Hiểm họa đen?

(Bài 2, viết gửi Đại hội XII sắp tới của ĐCSVN[1])

Ngay từ khi ra đời BVN đã chủ trương không phản biện, kiến nghị, đối thoại trực tiếp với Đảng Cộng sản Việt Nam mà chỉ làm việc ấy với những người cầm quyền đất nước do Đảng cử ra, bởi một đảng và một nhà nước là hai thực thể khác biệt, nếu đánh đồng với nhau sẽ vô tình thừa nhận những hiện tượng vi phạm Hiến pháp pháp luật rất nguy hiểm, chẳng hạn có thể bị coi như chính mình chấp nhận việc đảng lấn sân nhà nước là điều đương nhiên, và khi đảng làm những việc đưa đến tai họa tày trời cho dân như việc ông đảng trưởng Nguyễn Văn Linh đem theo một nhóm đảng viên quyền lực và cố vấn đến Hội nghị Thành Đô ký kết với kẻ đồng cấp Trung Hoa những điều khoản nhân nhượng làm cho Việt Nam mất hẳn tư thế, trở thành một chư hầu lệ thuộc, hay ông đảng trưởng Nông Đức Mạnh cũng sang Tàu ký kết với kẻ đồng cấp những hiệp định khai thác bauxite ở Tây Nguyên gây nên hậu quả tồi tệ khôn lường…, dân vẫn không thể vin vào đâu để kiện những ông này ra Tòa án tối cao yêu cầu bỏ tù họ được.

Tuy vậy, cũng không thể không thừa nhận một sự thực là Đảng Cộng sản Việt Nam đã cướp được chính quyền từ năm 1945 thông qua một khẩu hiệu rất hấp dẫn: Đảng là người lãnh đạo dân tộc giành lại độc lập toàn vẹn cho đất nước và tự do hạnh phúc cho nhân dân. Khẩu hiệu cao đẹp gắn Đảng và dân tộc lại làm một đã lôi cuốn rất nhiều thế hệ yêu nước đi theo Đảng trong suốt nhiều thập kỷ không tiếc máu xương mình, mặc dầu trên thực tế mục tiêu “tự do hạnh phúc cho nhân dân” chưa bao giờ đạt được và mục tiêu “độc lập toàn vẹn cho đất nước” thì trong hiện tại lại đang bị de dọa trắng tay bởi một thế lực hung hiểm vốn là đồng minh “môi hở răng lạnh” của Đảng kể từ khi Đảng ra đời. Tính ảo tưởng của khẩu hiệu cao đẹp mà Đảng đề ra từ năm 1945 ngày càng bị phơi trần chứng tỏ sự nhân danh dân tộc của Đảng ngay từ buổi đầu đã là một thứ lý luận khiên cưỡng.

Học giả Nguyễn Trung trong bài viết kiến nghị với Đảng dưới đây tuy không đi vào vấn đề có tính chất lý thuyết phổ quát như chúng tôi nêu ở trên, nhưng từ góc độ khảo sát lịch sử trong vòng 40 năm, đã cấp cho ta nhiều kiến giải sắc bén cho phép nhìn nhận Đảng từ sau khi trở thành một đảng cai trị (theo ông Trung là từ sau 1975) đã tự mình đánh mất hết cả tư cách chính nghĩa lẫn thực lực trong việc đồng hành với dân tộc ở thời điểm đất nước đang trên bờ vực thẳm như hiện nay, mà cũng là do kết quả 40 năm cai trị của Đảng.

“Cần nhìn nhận 40 năm độc lập thống nhất đầu tiên [từ 1975 đến nay] là một giai đoạn phát triển thất bại, vì các lẽ:

1.    Ngoài 10 năm đầu mất cho 2 cuộc chiến tranh tiếp theo, thành tựu giành được trong 28 năm đổi mới tuy là rất lớn so với điểm xuất phát, nhưng về cơ bản là thất bại nếu so với công sức đã bỏ ra và cơ hội đất nước có được. Mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 không thể hoàn thành vì cơ cấu kinh tế hiện còn rất lạc hậu, kết cấu hạ tầng vật chất & kỹ thuật thấp kém, hiện đang khủng hoảng cơ cấu sâu sắc, chưa có lối thoát ra khỏi cái bẫy là nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp, chất lượng nguồn nhân lực đạt được nhìn chung còn thấp, khoảng cách tụt hậu so với nhiều nước chung quanh ngày càng rộng.

