad) chống-Kitô ở các đảo Maluku trong cuối các năm 1990. Qua mạng lưới này của các đảng và các nhóm Islamist, những lời đồn đại đã lan truyền rằng Jokowi là một người Hoa Singapore và một Kitô hữu – một cuộc tấn công có tiềm năng chí tử trong một quốc gia với dân cư Muslim lớn nhất trên thế giới. Trên bề mặt, sự cống hiến của các Islamist cho sự nghiệp của Prabowo đã gây ngạc nhiên. Bản thân Prabowo đã không là một Muslim sùng đạo, và Hashim và các thành viên khác của gia đình là các Kitô hữu. Nhưng Prabowo đã sử dụng rồi mang Islamist của chính trị Indonesia như một công cụ trong các cuộc xung đột trong quân đội năm 1998, và đã đơn thuần kích hoạt lại các mối quan hệ đó trong cuộc chạy đua đến các cuộc bầu cử 2014.

Ngược lại, Jokowi đã đại diện cho dòng chủ lưu ý thức hệ mà đã tạo hình Indonesia dân chủ từ 1998. Ông nói chung đã tán thành status quo dân chủ, chỉ đề xuất một “cuộc cách mạng tinh thần” để nâng chất lượng của nền dân chủ lên mức tiếp theo; ông đã bác bỏ xu hướng riêng biệt Islamic, tuy ông đã luôn luôn giới thiệu mình như một Muslim sùng đạo; và đã kiềm chế tiến hành những tranh luận đối kháng với các đối thủ chính trị của mình, bất chấp các cuộc tấn công mà chiến dịch của Prabowo đã giáng vào ông. Jokowi cũng đã từ chối để hoàn toàn chấp nhận lập trường rất được dân ưa chuộng của Prabowo về chủ nghĩa dân tộc kinh tế – tức là sự cần thiết để bảo vệ các thị trường địa phương khỏi mối đe dọa của toàn cầu hóa. Bị Prabowo hỏi tại một trong những cuộc tranh luận được truyền hình, Indonesia phải làm gì về những hợp đồng với các công ty khai khoáng gây bất lợi cho quốc gia, Câu trả lời của Jokowi đã làm nổi bật quan điểm ôn hòa và thực dụng của ông: các hợp đồng này bị ràng buộc pháp lý, ông nói, và Indonesia phải tôn trọng chúng cho đến khi chúng hết hạn. Trong quá trình thương lượng gia hạn hợp đồng, ông tiếp tục, Indonesia khi đó có thể kiên quyết đòi các điều kiện tốt hơn. Phá vỡ các hợp đồng hiện tồn, Jokowi xác nhận, có thể dẫn đến kiện cáo quốc tế và chính phủ tốn thất hàng tỷ dollar. Sự tương phản với lối nói khoa trương tham chiến của Prabowo đã không thể là rõ hơn.

Có vẻ, một đa số mỏng manh của các cử tri đã coi chủ nghĩa thực dụng không đối đầu của Jokowi như lựa chọn an toàn hơn cho Indonesia. Trong khi sự phô diễn dân tộc chủ nghĩa khoe khoang cốt để gây ấn tượng, các bài diễn thuyết, và các cuộc tấn đông đối thủ của Prabo đã gây ấn tượng cho nhiều người Indonesia, nó ngăn cản còn nhiều người hơn. Các cử tri nữ, đặc biệt, đã cho biết sớm rằng họ sẽ không bỏ phiếu cho ông. Các cuộc thăm dò trước bầu cử đã nhất quán cho thấy Prabowo dẫn trước Jokowi một chút giữa những người đàn ông nhưng lết sau ông giữa các phụ nữ với khoảng 8 điểm phần trăm.

Hơn nữa, Prabowo đã đánh giá quá cao mức độ bất mãn của cử tri với chính thể hiện tồn. Tuy cử tri đã bất mãn với thành tích của Yudhoyono, họ đã không thấy cần thay đổi triệt để chế độ. Được hỏi trong tháng Tư 2014 họ nghĩ gì về tình trạng của nền kinh tế, chẳng hạn, 39 phần trăm người trả lời nói rằng nó đã được cải thiện trong năm vừa qua; 36 phần trăm nói nó vẫn thế; và chỉ 23 phần trăm nghĩ rằng nó đã tồi đi.21  Rõ ràng những sự quả quyết dữ dội của Prabowo rằng nền kinh tế Indonesia đã rách rưới và hiện trạng chính trị là không thể chịu đựng được đã không đủ thuyết phục để gây ảnh hưởng đến đa số cử tri. Tuy vậy, chúng đã đẩy một ứng viên được lòng dân của dòng chủ lưu ôn hòa đến bờ của sự thất bại.

