Mỗi người đọc một cuốn sách đều phải đọc bằng con mắt sẵn có của mình, do đó, Đèn Cù cũng được đọc dưới những cặp mắt kính khác nhau.
Tôi nghĩ về câu chuyện “Người mù sờ voi”.
Đây là câu chuyện xa xưa, đã có từ rất lâu đời của nhiều dân tộc khác chứ không riêng của Việt Nam ta. Nó có cả trong sách kinh của Phật giáo, tức là rất lâu. “Người mù sờ voi” không phải câu chuyện có ý nghĩa tiêu cực, nhằm phê phán ai đó là thiển cận, là dốt nát. Nó có ý nghĩa rất tích cực và trung tính, không nhằm khen chê, phê phán. Nó nêu lên một chân lý khách quan, nói lên một cách nghiêm túc rằng, không ai có thể nhìn thấy được đích thật một sự vật, mà chỉ thấy một mảng nhỏ của sự thật qua nhãn quan của mình, giống như một người mù sờ vào một phần thân thể con voi.
Câu nói thời thượng ngày nay là: “một phần sự thật không phải là sự thật”, là không ổn hoặc không đầy đủ, vì nó nhằm phủ định một cách kín đáo cái “một phần”.
Một phần sự thật, không phải là toàn bộ sự thật, nhưng nó vẫn là một phần sự thật. Một mẩu bánh mì không phải là một ổ bánh mì, mà là một mẩu bánh mì, chứ không là mẩu chả lụa hay thứ gì khác.
Càng không ai có thể nhìn thấy đầy đủ hay toàn bộ một sự kiện lịch sử, hoặc một giai đoạn lịch sử.
Vì thế, những cái “sờ” về một con voi đã góp phần vẽ nên hình tượng toàn con voi. Sự thật lịch sử phải được soi rọi từ hàng nghìn cái nhìn khác nhau để có thể tạo nên một cái nhìn toàn thể. Vả lại, một kết luận dứt khoát về một lịch sử còn đòi hỏi độ lùi của thời gian, mà có khi nó vẫn còn là một ẩn khuất trong quá khứ. Cái nhìn từng mảnh lại trở nên cần thiết và quý báu. Người mù, là cách nói khẳng định rằng, nhận thức của bất cứ một cá nhân nào, luôn có giới hạn, nhưng không phủ định sự hiện diện cần thiết của nó.
Tác phẩm Đèn Cù là một góc nhìn, một tư thế nhìn vào lịch sử, và mỗi người đọc Đèn Cù, vẫn phải dùng con mắt có sẵn của mình. Mỗi con mắt ấy có một chỗ đứng riêng và một tâm tư riêng, nên không nhất thiết phải có cái nhìn thống nhất nhau. Việc đòi hỏi một tác phẩm – dù là một tác phẩm về sử học – phải gắn liền với đời sống thực tế của tác giả, là một đòi hỏi quá đáng, không thể có được.
Tác phẩm Đèn Cù của tác giả Trần Đĩnh đã gây gió trên diễn đàn, lừng lững lan vào các ngõ ngách tâm tư của nhiều giới, tạo nên một cơn xoáy tuy nhẹ nhàng mà gay gắt, có thể đem lại nhiều lý thú, hữu ích cho những ai muốn góp nhặt, tìm hiểu để rõ thêm về lịch sử. Đó là một giai đoạn lịch sử trải dài từ khởi đầu cuộc chiến tranh giành độc lập, cho đến hiện thực hôm nay; tuy đã tàn cuộc chiến mà cuộc chiến nội tâm dân tộc chưa thể gọi là đã kết thúc.
Tác giả trình bày bằng cái nhìn mắt thấy, tai nghe, qua hơi thở của đời mình, cùng với những va chạm cảm xúc và nghĩ ngợi riêng tư.
Nó cung cấp những “họa tiết” ghi trên những mảnh vỡ của lịch sử mà chuyên gia khảo cổ có thể xem xét, chắp nối lại để phục chế nên một “di tích”.
Cách nhìn Đèn Cù đã bộc lộ ít nhất theo ba hướng khác nhau, xuất phát từ nhận thức có sẵn, hoặc lập trường “kiên định”, hoặc từ một “khoảng mờ” nào đó, tạm gọi là khách quan của người đọc.