2.    Sau 3 thập kỷ xây dựng đất nước, lúc đầu là xây dựng chủ nghĩa xã hội, do có nhiều sai lầm không khắc phục được nên từ khi tiến hành đổi mới phải điều chỉnh lại thành xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, những thành tựu kinh tế – xã hội đạt được có nhiều măt hạn chế như đã nói trong điểm 1 bên trên. Riêng về mặt thể chế chính trị, nước ta hiện nay rất lạc hậu so với đòi hỏi phát triển của đất nước, so với xu thế phát triển của thế giới, so với một số quốc gia có mức thu nhập tính theo đầu người tương tự như nước ta. Tuy có cái tên gọi là chế độ xã hội chủ nghĩa hay là định hướng xã hội chủ nghĩa, chế độ chính trị một đảng của đất nước hiện nay về bản chất có quá nhiều tàn dư của chế độ phong kiến cũ. Quá trình tha hóa đã nhanh chóng làm cho tính đảng trị của chế độ ngày càng nổi bật, trên thực tế ngày nay đã trở thành chế độ toàn trị.

3.    Đất nước đã độc lập thống nhất 4 thập kỷ. Thay vào chỗ phải có một nhà nước pháp quyền dân chủ để thực thi quyền lực của nhân dân, đất nước có một chế độ chính trị toàn trị. Tính đảng trị của chế độ này tạo ra cho truyền thống phong kiến cũ cha truyền con nối cái phương thức mới “làm vua tập thể” (Nguyễn Văn An) để duy trì chế độ đảng mặc nhiên và mãi mãi cầm quyền cai trị đất nước. Trên thực tế đã hình thành sự phân chia: ĐCSVN trở thành kẻ cai trị, nhân dân trở thành người bị cai trị. Nhân dân bị phân chia thành các giai cấp để đối xử. Trong nhiều hình thái tư tưởng của xã hội và trong thiết kế các chủ trương chính sách vẫn tồn tại sự phân biệt giữa “ta” và “ngụy”, giữa “yêu nước đồng nghĩa với yêu chủ nghĩa xã hội”  và  “không yêu chủ nghĩa xã hội là không yêu nước, là chống chế độ”; ai dám mở miệng nói trong lòng kháng chiến có cuộc nội chiến, sẽ lập tức bị quy kết là phản động… Nhiều quyền tự do, dân chủ cơ bản của công dân tuy đã được ghi trong hiến pháp nhưng chỉ là hình thức. Tuy chế độ toàn trị của ĐCSVN mang trong nó nhiều tàn dư của chế độ phong kiến cũ, song cái nền tảng tinh thần của “làm vua tập thể” hôm nay được tạo dựng ra không phải từ một trật tự của thượng tầng kiến trúc phong kiến vương đế, mà hình thành từ một thứ văn hóa ra đời trong quá trình chia chác quyền lực giữa các nhóm lợi ích đủ các thành phần phức tạp trong xã hội. Các “nhóm” này sống và tự ngụy trang bằng nhiều thứ “giả, diễn, hão”, luôn luôn tìm kiếm đồng minh trong mọi rác rưởi của xã hội[6]. Hệ thống chính trị của đất nước được tổ chức theo cái phương thức “đảng cử dân bầu” là tiêu biểu tổng hợp nhất cho những “giá trị” “giả, diễn, hão” này. Thực tế này lý giải: Bên cạnh những thành tựu đạt được phải trả giá đắt, mỗi bước phát triển của đất nước luôn gắn theo một nấc thang xuống cấp mới về đạo đức, chính trị và tư tưởng. Dẫn đến nghịch lý càng phát triển càng yếu, càng ngày sinh nhiều yếu kém mới, mâu thuẫn mới”.