Dân chủ Bầu cử vs. Chủ nghĩa Độc đoán

Trận then chốt thứ ba trong cuộc bầu cử này đã là giữa sự ủng hộ các cuộc bầu cử cạnh tranh như phương tiện chính cho sự đại diện dân chủ và sự bôi nhọ chúng bởi những người chủ trương một chủ nghĩa tập thể được định nghĩa mập mờ. Trong các xã hội chuyển đổi, các cuộc bầu cử dân chủ bị tấn công theo hai cách: Thứ nhất, chúng dễ bị tổn thương với các nhà chuyên quyền bầu cử những người muốn thao túng các cuộc bầu cử trong khi dùng chúng như một nguồn của tính chính đáng;22 và thứ hai, chúng bị đe dọa bởi tư duy phản dân chủ từ chối các cuộc bầu cử cạnh tranh về nguyên tắc – như ở Thái Lan, chẳng hạn, nơi quân đội, các chính trị gia bảo hoàng, và một bộ phận của giai cấp tư sản đã kích động chống các cuộc bầu cử sau khi liên tục thua.

Năm 2014, Prabowo đã đề xuất một chương trình nghị sự thù địch công khai với khung khổ bầu cử hiện tồn của Indonesia. Ông cũng đã thử can thiệp vào quá trình bầu cử, ngay cả khi ông đã thua rồi. Prabowo đã tuyên bố bằng lời lẽ chung rằng ông muốn Indonesia quay lại Hiến pháp 1945, ý nói bỏ các cuộc bầu cử Tổng thống trực tiếp. Đây là một lập trường ông đã giữ nhiều năm nhưng đã không thảo luận nó rộng rãi công khai. Vào cuối chiến dịch, tuy vậy, Prabowo đã nói cụ thể hơn quan điểm của ông về các cuộc bầu cử cả địa phương lẫn quốc gia. Trong một bài phát biểu ngày 28 tháng Sáu, Prabowo đã tuyên bố rằng các cuộc bầu cử trực tiếp là sự nhập khẩu Tây phương không mong muốn, giống như tật hút thuốc lá. Ông đã nói rằng các nhà lãnh đạo nhà nước phải được lựa chọn bởi các định chế lập pháp nửa – được bầu, như đã đòi hỏi trong hiến pháp sáng lập. (Quả thực, Suharto đã được bầu lại sáu lần bởi một cơ quan lập pháp một phần được chỉ định và một phần được bầu qua một quá trình bị thao túng). Các bình luận này đã thu hút các dòng đầu (trên báo), và Prabowo đã cảm thấy cần làm rõ. Vào ngày 30 tháng Sáu, trước một cử tọa chủ yếu gồm các nhà ngoại giao và nhà báo nước ngoài, Prabowo đã bác bỏ ý kiến rằng ông là một nhà chuyên quyền. Nhưng về vấn đề bầu cử trực tiếp, ông đã tuyên bố lại sự phản đối của ông, lần này dùng một lý lẽ khác: chúng quá tốn kém và phải thay bằng một quá trình “rẻ hơn”.

Prabowo cũng đã thử áp dụng các phương pháp cổ điển của chủ nghĩa độc đoán bầu cử để thắng cuộc đua với Jokowi. Ông không chỉ đã dùng các bộ và các chính quyền địa phương dưới sự kiểm soát của các đối tác liên minh của ông để huy động các cử tri, mà ông cũng tuyên bố giả dối thắng lợi dựa trên việc đếm nhanh phiếu bị thao túng truyền đi trên các đài TV ủng hộ Prabowo. Đếm nhanh được thiết kế một cách khoa học, đếm (ở) các trạm bỏ phiếu được chọn, nếu được làm đúng, có thể dự đoán kết quả tổng thể với mức chính xác cao cho mỗi cuộc bầu cử quốc gia ở Indonesia. Từ 2004 đếm nhanh đã chính xác, và trong 2014 tất cả các đếm nhanh được tiến hành bởi các viện thăm dò có uy tín cho thấy rằng, Jokowi đã thắng. Nhưng Prabowo đã sử dụng bốn tổ chức hoặc được sở hữu hay được tài trợ bởi các liên minh của ông để “tạo ra” các đếm nhanh chứng tỏ ông là kẻ thắng. Rồi sau đó, đội của ông đã thử can thiệp vào việc đếm chính thức. Trong một số trường hợp, những người ủng hộ Prabowo đã xoay xở để thay bằng tay các biểu mẫu ghi kết quả ở nhiều mức hành chính. Căn cứ vào sự phổ biến của những sự thao tác như vậy trong các cuộc bầu cử trước (kể cả các cuộc bầu cử Quốc hội tháng Tư), chiến dịch Prabowo đã có mọi lý do để tin rằng công việc bằng tay của họ sẽ không bị phát hiện.