- Phê phán Đèn Cù theo chiều hướng “chủ nghĩa” chống Cộng triệt để;
- Xem Đèn Cù là một tác phẩm không đáng tin cậy về phương diện chính xác, có xu hướng xuyên tạc “Cách mạng”, hoặc nặng nề hơn, tác giả là kẻ “phản bội”;
- Đón nhận Đèn Cù như một sự góp phần soi rọi lịch sử.
Lập trường chống Cộng sản có từ khi chủ nghĩa Cộng sản xuất hiện ở Việt Nam cách đây gần một trăm năm. Sáu mươi năm trước, Hiến pháp VNCH đã chính thức ghi: “Đặt Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”, trong khi Chủ nghĩa Cộng sản xem thế giới còn lại – không phải là Cộng sản – là kẻ thù (ít nhất là trên lý thuyết). Năm 1975, phe Cộng sản toàn thắng và thống nhất đất nước. Trong 20 năm sau từ thời điểm này, thế giới đã chuyển sang trang mới, khép lại cuộc chiến tranh ý thức hệ của chủ nghĩa Cộng sản với chủ nghĩa Tư bản, bởi phong trào Cộng sản quốc tế tự tan rã. Từ lý thuyết sang thực tế, chủ nghĩa Cộng sản đã phá sản, không còn định dạng như ban đầu, mà biến dạng theo cách của mỗi nước, nhưng có nét chung khó phủ định là kém phát triển, tham nhũng và độc tài (Liên Xô và Đông Âu tan rã, Bắc Triều Tiên thành độc tài Kim Yong Un, Trung Quốc thành chủ nghĩa bành trướng Đại Hán, Việt Nam đang trong quá trình biến dạng).
Thế giới – mà Mỹ với vai trò nổi trội – không quan tâm về chủ nghĩa Cộng sản nữa. Thay vào đó là lợi ích kinh tế và “khẩu hiệu” dân chủ, nhân quyền, chống chủ nghĩa cực đoan, bành trướng, phát xít… dưới các hình thái khác nhau, nhằm ngăn ngừa mầm mống gây bất ổn thế giới.
Trong xu thế chung đó, Việt Nam còn đang tồn đọng ba dạng tâm tư:
– “Kiên định” Cộng sản,
– “Kiên định” chống Cộng sản, và
– “Phi Cộng sản”.
Gọi là tâm tư, vì nó gần gũi với “trạng thái” hơn là niềm tin và lý luận có cơ sở bền vững. Nặng nề nhất là ở hai cách nhìn (1) và (2), vừa đối kháng nhưng lại tương đồng về một số mặt. Họ thuộc về những thế hệ đã từng dính líu đến chiến tranh, mà quá khứ đó đã gắn kết thành ý nghĩa cuộc sống, không dễ buông bỏ. Cả hai đang bị thời đại ngày càng phủ định vì sự cũ kỹ lạc hậu, theo nghĩa là không còn cần thiết nữa, và tuyệt đại bộ phân dân chúng không nhiệt tình hưởng ứng, nhất là thế hệ trẻ.
Xu hướng thứ ba này có chủ trương gác lại quá khứ, tiết kiệm năng lượng, dành cho cuộc đấu tranh chuyển hóa từ độc tài lạc hậu, sang dân chủ tiến bộ, để phát triển và bảo vệ độc lập quốc gia (vì thế, giới trẻ không nhiều người đọc Đèn Cù?).
- Phê phán Đèn Cù trên quan điểm của “chủ nghĩa” chống cộng triệt để
Trên quan điểm của chủ nghĩa chống Cộng triệt để, họ phê phán tác giả Đèn Cù có lập trường không triệt để. Bài viết “Những hạn chế của Đèn Cù” của tác giả Phan Châu Thành, một cây bút trên mạng, là một ví dụ; có lời dẫn của trang báo danlambao như sau:
“Mục đích của Đèn Cù là bênh vực Cộng sản… Trần Đĩnh tự hào mình là kẻ ‘xét lại’, bênh vực, minh oan, ngợi ca phe thân Liên Xô… Nếu không có súng đạn của Nga thì làm sao VNCS thắng được VNCH và vũ khí Mỹ?”.