“Có thể thấy ngay, một hệ thống quyền lực cồng kềnh và chồng chéo, có hệ điều hành đảng quyết định tất cả nhưng không chịu trách nhiệm ràng buộc, với chất lượng con người hoạt động trong hệ thống được nhào nặn từ chính hệ thống này, hiển nhiên không thể vận hành có hiệu quả toàn bộ sự vận động của một quốc gia. Về nhiều mặt, đây là một hệ thống quyền lực kìm kẹp quốc gia, vô hiệu hóa không ít hay không thực thi được bao nhiêu các chính sách cũng như luật pháp do chính hệ thống này ban hành. Mọi chiến lược hay quy hoạch quốc gia đã vạch ra được đều trở nên không khả thi hoặc chỉ được thực hiện manh mún phần nào trong một hệ thống quyền lực chồng chéo, vận hành theo nhiệm kỳ và xé lẻ như vậy; quan liêu, lãng phí, tham nhũng và tội ác ngày càng trầm trọng là tất yếu. Chính hệ thống quyền lực này bóp nghẹt các quyền tự do dân chủ của nhân dân, hủy hoại nghị lực sáng tạo của đất nước. Thực tế này đẻ ra đòi hỏi phải tăng cường trấn áp để bảo toàn chế độ, hệ quả là ngày càng mất lòng dân, trực tiếp cản trở sự phát triển của đất nước. Với một hệ thống quyền lực như vậy không thể tạo ra và cũng không thể quản lý nổi một nước Việt Nam công nghiệp hóa.

Tình hình kinh tế đất nước bế tắc như hiện nay, đất nước hầu như bị động và chưa chuẩn bị được bao nhiêu trong việc đối phó với âm mưu bành trướng bá quyền của Trung Quốc, cũng như nhiều yếu kém khác nữa của sự nghiệp phát triển đất nước trong đối nội và đối ngoại còn cho thấy: Trong tình hình mới, hệ thống quyền lực này ngày càng bất cập và không có khả năng dẫn dắt đất nước trong thế giới hiện tại. Ngoài ra không thể không đặt câu hỏi sự lũng đoạn của quyền lực mềm Trung Quốc đã tác động  tới mức nào vào hệ thống quyền lực nước ta hiện nay”.

“Bốn mươi năm độc lập thống nhất đầu tiên của đất nước cũng là 40 năm đảng và nhà nước Việt Nam vấp phải nhiều sai lầm đối ngoại trầm trọng nhất. Do nhìn nhận sai về thế giới, nên sau khi vừa mới ra khỏi chiến tranh đất nước lại bị kéo ngay vào 2 cuộc chiến tranh mới trong 10 năm liền (1979 – 1989). Hội nghị Thành Đô là sai lầm chiến lược tiếp theo, để lại hệ lụy lâu dài và khôn lường cho đất nước. Điều trớ trêu là ĐCSVN chủ trương đường lối đối ngoại hòa hiếu, không đi với bất kỳ nước nào chống lại nước thứ ba. Song đường lối đối ngoại bắt đầu từ hội nghị Thành Đô lại cột chặt nước ta vào một bên Trung Quốc, có nghĩa là làm như thế khách quan tạo ra những mâu thuẫn nhất định giữa nước ta và các nước thứ ba. Nguy hiểm hơn thế, đường lối đối ngoại này đã đưa con đường phát triển của đất nước đi vào quỹ đạo của Trung Quốc, tạo ra sự lệ thuộc trầm trọng và tình trạng bị Trung Quốc uy hiếp cho đến hôm nay ĐCSVN vẫn không thể tìm ra đối sách khắc phục; độc lập, chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia bị xâm phạm nghiêm trọng. Đường lối đối ngoại Thành Đô cùng với đường lối đối nội giữ đảng và giữ chế độ bằng mọi giá trên thực tế đã biến nước ta thành một nước chư hầu kiểu mới của Trung Quốc, giữa lúc nước ta đã hội nhập toàn diện vào thế giới toàn cầu hóa, có tất cả các quốc gia quan trọng là đối tác chiến lược hay đối tác toàn diện. Đường lối đối ngoại này khiến cho nước ta bị cô lập, vì nó chỉ cột chặt nước ta vào Trung Quốc và đẩy nước ta vào thế phải leo dây với các đối tác khác, nước ta vừa không có sự liên minh thật sự với bất kỳ đối tác quan trọng nào cần thiết cho an ninh của nước ta, vừa tự mình không tranh thủ được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của cả thế giới cho bảo vệ chủ quyền quốc gia và những lợi ích chính đáng của nước ta.