Jokowi, mặt khác, đã là người tin mạnh vào các quá trình bầu cử cạnh tranh. Thực ra, ông có được sự thăng tiến nhờ chúng. Không giống hầu hết các chính trị gia elite khác ở Indonesia, sự nổi bật của Jokowi đã không xuất phát từ lai lịch quân đội, sự giàu có cá nhân, hay các mối quan hệ quan liêu. Đúng hơn, chính là các thắng lợi bầu cử của ông ở Solo và Jakarta đã đẩy ông lên tầm lỗi lạc quốc gia. Tuy bảo vệ nền dân chủ bầu cử đã không là một cơ sở tường minh của chiến dịch của Jokowi, ông đã công khai ủng hộ nó. Khi Prabowo hỏi Jokowi trong một tranh luận được truyền hình, liệu ông có chia sẻ quan điểm rằng các cuộc bầu cử địa phương trực tiếp là quá tốn kém và gây ra tham nhũng, Jokowi đã trả lời rằng các cuộc bầu cử này là phần quan trọng của nền dân chủ Indonesia và phải được duy trì. Về mặt chi phí, ông đề xuất tổ chức các cuộc bầu cử địa phương đồng thời hơn là riêng lẻ, chấp nhận một gợi ý mà các chuyên gia bầu cử đã đưa ra từ lâu. Trong phỏng vấn muộn hơn với báo chí nước ngoài, Jokowi cũng đã bác bỏ đề xuất của Prabowo để bỏ các cuộc bầu cử trực tiếp Tổng thống qua việc quay lại Hiến pháp 1945.

Mỉa mai thay, chính sự đe dọa trực tiếp của Prabowo đối với nền dân chủ bầu cử mà đã làm cho các cuộc bầu cử Tổng thống 2014 minh bạch nhất trong lịch sử đất nước. Việc đếm phiếu cho các cuộc bầu cử 2004 và 2009 đã được tiến hành chủ yếu trong các phiên kín bởi các quan chức bầu cử, và bởi vì Yudhoyono đã thắng với chênh lệch rộng, sự quan tâm đến một sự đếm chính xác đã là thấp. Việc đếm phiếu 2014, ngược lại, đã bị xem xét kỹ lưỡng bởi báo chí và các công dân quan tâm. Trong một nước đi chưa có tiền lệ, Ủy ban Bầu cử đã tải toàn bộ các biểu kê, từ tất cả các mức hành chính, lên website của nó, cho phép bất kỳ ai kiểm tra xem liệu các con số đã được ghi đúng và được báo cáo lên cấp tiếp theo hay không. Quan trọng nhất, một mạng lưới của bảy trăm người tình nguyện độc lập (nhóm chính đã được biết đến như “Bảo vệ bầu cử”) đã được thành lập để tạo ra một sự đếm phiếu song song online, cộng các con số và cập nhật chúng đều đặn lên website của nó. Những người tình nguyện này đã phơi bày ra hàng ngàn lỗi lầm của các quan chức bầu cử và gây áp lực lên Ủy ban Bầu cử để sửa chúng. Như thế, nếu đội Prabowo đã có những kế hoạch để thay đổi việc lập bảng chính thức, chúng bị cản trở bởi những cố gắng phi thường của sự giám sát công dân.