Cách nhìn này không có gì thay đổi so với trước đây: “Đặt Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”, mà tác giả Đèn Cù có một thời là thành viên tích cực của phía Cộng sản. Trần Đĩnh đã không “triệt để” theo đúng ý như Phan Châu Thành mong muốn, và phải là kẻ chống Cộng xuyên suốt, thuần khiết? Người chống Cộng sản có thể trở thành giống Cộng sản, ở tính kiên định và chủ nghĩa lý lịch? Có lẽ Đèn Cù không là sách cần thiết cho người đọc theo xu hướng này?
Vượt lên sự thua thắng, kể cả đúng và sai, tôi ngưỡng mộ chân thành nhân cách của những con người đã hy sinh trong cuộc chiến tranh ở hai bên, kể cả mười mấy vị tướng VNCH đã tự sát sau khi thua cuộc, mà Huy Đức, tác giả “Bên thắng cuộc” gọi bằng từ “tuẫn tiết”. Họ đã có dũng khí, dám sống trọn vẹn với lý tưởng của mình, nhưng không phải tất cả là như thế. Cho dù ngày nay nhiều người có thể nhận thấy, thể chế Cộng hòa – tam quyền phân lập – là một thể chế có thể thích hợp để tiến tới một xã hội dân chủ, thì không có nghĩa là toàn bộ bộ máy VNCH đều gồm những người có lý tưởng chống Cộng thật sự, mà không có, thậm chí là không ít, những thành phần vô tư bị rơi vào cuộc chiến, hoặc chạy theo sự nghiệp áo cơm cho riêng mình. Trong số người “giác ngộ cao” về lý tưởng chống Cộng, họ đã từng giết nhau qua những cuộc “đảo chính” triền miên, nhưng vì lẽ gì? Có những người tự cho là “sáng suốt”, có may mắn rơi vào một dòng chảy thuận lợi cho sự nhận biết tường tận về chủ nghĩa Cộng sản, hoặc đã hiểu biết điều này ngay khi còn trong “bụng mẹ”, thì quả là đáng tiếc cho số phận, và đáng hối hận về tài năng không đủ để hoàn thành được trách nhiệm trước dân tộc với sự “thông minh vốn sẵn tính trời” của mình. Đại bộ phận là dân chúng, sống theo cách bình thường. Họ nằm trong một luồng chảy và cuốn theo chiều gió. Miền Bắc rơi vào một vòng xoáy, miền Nam cũng rơi vào một vòng xoáy khác.
Không ai có thể nhìn xuyên suốt và nhận biết được toàn bộ tiến trình lịch sử, chỉ có biết nhiều và biết ít. Nhà chính trị nổi bật ở miền Nam, được xem là kẻ mưu trí, người kiến trúc nên VNCH – là ông Ngô Đình Nhu, với người anh là Tổng thống Ngô Đình Diệm được xem là người gương mẫu về đạo đức, đã cùng chết thảm sau 8 năm cầm quyền, kế tiếp là triền miên những cuộc lật đổ…
Trong một dòng chảy khác của lịch sử, một bộ phận lớn nhân dân, gồm nhiều thế hệ, từ cuộc sống của một xã hội vốn lạc hậu, bị đọa đày, đã vùng lên trong một cơn hưng phấn của thời cơ lịch sử, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản (và bằng vũ khí Nga), đã lao vào cuộc chiến đấu gian khổ và bất chấp tương quan lực lượng, chấp nhận mọi hy sinh vì một hoài bão, làm cho những kẻ sáng suốt (cùng vũ khí Mỹ) đã thua cuộc bỏ chạy.
Bối cảnh chung là một thực tế khó phủ nhận.
Trong Kinh Thánh Kitô giáo có ghi: “Trong các người có ai cảm thấy mình không có tội, thì hãy ném đá vào người ấy”.
Cuộc chiến đã kết thúc, nhưng lại bị cuốn vào dòng chảy mới của thời đại, cuộc thắng thua đã qua, đều đã trở thành quá khứ. Thời cuộc đã mở ra một tình thế mới, vượt qua khung cảnh của thế kỷ 20.