Trung Quốc là đối tác và đối tượng số một tự nhiên và mãi mãi đối với nước ta, nhưng trong 40 năm độc lập thống nhất đầu tiên của đất nước ĐCSVN đã thất bại hoàn toàn trong việc xây dựng nên một quốc sách có thể bảo vệ được độc lập chủ quyền quốc gia, đồng thời giữ được hòa bình và thực hiện được hữu nghị, hợp tác với Trung Quốc. Nguyên nhân chủ yếu là: ĐCSVN đặt lợi ích quốc gia dưới lợi ích của đảng và của chế độ, trí tuệ thấp kém, sự lầm lẫn nghiêm trọng của ý thức hệ, sự khiếp nhược trước Trung Quốc, bị quyền lực mềm Trung Quốc lũng đoạn nghiêm trọng”.

Bản kết toán 40 năm đất nước độc lập thống nhất cho phép đánh giá:

1.   Đất nước trong 40 năm độc lập thống nhất đầu tiên dưới chế độ toàn trị của ĐCSVN đã tạo ra được một nền kinh tế chủ yếu là bán những thứ tự có nhiều hơn là những thứ tự làm ra, nợ nần nhiều ai trả (?), với một chế độ chính trị không có khả năng đưa đất nước trở thành một nước công nghiệp phát triển.

2.    Để giữ đại cục quan hệ với Trung Quốc, đảng đã phải chấp nhận nhiều thỏa hiệp hay hy sinh lợi ích quốc gia (không loại trừ có thể có những vụ việc sự tha hóa của cá nhân đã bán rẻ lợi ích quốc gia); đất nước lâm vào tình trạng lệ thuộc và bị chèn ép nhiều mặt đến mức gần như trở thành một chư hầu kiểu mới của Trung Quốc.

3.    Giữ đảng và chế độ như hiện nay, không thể giữ nước. Tình hình đã đến mức sự tồn tại và hành động của đảng và của chế độ như trong hiện tại đã và đang cản trở trực tiếp sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Sự lũng đoạn và uy hiếp của Trung Quốc rất nguy hiểm nhưng không nguy hiểm bằng”.

“Tư duy ý thức hệ của đảng là nguyên nhân của mọi nguyên nhân, lại trong hệ thống chính trị một đảng, nên ngay từ ngày đầu tiên của đất nước độc lập thống nhất, với tính cách là người chiến thắng, ĐCSVN đã trở thành người cai trị đất nước. Chính thực tế này giải thích tại sao quyền làm chủ của nhân dân đối với đất nước độc lập thống nhất không được trao lại cho nhân dân ngay sau khi chiến tranh kết thúc – nhân danh đảng phải đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của đảng, để đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Về phương diện này, lịch sử phát triển của Việt Nam đã bị chặn đứng ngay từ đấy – nghĩa là cách đây 40 năm, và bị bẻ ngoặt sang một hướng duy tâm, duy ý chí, với kết quả đạt được như hôm nay.

