BÀI BÀO CHỮA PHÚC THẨM

Cho bà Bùi Thị Minh Hằng và bà Nguyễn Thị Thúy Quỳnh tại phiên tòa HSPT ngày 12/12/2014 Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại Tp.Hố Chí Minh, xét xử tại Đồng Tháp về “Tội gây rối trật tự công cộng” theo điểm c khoản 2 điều 245 – BLHS.

Kính thưa Hội đồng xét xử,

Tôi là Luật sư Hà Huy Sơn, Công ty Luật TNHH Hà Sơn – Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội xin trình bày quan điểm bào chữa cho bà Bùi Thị Minh Hằng và bà Nguyễn Thị Thúy Quỳnh bị cáo buộc về “Tội gây rối trật tự công cộng” theo điểm c khoản 2 điều 245 – BLHS tại phiên tòa phúc thẩm, như sau:

Điều 245. Tội gây rối trật tự công cộng

1. Người nào gây rối trật tự công cộng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

c) Gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng;

I. Tóm tắt vụ án:

– Khoảng 08 giờ ngày 11/02/2014, xảy ra sự việc.

– 11 giờ 45 Công an xã Mỹ An Hưng B lập biên bản bắt người phạm tội quả tang bà Hằng, bà Quỳnh và một số người khác.

– 19 giờ ngày 11/02/2014, Công an huyện Lấp Vò ra Quyết định số 15/QĐ-TGN tạm giữ bà Hằng theo thủ tục hành chính 24 giờ (19 g 11/02/2014 – 19 g 12/02/2014); bà Quỳnh cũng bị như vậy.

– Ngày 12/02/2014, Cơ quan CSĐT Công an huyện Lấp Vò ra Lệnh số 26/LBKC-CQĐT bắt khẩn cấp đối với bà Hằng và bà Quỳnh cũng bị như vậy.

– Ngày 21/02/2014, Cơ quan CSĐT Công an huyện Lấp Vò ra Quyết định số 20 Lệnh tạm giam bà Hằng 02 tháng 21 ngày (21/02 – hết 12/05/2014) và bà Quỳnh cũng bị như vậy.

– Ngày 21/02/2014, Thủ trưởng Cơ quan CSĐT Công an huyện Lấp Vò ra quyết định số 15/CSĐT khởi tố vụ án: Chống người thi hành công vụ và gây rối trật tự công cộng.

– Ngày 04/06/2014, VKS huyện Lấp Vò ra Quyết định số 09/KSĐT V/v chuyển vụ án hình sự đến Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Đồng Tháp.

– Ngày 25/06/2014, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Đồng Tháp ra Quyết định số 05 v/v đình chỉ vụ án “Chống người thi hành công vụ” và ra Quyết định số 10 thay đổi quyết định khởi tố bị can.

– Ngày 02/07/2014, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Đồng Tháp ra Bản kết luận điều tra số 14/KLĐT-PC44.

– Ngày 10/07/2014, VKSND tỉnh Đồng Tháp ra Cáo trạng số 23/CT-VKS.

– Ngày 26/08/2014, TAND tỉnh Đồng Tháp ra Bản án sơ thẩm số 55/2014/HSST tuyên: Bà Bùi Thị Minh Hằng 03 năm tù, ông Nguyễn Văn Minh 2,5 năm tù, bà Nguyễn Thị Thúy Quỳnh 02 năm tù.

– Ngày 05/09/2014, TAND tỉnh Đồng Tháp ra Thông cáo 52/TB-TA về việc kháng cáo, nội dung: Bà Bùi Thị Minh Hằng – không phạm tội; ông Nguyễn Văn Minh – không phạm tội, bà Nguyễn Thị Thú Quỳnh – xin giảm nhẹ hình phạt.

– Ngày 19/09/2014, bà Quỳnh có đơn kháng cáo bổ sung, nội dung: là oan, không phạm tội.

II. Tố tụng hình sự:

1. Vụ án này có dấu hiệu được sắp đặt bởi Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Đồng Tháp và Cơ quan CSĐT Công an huyện Lấp Vò, bằng chứng:

1.1.