Tôi nghĩ rằng những thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay, phần đông đang bước tới và cần bước tới, với cái nhìn mới mẻ của thời đại, đang đối đầu gay go với cuộc chạy đua trong tình thế là người khởi hành rất muộn. Họ không quan tâm nhiều đến cuộc tranh tụng về một gia tài quá nặng nề. Họ không muốn tham dự vào cuộc ném đá.
Tiếng nói cần thiết và quan trọng của ngày hôm nay là tiếng nói đấu tranh, khuyến khích việc hướng về một tương lai của mục tiêu giữ độc lập, đồng thời là kiến tạo dân chủ trong tình hình mới. Vì thế một sự xét lại nào, từ đâu, và bất cứ một sự chuyển dịch nào có lợi cho mục tiêu trên đều đáng được trân trọng. Bên thắng và bên thua thiết nghĩ chẳng còn lý do để chìm đắm trong tự hào.
Sự chuyển dịch có thể đến từ nhân dân, từ những người trong Đảng Cộng sản bước sang, từ những người vượt biên quay về, và đặc biệt là từ thế hệ trẻ nhìn thấy được hướng đi đúng của thời đại. Sự chuyển dịch của lịch sử sẽ tạo nên cái mới, hiếm hoi và hầu như không thể tái hiện cái cũ. Sẽ không có Điều khoản “Đặt Cộng sản ra ngoài vòng Pháp luật” như Hiến pháp VNCH, và cũng sẽ không còn “Điều 4” của Hiến pháp 2013, đặt dân tộc dưới quyền cai trị có tính “định mệnh” của một đảng chính trị duy nhất. Cái duy nhất đang đồng nghĩa với sự lạc hậu và độc tài mà nhân loại đã trải qua.
Không nên thêm nữa, dù một lần ảo tưởng.
Đảng Cộng sản đang là một chính đảng duy nhất, sẽ cùng thể hiện bản lãnh của mình cạnh những chính đảng khác trong bối cảnh một đất nước chuyển hóa và xây dựng. Đó là một sự chuyển dịch tiệm tiến chắc chắn đang đến, một sự đối diện trên cơ sở đối lập dân chủ để tiến bộ.
Cách nhìn của ông Phan Châu Thành là một xu hướng tiêu biểu, nhưng tôi không nghĩ đó là cách nhìn tiêu biểu của Việt kiều hải ngoại. Nó thiếu thực tiễn, thiếu tính xây dựng, thiếu khích lệ mà nhiều khiêu khích, tạo nên tác dụng ngược chiều, làm cho xung lực đối kháng càng gay gắt.
Nhưng quan trọng hơn hết, là nó không có sức thuyết phục với đông đảo nhân dân trong nước hiện nay, có thể đối với cả một số lượng người Việt hải ngoại nữa.
Không cần thiết, lại hết sức vô ích, nếu thay thế một bạo lực này bằng một bạo lực khác, cực đoan này bằng cực đoan khác, khơi dậy hận thù trùng trùng điệp điệp của cả hai bên, bởi những người có lập trường “độc quyền” chân lý.
Người Việt trong nước hôm nay, tuy sống trong bức bách, có nhiều thất vọng trong niềm tin so sánh với khát vọng đáng phải có, nhưng có đủ nhận thức về một tình thế khó khăn, và biết mình muốn gì. Một số hình ảnh Việt kiều và phong cách mà họ mang về nước, còn ở dưới tầm được ngưỡng mộ. Tôi đã đọc được từ một số bài viết có vẻ rất thật về cảnh phân hóa, tranh giành vai trò của một số tổ chức hội đoàn Việt kiều hải ngoại, bởi cái tinh thần “bon chen” cá nhân, mang màu sắc khá “truyền thống” một VNCH cũ ở
thế kỷ trước, không hơn gì cuộc bon chen trong nước. Cũng mong rằng cảm nhận đó không chính xác.