Theo quy luật tha hóa của quyền lực, hệ thống chính trị quốc gia được xây dựng lên dưới sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của đảng ngày nay đã thật sự trở thành chế độ toàn trị, đang tích tụ ngày một nhiều mâu thuẫn đối kháng với các quyền tự do dân chủ của nhân dân và đi ngược lại lợi ích quốc gia. Đất nước bị chính hệ thống chính trị của mình kìm hãm trước tiên, mọi bước phát triển đạt được đều phải trả giá đắt, hiện đang lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện rất sâu sắc.

Ngày nay, tình hình tha hóa của đảng đến mức ý thức hệ thật ra cũng chỉ còn lại là cái bình phong hay là công cụ, để che đậy hay để thực hiện yêu cầu bảo vệ quyền lực của đảng, thực sự nó không còn đọng lại chút nào là lý tưởng cách mạng.

Tổng hợp lại có thể nói: Tư duy ý thức hệ của ĐCSVN không phải là tụt hậu hay lạc hậu so với thời đại của thế giới hiện tại, nó lạc lõng theo một lối riêng không tưởng và không đi cùng với xu thế phát triển của thế giới hiện tại. Sự tha hóa của quyền lực trong hệ thống chính trị một đảng càng khiến cho sự lạc lõng này không thể cứu vãn được, đảng ngày càng suy yếu vì những thất bại của chính mình. Để tồn tại, đảng bắt buộc phải mắc thêm nhiều sai lầm mới, buộc phải thêm độc tài và toàn trị hơn nữa”.

“Giả thiết Trung Quốc áp đặt lên nước ta kịch bản Z, nhân dân ta có sự lựa chọn nào hơn là trong tình huống “bị lôi ra làm thịt” như thế, thì phải tìm cách tự giải phóng đất nước thoát khỏi kiếp chư hầu, đồng thời giành lại cho chính mình quyền làm chủ đất nước đã bị trì hoãn 4 thập kỷ nay? Tôi có lòng tin vững chắc trong tình huống xảy ra kịch bản Z, nhân dân ta sẽ buộc phải lựa chọn như vậy và nhất định sẽ thắng cả gói: Nước giữ được độc lập, dân giành lại được quyền làm chủ đất nước đã bị trì hoãn 4 thập kỷ”.

“Đồng thời tôi cho rằng: Một khi phải đương đầu với một kịch bản Z như thế, trong sự lựa chọn nói trên của nhân dân có lẽ sẽ không thể có một chỗ đứng nào cho ĐCSVN như đảng đang là, vì lòng tin của nhân dân vào đảng như đang là không còn nữa.  ĐCSVN như đang là cũng không thể lựa chọn như nhân dân lựa chọn, càng không thể có phẩm chất và năng lực lãnh đạo nhân dân thực hiện sự lựa chọn ấy, bởi vì phẩm chất và năng lực của ĐCSVN như đang là không còn đáp ứng được nhiệm vụ quyết liệt này nữa. Trong tình hình như vậy, ĐCSVN như đang là sẽ không còn đứng và sẽ không thể đứng được trong hàng ngũ cứu nước của dân tộc”.

“Hiểm họa đen đang đến, ở chỗ cho đến hôm nay đảng như đang là và đội ngũ lãnh đạo vẫn không dám nhìn lại 40 năm đầy sai lầm của mình, vẫn còn lo mất quyền lực hơn lo mất nước, vẫn còn cố tìm cách trì hoãn hay thỏa hiệp vì khiếp nhược, trong khi đó thời gian không chờ đợi và phía Trung Quốc đã sẵn sàng mọi kịch bản khác. Những vấn đề lịch sử để lại rất lớn và phức tạp, song chí ít ĐCSVN nhất thiết phải đứng trên quan điểm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc đánh giá lại toàn bộ chặng đường 40 năm đất nước độc lập thống nhất đầu tiên để có ý chí thay đổi đảng một cách triệt để.