BL 30: QĐ số 05/QĐ-CQĐT ngày 11/02/2014 của Cơ quan CSĐT Công an huyện Lấp Vò v/v “Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố”; căn cứ “Tin báo về tội phạm của Công an xã Mỹ An Hưng B vụ Chống người thi hành công vụ và gây rối trật tự công cộng, xảy ra ngày 11/02/2014, tại An Quới, xã Mỹ An Hưng B, huyện Lấp Vò, Đồng Tháp.

– Điều vô lý ở đây là: Theo k 2 đ 3 TTLT06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 02/08/2013, quy định: “Tin báo về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc do cơ quan, tổ chức cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết”. Tin báo về tội phạm là cơ quan ngoài ngành công an báo cho cơ quan công an; Công an xã báo cho Công an huyện gọi là cấp dưới báo cáo cấp trên chứ không phải là “tin báo về tội phạm” như TTLT06/2013. Hơn nữa, lực lượng chức năng ngày 11/02/2012 thành phần bao gồm Công an huyện Lấp Vò và Công an xã Mỹ An Hưng B do chính Công an huyện Lấp Vò chỉ huy thì tại sao Công an huyện Lấp Vò còn phải nhận “tin báo về tội phạm” của Công an xã Mỹ An Hưng B. Như vậy có phải Cơ quan CSĐT Công an huyện Lấp Vò muốn che giấu điều gì?

BL 31: QĐ số 12/PC44 ngày 11/02/2014 của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Đồng Tháp V/v “Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố”; “Căn cứ tin báo của quần chúng nhân dân ấp An Quới, xã Mỹ An Hưng B…”

– Công an huyện thì do Công an xã báo tin, Công an tỉnh thì do quần chúng báo tin, nhưng hồ sơ vụ án thì không có bút lục làm chứng cứ chứng minh là “tin báo về tội phạm” bằng văn bản hay báo trực tiếp được lập biên bản tiếp nhận. Một vụ việc chỉ thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra cấp huyện giải quyết mà ngay trong ngày được 02 cơ quan ra quyết định cử cán bộ điều tra tham gia phối hợp giải quyết, do Phó Thủ trưởng Cơ quan CSĐT Công an tỉnh chỉ đạo là một điều không bình thường.

1.2.

Theo ông Phạm Nhựt Thịnh (người làm chứng), khi sự việc xảy ra khoảng 10 g sáng ngày 11/02/2014 tại hiện trường đã có các camera trực sẵn của PC67. Nhưng BL 688: Công văn 31/PC67- Đ 1 ngày 18/02/2014 của Phòng CSGT ĐB-ĐS khẳng định khoảng 10 g 30 ngày 11/02/2014 PC67 khi nhận được tin báo của quần chúng mới di chuyển mang camera tới là không đúng sự thật.

1.3.

Hai người (ông Nguyễn Vũ Tâm BKS 67TA-0361, ông Võ Văn Bửu BKS 67L1-38193) đi hàng ba thì bị lực lượng tuần tra chặn giữ để xử lý, nhưng tại sao người thứ ba không bị giữ lại để lập biên bản với vai trò người làm chứng. Cứ cho rằng người thứ ba kia không có lỗi tạo nên hàng ba, nhưng không có người đó với vai trò người liên quan thì lực lượng tuần tra lấy gì làm chứng cứ để lập biên bản việc vi phạm (vì không có băng ghi hình ảnh). Nhân chứng cho việc vi phạm này, lúc đó không có người dân nào làm chứng, vì khi đó chưa ách tắc giao thông. Một số câu hỏi khác được đặt ra:

– Tại sao ngay khi lực lượng tuần tra buộc 02 người đi mô tô (đoàn 11 xe mô tô của 21 người) dừng lại thì nhóm người mặc thường phục ở đâu xông ra đánh đập bằng gậy gộc (đập vỡ cả nón bảo hiểm của bà Nguyễn Thị Thúy Quỳnh thành 03 mảnh), cướp đồ của họ?