Mặt khác rất đáng ghi nhận về những đóng góp hữu ích của một số trí thức Việt kiều thể hiện qua những bài viết tâm huyết, qua một số trang mạng rất kiên trì. Họ đã chuyển tải những thông tin và tư tưởng tiến bộ với cái nhìn rộng của thời đại, thoát lên trên sự hận thù hằn học từ những đau thương mất mát của mình; nhìn rõ sự lạc hậu của xã hội vì những nguyên nhân của nó: Một chủ thuyết đã tỏ ra bất cập, một thể chế kiềm hãm sự phát triển, sự nóng lòng đáng yêu về nỗi tụt hậu của đất nước và trước nguy cơ bị đe dọa từ phương Bắc… Đó là những tiếng nói đồng vọng quý báu đáng được đón nhận.
Nếu phê phán “Đèn Cù là bênh vực Cộng sản… Trần Đĩnh tự hào mình là kẻ ‘xét lại’, bênh vực, minh oan, ngợi ca phe thân Liên Xô”, thì ngược lại, Trần Đĩnh trong nước lại đang được xem và bị nguyền rủa là “kẻ phản bội” từ một bộ phận trong Đảng CSVN. Căn cứ trên tình thế đó, những tiếng nói có xu hướng “chống Cộng triệt để” đang ở đâu và làm gì? Muốn đi đầu, hoặc chỉ đạo một phong trào chống Cộng theo cách mà thời trước đã làm và đã thất bại? Hay chỉ nóng lòng muốn đóng vai một kẻ cao đạo, với tầm nhìn viễn kiến của mình mà thôi?
Nghe đâu đây như tiếng gọi “Phản Thanh Phục Minh” của một thời ở bên Tàu chăng?
- Lập trường kiên định Cộng sản: Trần Đĩnh – “kẻ phản bội”
Tôi thỉnh thoảng được dịp cùng chuyện trò thoải mái với những người bạn vong niên, thuộc hệ những người Cộng sản có lập trường kiên định.
Bối cảnh trong nước chưa từng có thói quen thảo luận, tranh luận, hay gọi nhẹ nhàng hơn là trao đổi, với tinh thần thẳng thắn và bình đẳng, ít nhất là 40 năm nay. Tiếng nói của cơ quan nhà nước là độc quyền phủ bóng. Các hoạt động lý luận của ngành tuyên huấn có bộ máy đồ sộ và uy quyền là con đường một chiều, na ná một dòng chảy từ khuôn đúc lý luận Trung Nam Hải. Tư duy đó là một thức ăn chế biến sẵn dành cho tất cả, xuất xưởng từ sự xào nấu của Hội đồng Lý luận Trung ương, bên cạnh luôn được hỗ trợ bởi một đội ngũ cầm trong tay công cụ bạo lực. Ở quán xá có luật bất thành văn: được nói mọi chuyện, không có vùng cấm, trừ nói chuyện chính trị-xã hội, ít nhất là phổ biến trong giới viên chức. Đèn Cù cũng rọi lên một vệt mờ mờ tỏ tỏ của phong cách này từ thuở A-Tê-Ka.
Nhưng tình hình đó ngày nay đã khác.
Đèn Cù cũng đã len vào được ở các ngõ ngách, quán xá một cách thong dong hơn. Cộng hưởng với mạng, nó râm ran được đón nhận như sự tự diễn biến hòa bình theo cách tự nhiên, tiệm tiến và tỉnh táo. Tình thế, nó sinh ra như thế.
Vì sao phải có “kiên định” về lập trường chủ nghĩa Cộng sản? Vì ở trong có nhiều cái “lỏng bỏng” không ổn định, đang chuyển động theo hướng xa dần điểm xuất phát. Nó cần có sự “kiên quyết” gồng gân giữ cho ổn định để không bung vỡ, như không để vỡ “cái bình bông” theo như lý luận của ông Tổng Bí thư vậy. Cái ví von đó đang trở thành sự khôi hài vì nó bộc lộ từ bên trong một sự mâu thuẫn nội tại. Ổn định được nêu lên như một mục tiêu chân lý, bất kể nó như thế nào. Do đó mọi lực tác động ngược lại ý chí “ổn định” đều bị xem là tiêu cực, là phản động. Đèn Cù là một tác động, mà tác giả của nó cũng được gọi là “kẻ phản bội”. Lập trường này đúng ra là một thứ “tri thức tình cảm” gắn bó với quá khứ, hơn là tri thức khách quan, hoặc là bề nổi của một loại “tiềm thức” tư duy trong bóng râm quyền lợi. Tuy nhiên, đó chỉ mới là cái nhìn của một phần trong Đảng Cộng sản. Cho đến nay, phía cầm quyền Việt Nam chưa thể hiện một hành động đàn áp cụ thể nào với Đèn Cù và tác giả, cũng giống với tác phẩm Bên Thắng Cuộc trước đây. Sự lờ đi cũng là điều hay, với nhiều ý nghĩa có thể hiểu là một bước tiến bộ.