Dân chủ Sống sót

Dù thách thức dân túy của Prabowo đối với nền dân chủ Indonesia cuối cùng đã thất bại, nó đã nêu ra một số câu hỏi đáng nghiên cứu học thuật sâu hơn. Cốt yếu nhất, ở mức độ nào các cử tri Prabowo đã hiểu sự lựa chọn của họ như một lá phiếu chống lại hiện trạng dân chủ? Prabowo đã lặp đi lặp lại gọi mình là một “nhà dân chủ,” cho rằng các mưu toan để vẽ chân dung ông như một “nhà độc tài” đã có động cơ chính trị. Như thế nhiều trong số những người ủng hộ ông có thể đã tin rằng Prabowo – bất chấp đã dứt khoát kêu gọi một “đồng thuận mới” để thay thế hệ thống bầu cử trực tiếp – sẽ không làm hại nền tảng của nền dân chủ. Những người khác có thể đã tin nền dân chủ của Indonesia đủ mạnh để chịu được bất cứ mưu toan nào để sửa chữa nó. Quả thực, quan điểm này đã được nói lên thường xuyên, cả ở Indonesia và nước ngoài. Sự thất bại của Prabowo có nghĩa rằng chúng ta chỉ có thể suy đoán về các hành động nào ông đã có thể làm với tư cách Tổng thống, và liệu bất cứ cuộc tấn công nào lên nền dân chủ Indonesia có thể đã thành công hay không.

Trong bối cảnh này, là hữu ích để ngó đến thành phần cử tri của Prabowo. Trong phần lớn nhiệm kỳ hai của Yudhoyono, Prabowo đã có sự ủng hộ lõi khoảng 17 đến 20 phần trăm phiếu bầu. Có thể cho rằng, các cử tri Prabowo “cứng” này đã ủng hộ hoàn bộ chương trình nghị sự dân túy của ông: miêu tả về hệ thống hiện thời như không thể sửa chữa được; tấn công các quốc gia nước ngoài khai thác tài nguyên thiên nhiên của Indonesia; hình ảnh người quân phiệt mạnh tay của Prabowo; và nỗi luyến tiếc thời đại Suharto. Nhưng, giữa tháng Ba và tháng Bảy 2014, Probowo đã thêm vào khoảng 27 đến 30 phần trăm cử tri như những người mới được tuyển vào cơ sở của ông. Những người ủng hộ này tốt nhất có thể được mô tả như các cử tri “mềm” của Prabowo: các công dân đã bị thất vọng bởi sự thất bại của Jokowi để đưa ra một cương lĩnh rõ ràng hoặc những người đã nghĩ rằng Indonesia cần một nhà lãnh đạo cứng rắn hơn Jokowi ăn nói nhỏ nhẹ. Không chắc rằng tất cả các cử tri này – một nhóm chắc chắn bao gồm một số trong 83 phần trăm công dân hài lòng với nền dân chủ Indonesia – đã nghĩ rằng họ đã quyết định bỏ nền dân chủ khi bỏ phiếu cho Prabowo. Có thể cho rằng, một số trong những người ủng hộ “mềm” của Prabowo đã chuyển sang ủng hộ Jokowi khi triển vọng của một nhiệm kỳ Prabowo làm Tổng thống ngày càng trở nên hiện thực – số người ủng hộ Jokowi trong thăm dò dư luận đã phục hồi 2 đến 3 phần trăm trong tuần cuối của chiến dịch.

Nền dân chủ Indonesia, như thế, đã sống sót vì ba lý do chính. Thứ nhất, các điều kiện chính trị và kinh tế chung đã không thích hợp cho một sự tiếp quản dân túy thành công: Bất chấp sự bất mãn đáng kể, chính thể và nền kinh tế đã ổn định, và hầu hết nhân dân đã hài lòng với cách chính phủ và hệ thống dân chủ vận hành. Lối nói khoa trương cực đoan của Prabowo như thế đã cường điệu, gây khó chịu cho các cử tri ôn hòa, nhất là phụ nữ. Thứ hai, Jokowi đã chào mời một phiên bản nhẹ hơn của chủ nghĩa dân túy cho các cử tri mong mỏi sự thay đổi nào đó, nhưng không phải thay đổi cơ bản. Với tư cách ứng viên Tổng thống có triển vọng thành công đầu tiên trong lịch sử Indonesia không bắt nguồn từ elite quy ước của đất nước, Jokowi đã thể hiện khát vọng của các cử tri thường để được cai trị bởi người của chính họ. Vì thế, đa số cử tri Indonesia đã sẵn sàng lượng thứ cho Jokowi vì một chiến dịch lờ đờ. Cuối cùng, đã có sự ủng hộ đủ mạnh cho các cuộc bầu cử với tư cách nền tảng của nền dân chủ để làm hỏng các mưu toan của Prabowo nhằm hủy bỏ và lừa đảo chúng. Bằng cách tạo ra các mạng lưới công dân để bảo vệ thắng lợi bầu cử của Jokowi khỏi các mưu toan rành rành để thao túng, nền dân chủ Indonesia đã hoàn thành quá trình bầu cử một cách thành công.