Hiểm họa đen thực sự đang tiến đến, bởi lẽ cái giàn khoan HD 981 chưa đủ lớn, chưa đủ nặng để đặt ra cho Hội nghị Trung ương 9 sự lựa chọn sẽ phải được bàn đến tại đại hội XII sắp tới: Cứu nước? hay cứu chế độ và cứu đảng như đang là? Cho đến giờ phút này đối với cả nước đảng như đang là vẫn tiếp tục vừa lừa mỵ dân, vừa  đàn áp lẽ phải, trấn an dân, kêu gọi kiên định chung chung.., trong khi đó đội ngũ lãnh đạo vẫn trống đánh xuôi kèn thổi ngược.

Hiểm họa đen cũng có thể xuất hiện dưới dạng thường trực không mời mà đến, vì bất kể một yếu kém nào của chế độ đương quyền trong một bối cảnh nào đó, với sự lũng đoạn của quyền lực mềm – ví dụ như dưới dạng kịch bản tạo ra phản ứng bầy đàn cướp phá khoảng 800 xí nghiệp có FDI ngày 13 và 14-05-2014 ở quy mô không kiểm soát được… Những chuyện phản ứng bầy đàn như thế có thể xảy ra bất kỳ lúc nào trong thị trường kinh tế, trong thị trường tài chính tiền tệ, trong tình hình khiếu kiện đất đai của nông dân, trong trấn áp biểu tình, trấn áp chính trị, trong một thiên tai… Bởi vì lúc này đất nước có không ít những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội… rất nhạy cảm, mà nguyên nhân gốc thường là những sai trái và yếu kém chế độ và của người trong hệ thống chính trị. Bưng bít thông tin, không công khai minh bạch, các hoạt động lừa bịp của dư luận viên, các biện pháp trấn áp trên báo chí và bằng quyền lực… nhân danh giữ ổn định, vân vân.., tất cả những thứ này chỉ là đổ dầu vào lửa, đồng thời tạo đất thánh cho hoạt động của quyền lực mềm Trung Quốc. Chỉ có một con đường: Phải dựa hẳn vào dân, vào dân tộc, dấy lên sức mạnh từ dân để giải quyết tất cả, bắt đầu từ phát triển xã hội dân sự để nuôi dưỡng tinh thần dân tộc và phát huy dân chủ – vì sự nghiệp cứu nước và chấn hưng đất nước.

Hiểm họa đen thực sự không thể tránh nổi, nếu chế độ toàn trị hiện nay theo quy luật mâu thuẫn giữa cai trị và bị cai trị đến một lúc nào đó sẽ tức nước vỡ bờ và ắt phải sụp đổ, đất nước rơi vào tự hủy diệt của hỗn loạn nồi da xáo thịt.

Hiểm họa đen luôn tiềm tàng và không thể đảo ngược được, chừng nào đảng như đang là trốn tránh nhiệm vụ tạo ra cho đất nước cái dĩ bất biến nói trên không thể trì hoãn được nữa”.

Ở phần cuối bài viết, tác giả đề xuất con đường cứu nguy duy nhất cho Đảng là từ bỏ tư cách mà mình đang có để trở thành một đảng trao cho dân quyền làm chủ thật sự cũng như đáp ứng mục tiêu dân chủ của toàn xã hội: “nhất quyết cắt cái thòng lọng ý thức hệ và sự nô lệ của quyền lực cũng như sự cám dỗ của mọi lợi ích tội lỗi khác, trả lại quyền làm chủ đất nước cho nhân dân để tạo ra cái dĩ bất biến ứng vạn biến. Dân tộc sẽ thắng, đất sẽ nước thắng, các nước trong khu vực cùng thắng – cũng có nghĩa là luật pháp quốc tế sẽ thắng; thậm chí nếu có ý chí quyết liệt thì có thể bằng cái dĩ bất biến phải có này thắng được bành trướng bá quyền Trung Quốc trong đấu tranh hòa bình, nhờ đó tránh được chiến tranh… Nhưng lựa chọn bài toán [như đã nói thì] chế độ toàn trị cùng với mọi quyền lực và đặc quyền của nó [Đảng] sẽ không còn, ĐCSVN cũng có thể không còn như đảng đang là nữa mà phải trở thành thành một đảng khác, hoặc là không còn nữa”.