– Đoàn của bà Hằng, ông Minh, bà Quỳnh không hề quen biết hay có mâu thuẫn với số người mặc thường phục đã lao vào đánh đập họ. Nội dung các băng rol không liên quan gì đến người dân, vậy số người kia do ai chỉ huy?

– Tại sao lực lượng tuần tra không bắt giữ một ai trong nhóm người kia mà lại bắt giữ cả đoàn người 21 người?

– Cơ quan điều tra chỉ căn cứ vào lời khai của lực lượng tuần tra mà không xem xét các lời khai của những người cùng đi với bà Hằng, ông Minh, bà Quỳnh là không khách quan.

2. Cơ quan điều tra đã thu giữ của bà Hằng 03 băng rol; Cáo trạng, Bản án sơ thẩm cũng nhắc đến 03 băng rol như là “mặt khách quan của tội phạm” Tội “gây rối trật tự công cộng” – đ 245, BLHS là không liên quan, không phải là chứng cứ buộc tội; xâm phạm quyền bí mật cá nhân, quyền về tài sản của công dân.

3. Bản án sơ thẩm (trang 12) cho rằng bà Hằng đã “gợi lại sự tủi nhục của dân ta dưới thời mất nước” để cáo buộc bà Hằng phạm tội là không thỏa đáng là quy chụp vô lối. Vì ở Quốc hội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã xác nhận rằng: “Việt Nam bị Trung Quốc cưỡng chiếm bằng vũ lực, toàn bộ quần đảo Hoàng Sa năm 1974 và một phần Trường Sa năm 1988”. Tuy chưa mất nước, nhưng là một người Việt Nam thì không ai được quyền quên nỗi nhục mất nước. Vậy tại sao nhắc lại “nỗi nhục” đó lại có là tội. Năm 2011, 2012 bà Hằng chính là người đã nhiều lần tham gia tích cực các cuộc biểu tình ở Hà Nội để phản đối hành động xâm lược của Trung Quốc và giết hại ngư dân miền Trung. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, tôi mong HĐXX hãy công minh xem xét đến tình tiết này.

Nếu hành động đó của bà Hằng chính là nguyên nhân bị bắt giam là điều đáng tiếc. Năm 2012, vì hành động này mà bà Hằng bị Chủ tịch UBND Tp.Hà Nội cưỡng bức đưa vào Cơ sở giáo dục Thành Hà; bà Hằng đang kiện Chủ tịch UBND Tp.Hà Nội nhưng Tòa án nhân dân Tp.Hà Nội không thụ lý theo quy định của pháp luật, bà Hằng vẫn đang theo kiện.

4. BL 688: PC67 Công an tỉnh Đồng Tháp có băng ghi hình sự nội dung vụ việc xảy ra ngày 11/02/2014. Nhưng trong hồ sơ vụ án không có băng ghi hình của PC67 về toàn bộ diễn biến sự việc. Tại phiên tòa sơ thẩm ông CSGT Lê Thanh Sang cho biết chỉ quay khoảng 06 phút.

– Vậy ai đã thủ tiêu chứng cứ xác định vô tội của các bị cáo là vi phạm điều 10 “Xác định sự thật của vụ án” – BL TTHS;

– Cơ quan điều tra đã phạm vào điều 300 “Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án” – BLHS, quy định:

“Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án, nhân viên tư pháp khác, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự nào mà thêm, bớt, sửa đổi, đánh tráo, huỷ, làm hư hỏng các tài liệu, vật chứng của vụ án hoặc bằng các thủ đoạn khác nhằm làm sai lệch nội dung hồ sơ vụ án, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.”

Tại phiên tòa sơ thẩm: Bà Hằng đã trình bày ngay sau khi xảy ra sự việc đã có CSGT tên Lê Thanh Sang làm nhiệm vụ quay camera và bị cáo còn giao Ipad cho ông Sang giữ hộ (Biên bản phiên tòa sơ thẩm – trang 8).

Nói đến “Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án” phải kể tiếp là 02 Đơn tố cáo của bà Hằng tố cáo Thượng tá, Phó Thủ trưởng Cơ quan CSĐT huyện Lấp Vò đánh đập bà Hằng, đã viết, gửi qua trại tới CQĐT nhưng không có trong hồ sơ vụ án.