Cuộc “so bút” nhóa lửa của hai bên “lập trường kiên định” với “chống Cộng triệt để” đang diễn ra ở những tầng nấc khác nhau trong phạm vi nào đó, cũng chỉ là cuộc biểu diễn ngày càng vắng khán giả. Cuộc đối đầu ý thức hệ Cộng sản và chống Cộng sản chỉ là những tia nắng nhạt nhòa còn rớt lại từ thế kỷ trước.
Cho đến nay thì tác giả Đèn Cù vẫn còn tung tăng đâu đó, chưa bị phái Phan Châu Thành “ám sát”, cũng chưa bị phái kiên định “cầm tù”. Âu đó cũng là điều đáng chú ý, hy vọng là sự lắng xuống của một thời đối đầu mà nay không còn hữu ích, để dành lại cho một sự “phản biện lịch sử” đầy đủ hơn, đồng thời nhường chỗ cho năng lượng hòa hợp được phát triển.
- Đón nhận Đèn Cù như xem xét một mảnh vỡ của lịch sử
Cuộc bàn cãi Quốc-Cộng đã diễn ra ngót trăm năm, cãi nhau bằng súng đạn, bằng lực lượng quốc tế, và cũng kết thúc bằng súng đạn. Thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay không ham muốn cái chết vĩ đại vì thấy chúng không cần thiết, và vì thấy cái sống văn minh tiến bộ là vĩ đại hơn. Vì thế, mục tiêu dân chủ, nhân bản và tiến bộ xã hội là hướng đi cụ thể và chính đáng. Đó là cuộc đua tranh lành mạnh, không để tụt hậu với các giá trị và nhu cầu thời đại. Đang có một xu thế rộng rãi trong nhân dân, chủ trương gác lại quá khứ, tập trung cho hiện tại, xem là xu thế tốt nhất cho tương lai.
Nhưng lịch sử sẽ không dễ gác qua một cách dứt khoát, vì còn nhiều vướng mắc những “mối tơ mành” trong quá khứ, nhất là đối với những thế hệ bị ảnh hưởng bởi chiến tranh, đang hành động vì quyền lợi hay là vì đau khổ, chứ không phải vì sự vươn lên của đất nước. Mặt khác, dân tộc cũng không thể bỏ qua lịch sử mà không ngoái nhìn lại bằng cái nhìn khái quát cho một đoạn đường đã trải qua, còn ảnh hưởng tới hiện tại và tương lai. Vì thế, “ôn cố” là một tham khảo cần thiết, nhưng “tri tân” mới là một nhiệm vụ trọng đại.
Đèn Cù không có tham vọng vạch ra cái gì tương tự như “con đường Việt Nam”, cũng không cung cấp cho người đọc sự chính xác, hay tính toàn diện. Nó là những họa tiết sống động trên những mảnh vỡ của lịch sử. Góp nhặt để giúp cho nhận thức về một quá khứ được đầy đủ hơn, là chuyện của mỗi người đọc. “Ôn cố” để góp phần nhỏ vào cái biết để phục vụ cho hiện tại, chứ không để củng cố và bám giữ cái quá khứ đã đi qua, nhằm bào chữa, tránh né, hoặc khai thác, lợi dụng nó theo hướng tiện ích nào đó.
Tương lai cũng có nghĩa là chờ đợi, mà lịch sử đã diễn ra cũng có sự chờ đợi.
Sư hiện diện của những “Người Mù Sờ Voi”, như Đèn Cù, đang là những đóng góp cần thiết và đáng giá. Tất nhiên nó đòi hỏi nhiều “người mù” hơn nữa để góp phần làm sáng cho tương lai.
H.Đ.N.
Sài Gòn, 05/11/2014
Tác giả gửi BVN