Quan trọng hơn, tác giả còn đưa ra một hệ luận được viết bằng chữ in nghiêng, theo chúng tôi có lẽ đây là điều ông tâm đắc nhất: từ chỗ xóa bỏ độc tài toàn trị của đảng cai trị, nội lực dân tộc sẽ được phục hồi nhanh chóng, và khi đã xây dựng được nội lực thì việc liên minh liên kết với các lực lượng hùng hậu trên thế giới tự khắc sẽ thành hiện thực; quan điểm “đứng một mình không liên minh với bất kỳ nước nào để chống lại nước khác” mà Đảng hiện khăng khăng chủ trì, trong khi “nước khác” đang lợi dụng sự cô độc tự nguyện ấy để cắn nuốt từng phần biển đảo và lãnh thổ, đưa mình vào chỗ chết, chắc chắn bị nhân dân xóa bỏ: “Trước sau, Việt Nam phải sớm tự thay đổi chế độ chính trị hiện nay của nước mình để có mọi điều kiện xây dựng được cho mình các mối quan hệ liên minh vững chắc dưới các hình thức và trong mọi lĩnh vực (kinh tế, chính trị, ngoại giao, quân sự, văn hóa…), ở mọi tầng nấc quốc tế và khu vực, để thay đổi triệt để nền kinh tế của nước ta, và để gắn kết được sự phát triển của nước ta với lợi ích phát triển chung của cộng đồng các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam nhất thiết phải làm như thế để tạo ra một liên kết bền vững với cả thế giới mà an ninh và sự nghiệp phát triển của nước ta đòi hỏi. Điều này trước hết có nghĩa Việt Nam phải trở thành một nước có những phẩm chất mới để có thể tạo ra cho mình một liên kết như thế với nhân loại. Dù để chậm mất 40 năm rồi, nhưng bây giờ vẫn là lúc dân tộc Việt Nam ta phải đề ra cho mình lẽ sống này!” Ở đây, chúng tôi xin được bổ sung thêm một ý: nói đến liên minh với các cường quốc thế giới lâu nay đang bày tỏ thái độ ủng hộ chúng ta là một trong những chiến lược nền tảng và vô cùng khẩn thiết, thì không những bản thân chúng ta cần nâng cao toàn diện nội lực như tác giả nói rất trúng, mà còn rất cần người cầm chịch đất nước sáng suốt lựa chọn thời cơ để có những quyết định thần tốc. Giữa một tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng khó lường như đang chứng kiến, nếu cứ giữ thái độ lặng thinh bất động, hoặc chờn vờn, “đánh võ mồm” vài tiếng mà không có một hành động nào cụ thể, tưởng rằng thế là “ngư ông đắc lợi”, thì những đối tác đầy triển vọng xa hay gần xung quanh ta, dẫu có nhiệt tình với ta đến đâu cũng đến lúc không nhẫn nại được nữa. Lúc ấy biết đâu sự thể lại xoay chiều, thuận lợi trở nên bất trắc, ván cờ chắc thắng mười mươi vẫn có thể lâm vào thế thua, huống chi một nước nhỏ và yếu như Việt Nam. Vì thế nếu nói như ông Nguyễn Trung, phải chờ đợi đến Đại hội Đảng lần thứ XII, Đảng họp Ban chấp hành Trung ương để cùng nhau ngồi lại, tự kiểm điểm sâu sắc, nhận ra “ngõ cụt” của mình, rồi hoặc là thay đổi triệt để trong bản chất, biến thành một đảng kiểu khác, hoặc trao quyền lại cho nhân dân, tìm người lãnh đạo mới, sau đó mới xây dựng nên khối đoàn kết vững mạnh trên cơ sở một thể chế hoàn toàn mới, và đi tìm những đối tác chiến lược đủ sức đối trọng với kẻ thù truyền kiếp, thì e có muộn quá chăng? “Thời cơ, thời cơ, không nên lầm lỡ!” (Nguyễn Trãi).