Chiếc áo của bà Hằng bị xé rách, bà Hằng đã trình Chủ tọa phiên sơ thẩm là vật chứng để chứng minh họ bị đánh đập, cướp đồ nhưng không được xem xét. Các dấu vết của đánh đập trên người, đồ vật, tiền bạc bị cướp bà Hằng đều có khai báo với CQĐT, KSV nhưng đều không được xem xét.

Tại phiên tòa sơ thẩm, nhân chứng Đỗ Thị Thùy Trang cho biết: có thấy giằng co, đánh lộn bà Hằng (trang 13). Phạm Nhựt Thịnh cho biết: “Có khoảng 100 người có cầm cây sẵn” (trang 14).

5. Bản án sơ thẩm (trang 13): “Tuy nhiên, luật sư bào chữa cho bị cáo Quỳnh thì lại đề nghị xem xét gia đình có công cách mạng”. HĐXX sơ thẩm đã sai lầm nghiêm trọng và đắc trí khi tách riêng câu này thành 01 dòng trong bản án, cho rằng luật sư nêu lên nhân thân tốt của bị cáo là đồng nghĩa với việc thừa nhận bị cáo có tội. Bộ luật tố tụng hình sự không có quy định nào như vậy. Đây là một cơ sở gián tiếp chứng minh bị cáo vô tội; việc chứng minh mình vô tội là quyền của bị cáo, còn trách nhiệm chứng minh tội phạm là thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng (đ 10 – BL TTHS).

6. Tại sao bà Hằng, bà Quỳnh bị những người không mặc sắc phục đòi lục soát túi xách, đồ đạc, tài sản, lao vào đánh đập họ khi lực lượng tuần tra đến, lực lượng tuần tra không thực hiện nghĩa vụ bảo vệ an ninh trật tư, bảo vệ người dân, ngăn chặn, lập biên bản, bắt giữ những người tấn công mà lại là bắt giữ người bà Hằng, bà Quỳnh là mục đích gì? Tại sao?. Nếu lực lượng tuần tra làm đúng nhiệm vụ thì bà Hằng, bà Quỳnh có lý do gì phải phản ứng với lực lượng tuần tra? Kiểm tra giao thông tại sao Công an đòi xét đồ của bị cáo Hằng? (Biên bản phiên tòa – trang 23)

7. Tại sao một vụ án “Tội gây rối trật tự công cộng” thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp huyện; nếu Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lấp Vò không tìm ra bằng chứng phạm tội lại không áp dụng nguyên tắc “suy đoán vô tội” để trả tự do cho các bị cáo? Mà phải có sự chỉ đạo ngay từ đầu của Công an tỉnh, sau đó lại nâng cấp điều tra, truy tố, xét xử lên cấp tỉnh và chỉ dựa vào chủ yếu lời khai của các nhân chứng thuộc thành phần lực lượng tuần tra và các nhân chứng do cơ quan CSĐT triệu tập để kết tội.

Về lời khai:

Lực lượng tuần tra là Công an an nhân dân phải tuân theo nguyên tắc “cấp dưới phục tùng cấp trên” (khoản 3 điều 5, Luật CAND 2005), nếu cấp trên chỉ đạo thì các lời khai của họ không thể khách quan được.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Chỉ có 03 nhân chứng đi cùng đoàn các bị cáo được tham gia phiên tòa và HĐXX đã không ghi nhận lời khai của họ. Mặt khác thì bà Thục Anh (mẹ bị cáo Quỳnh) không phải là người tham gia tố tụng lại được triệu tập đến tòa để chấp thuận là bị cáo Quỳnh có tội. Đây là hành vi vi phạm nghiêm trọng TTHS, vi phạm tính nhân đạo và đạo đức, văn hóa truyền thống.

Các cơ quan tiến hành tố tụng đã giải quyết vụ án một cách không khách quan, không toàn diện chỉ tìm những “chứng cứ xác định có tội, những tình tiết tăng nặng” mà bỏ qua những “chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.” (Điều 10 – TTHS).