Tất cả tin tốt lành này, tuy vậy, không được làm chúng ta sao nhãng không chú ý đến sự thực rằng các cử tri hậu-Suharto đã suýt nữa chọn một Tổng thống hứa tiến hành thí nghiệm cực đoan và nguy hiểm để khôi phục trật tự trước dân chủ của Indonesia. Nền dân chủ Indonesia vẫn còn dễ bị tổn thương, và vẫn như vậy trong các năm sắp tới.

GHI CHÚ

1. Kenneth M. Roberts, “Social Correlates of Party System Demise and Populist Resurgence in Venezuela,” Latin American Politics and Society 45 (September 2003): 35–57.

2. Indikator Politik Indonesia (IPI), “Hasil Exit Poll Pemilu Presiden RI 2014 Rabu, 9 Juli 2014,”

3. Vaishali Rastogi et , “Indonesia’s Rising Middle-Class and Affluent Consumers: Asia’s Next Big Opportunity,” bcg.perspectives, 5 March 2013.

4. Marcus Mietzner, “Indonesia: Democratic Consolidation and Stagnation Under Yudhoyono, 2004–2014,” trong William Case, , Handbook of Southeast Asian Politics (London: Routledge, sắp ra).

5. World Bank, “Poverty Headcount Ratio at $2 a Day (PPP) (% of Population),” d., http://data.worldbank.org/indicator/SI.POV.2DAY.

6. Simon Montlake, “Hashim Djojohadikusumo Returns to Indonesia After a Post-Suharto Exile,” Forbes Asia, 18 January

7. This information was provided by IPI director Burhanuddin

8. “Ini Pernyataan Prabowo Soal Nasionalisasi Aset dan Kembali ke UUD 1945,” Detik News, 7 May

9. “Prabowo Sebut Indonesia Produk Barat yang Susah Diperbaiki,” Kompas, 29 June

10. IPI, “Hasil Exit Poll Pemilu Presiden,” 21–22

11. Marcus Mietzner, “Jokowi: Rise of a Polite Populist,” Inside Indonesia 116 (April– June 2014).

12. Saiful Mujani Research and Consulting (SMRC), “Survei Nasional Pemilihan Presiden, 30 Juni–3 Juli 2014,” 13; and SMRC, “Koalisi untuk Calon Presiden, Elite Massa Pemilih Partai, Temuan Survei: 20–24 April 2014,” 4 May 2014, 31.

13. Michele Ford and Tom Pepinsky, , Beyond Oligarchy: Wealth, Power, and Contemporary Indonesian Politics (Ithaca: Cornell University Southeast Asia Program Publications, 2014).

14. Edward Aspinall, “The Triumph of Capital? Class Politics and Indonesian Democ- ratisation,” Journal of Contemporary Asia 43 (May 2013): 226–42.

15. Các số liệu của cải của các ông trùm tư bản Indonesia đến từ các nguồn đa dạng, chủ yếu là các xếp hạng giàu có được sử dụng rộng rãi (như Forbes) và các báo cáo của các úng viên cho Ủy ban Bầu cử.

16. Indo Barometer, “Aspirasi Publik Tentang Capres, Cawapres, dan Tiga Skenario 9 Juli 2014,” 34; and Indo Barometer, “The Final Round: Siapakah Pemenang Pilpres 9 Juli 2014?”

17. Tác giả phỏng vấn, Madiun, 28 June

18. Tác giả phỏng vấn, Surabaya, 27 June

19. Xem website của Ủy ban Bầu cử Quốc gia: kpu.go.id.

20. Steven Levitsky and James Loxton, “Populism and Competitive Authoritarianism in the Andes,” Democratization 20 (January 2013): 107–36.

21. IPI, “Hasil Exit Poll Pemilu Legislatif 2014,”

22. Andreas Schedler, Electoral Authoritarianism: The Dynamics of Unfree Competition (Boulder, : Lynne Rienner, 2006).

M. M. 

Dịch giả gửi BVN

* How Jokowi Won and Democracy Survied, Journal of Democracy, October 2014, Vol. 25, No. 4, pp. 111-125; người dịch Nguyễn Quang A

This entry was posted in Dân chủ. Bookmark the permalink.