8. Tại sao phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa hôm nay không tạo điều kiện cho người dân tham dự phiên tòa để họ chứng kiến, phán xét cả hai phía: Người tham gia tố tụng và Cơ quan tiến hành tố tụng. Đây là một cơ hội để lấy lại uy tín đang bị giảm sút của các cơ quan Nhà nước.

III. Yếu tố cấu thành tội phạm:

1. Mặt khách quan của tội phạm:

Cáo trạng cho rằng ách tắc giao thông đến 12 giờ 30, khoảng 2 giờ 30 phút. Kết luận này chỉ dựa vào lời khai của những người làm chứng, nhưng những người làm chứng không có chứng cứ vật chất để chứng minh là ắch tắc giao thông từ khoảng 10 giờ đến 12 giờ 30.

1.1. Theo khoản 2 điều 67 “Lời khai của người làm chứng” – BL TTHS:

“ Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người làm chứng trình bày, nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó.”

Do vậy, các lời khai đó không được coi là chứng cứ.

1.2. Lực lượng tuần tra hôm đó không lập biên bản về việc ắch tắc giao thông nên không có căn cứ xác định ắch tắc giao thông 2 giờ 30 phút.

1.3. Nội dung ghi hình của PC67 bị bỏ ngoài hồ sơ vụ án.

2. Mặt chủ quan của tội phạm:

“Tội gây rối trật tự công cộng” theo điểm c khoản điều 245 – BLHS phải là lỗi cố ý.

2.1. Ba người (bà Hằng, ông Minh, bà Quỳnh) không nằm lăn ra đường để cản trở giao thông, vậy họ làm sao gây ra ách tắc giao thông. Việc ách tắc giao thông (nếu có) phải do nhiều người gây ra, vậy tại sao chỉ nhằm vào 03 người này phải chịu trách nhiệm. Hơn nữa CSGT có nhiệm vụ bảo đảm cho các phương tiện tham gia giao thông lưu thông là chính sau đó mới là nhiệm vụ xử lý người vi phạm.

Ví dụ: Trong giờ cao điểm có nhiều phương tiện tham gia giao thông có một số người đi mô tô không đội nón bảo hiểm; nếu chặn họ lại để xử lý vi phạm sẽ gây ra ách tắc giao thông, trách nhiệm đó thuộc về lực lượng CSGT. Trường hợp xảy ra sáng ngày 11/02/2014 cũng vậy, lỗi gây ra ách tắc giao thông không phải của ba người mà là lỗi của lực lượng Công an hôm đó.

2.2. Cáo trạng không chứng minh được hành vi của bà Hằng, bà Quỳnh: “có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;” theo quy định khoản 2 điều 63 “Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự” – BL TTHS

“Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải chứng minh:

Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;”

Sáng ngày 11/02/2014, bà Hằng, bà Quỳnh và mọi người cùng đi đến Lấp Vò đã xuất phát từ Tp.HCM ngày 10/02.2014 để về thăm người quen ở Lấp Vò nên không có lý do gì mà họ mới cố ý gây ra cản trở giao thông để để phá hỏng chuyến đi của mình.

2.4 Nếu ngày 11/02/2014, có xảy ra ách tắc giao thông thì đối với bà Hằng, bà Quỳnh không phải là lỗi cố ý nên về mặt chủ quan của tội phạm không cấu thành tội theo điều 245 – BLHS. Chính lực lượng tuần tra hôm đó phải chịu trách nhiệm về việc bảo đảm an toàn giao thông thuộc phạm vi địa bàn tuần tra, kiểm soát theo khoản 2 điều 4 Thông tư 65/2012/TT-BCA ngày 30/10/2012 của Bộ Công an, quy định:

“Điều 4. Nhiệm vụ

Cán bộ thực hiện nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát giao thông đường bộ có các nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát nhân dân và nhiệm vụ cụ thể sau đây:

2. Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông thuộc phạm vi địa bàn tuần tra, kiểm soát; phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật.”

Cáo trạng cho rằng đã có khoảng 500 người dân kéo đến xem và người đi đường không đi được phải dừng phương tiện giao thông làm cho người tham gia giao thông trên đường không thể qua lại được trên huyện lộ DH67B thuộc huyện Lấp Vò. Đây là do hiếu kỳ của người dân địa phương chứ không phải lỗi của bà Hằng, bà Quỳnh.

Tại phiên tòa sơ thẩm: Bà Quỳnh cho biết (Biên bản – trang 10) sau khi sự việc xảy khoảng 30 phút thì bị Công an đưa về trụ sở Công an, vậy tắc nghẽn giao thông 2 g 30 họ lại phải chịu trách nhiệm.

Nếu sáng ngày 11/02/2014, lực lượng tuần tra giao thông làm đúng chức năng bảo đảm an toàn giao thông trên huyện lộ DH67B, thì đã không để xảy ra ách tắc giao thông.

Kết luận:

1- Về mặt tố tụng vụ án này có nhiều vi phạm nghiêm trọng; truy tố, xét xử, kết tội oan sai cho bà Bùi Thị Minh Hằng và bà Nguyễn Thị Thúy Quỳnh.

2- Bỏ lọt tội phạm là những người làm sai lệch hồ sơ vụ án; không khởi tố những người có tổ chức hành hung, cướp đoạt tài sản của công dân.

IV. Kiến nghị:

Kính thưa HĐXX

Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án và thẩm vấn tại 02 phiên tòa, mọi chứng cứ để cáo buộc bà Hằng, bà Quỳnh chỉ dựa vào lời khai của các nhân chứng do Cơ quan điều tra xắp đặt. Lỗi gây ra ách tắc giao thông ngày 11/02/2014, (nếu có) không phải lỗi cố ý của bà Hằng, bà Quỳnh mà là lỗi của lực lượng Công an tuần tra giao thông.

Tôi cho rằng bản án sơ thẩm là một bản án hàm oan người vô tội; các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật TTHS đế kết án oan sai cho các bị cáo.

Không thể bất chấp pháp luật để kết án tùy tiện bất cứ ai. Vì vậy, tôi kính mong HĐXX phiên tòa hôm nay hãy công minh xem xét và như ông UVBCT, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nói “nói phải củ cải cũng nghe”, tôi đề nghị HĐXX:

1- Căn cứ điều 251 – BL TTHS tuyên hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án và trả tự do ngay tại phiên tòa cho bà Bùi Thị Minh Hằng và bà Nguyễn Thị Thúy Quỳnh vì các bị cáo không có tội.

2- Trả lại các đồ vật tạm giữ cho bà Bùi Thị Minh Hằng và bà Nguyễn Thị Thúy Quỳnh.

3- Đề nghị Tòa ra quyết định khởi tố vụ án “Cố ý gây thương tích và cướp giật tài sản” mà bị hại chính là bà Hằng, bà Quỳnh và những người cùng đi.

Tôi xin chân thành cám ơn các sự lắng nghe của các quý vị,

Tp.Cao Lãnh, ngày 12/12/2014

Người bào chữa

Luật sư Hà Huy Sơn

HỎI:

I. Bà Hằng:

1. Chị hãy cho HĐXX biết chị bị đánh đập, cướp tài sản như thế nào?

2. Chị đã làm đơn tố cáo và khai báo và được giải quyết ra sao?

II. Bà Quỳnh:

1. Chị cho HĐXX biết chị bị đánh đập và cướp tài sản như thế nào?

2. Chị đã làm đơn tố cáo và khai báo và được giải quyết ra sao?

3. Theo Biên bản phiên tòa sơ thẩm: Chị cho biết là sau khi sự việc xảy ra 30 phút thì bị đưa về trụ sở CA có đúng không?

III. Hỏi Thịnh (nhân chứng)

1. Anh có mặt ở hiện trường từ lúc nào? Khi nào a có trông thấy máy Camera của công an chưa?

Luật sư Hà Huy Sơn gửi BVN

clip_image002

clip_image004

clip_image006

clip_image008

clip_image010

clip_image012

clip_image014

clip_image016

clip_image018

clip_image020

clip_image022

This entry was posted in phản biện, Pháp Luật. Bookmark the permalink.