Xin trân trọng gửi đến bạn đọc toàn văn bài viết rất dài nhưng đầy tâm huyết của học giả Nguyễn Trung.

Bauxite Việt Nam 

Bài 1: Còn cay đắng hơn cả câu chuyện Mỵ Châu – Trọng Thủy

Trước thềm đại hội toàn quốc X của Đảng Cộng Sản Việt Nam (04-2006), tôi viết loạt bài “Thời cơ vàng – hiểm họa đen”. Nội dung đặt vấn đề  thể chế chính trị hiện hành không kham nổi đòi hỏi phát triển của đất nước, Đảng cần phải ra sức khắc phục lỗi hệ thống, thực hiện tự do – dân chủ để nắm lấy cơ hội vàng đang đến, đưa đất nước vào một thời kỳ phát triển mới. Loạt bài viết này cảnh báo: Đảng phải vượt lên cái bóng của mình, nếu cứ chịu sự nô dịch của tư duy, không chịu hướng về phía mặt trời mà đi, hiểm họa đen sẽ đến.

Đã 8 năm đã trôi qua. Đất nước bên trong đang khủng hoảng sâu sắc chưa tìm được lối ra, bên ngoài đang bị chủ nghĩa bành trướng bá quyền Trung Quốc uy hiếp toàn diện. Trong bài “Còn cay đắng hơn cả câu chuyện Mỵ Châu – Trọng Thủy” (bài 1), tôi cho rằng: quan điểm kiên định giữ đại cục quan hệ Việt – Trung để bảo vệ chế độ, bảo vệ đảng, không đặt vấn đề cứu nước là nhiệm vụ hàng đầu và là sự nghiệp của toàn dân đã tạo ra cho đất nước tình hình nguy hiểm như hôm nay.

Hiện tình mọi mặt của đất nước khiến tôi phải đặt câu hỏi: Hiểm họa đen đang đến?

Thế giới đã sang trang, con đường phát triển của Việt Nam đã sang trang từ lâu. Ngoài sự kiên định nói trênra, Đảng Cộng sản Việt Nam lựa chọn gì trước mọi thách thức đang đặt ra cho đất nước hôm nay? Nói nghiêm khắc: Đến hôm nay mới bàn câu chuyện này là quá muộn. Song dù muộn thế nào chăng nữa cũng phải bàn đến.

Bài 2 xin xới xáo lên một số vấn đề, mong mỏi toàn đảng cùng suy nghĩ.

I. Thế giới đã sang trang

I.1. Cục diện thế giới đa cực

Sự vận động của thế giới không thể dùng cái kéo, rồi cắt nó ra từng khúc, để nói từ đây đến đây là thời kỳ này, từ đây đến kia là thời kỳ kia, mà thường là một thời kỳ sau bao giờ cũng manh nha từ thời kỳ trước, thậm chí từ nhiều thời kỳ trước, có nhiều mối liên hệ cả về hai chiều quá khứ và tương lai. Nhưng dù thế nào đi nữa, trong sự vận động liên tục như thế của thế giới, vẫn xuất hiện những hiện tượng hay những sự kiện nổi bật cho phép phân định sự vận động này thành từng thời kỳ.

Nhìn lại, bước vào thế kỷ 21, bàn cờ thế giới xảy ra hàng loạt sự kiện quan trọng:

(1) Chính quyền Obama (tính từ nhiệm kỳ I, tháng 01 – 2009) chủ trương rút khỏi Iraq và Afghanistan;

(2) Trung Quốc thời Hồ Cẩm Đào (2002) kết thúc giai đoạn “giấu mình chờ thời” (do Đặng Tiểu Bình đề xướng 1990) để chuyển sang “trỗi dậy hòa bình”. Thời Tập Cận Bình (11-2012) hiện nay đang dấn lên cho “giấc mộng Trung Hoa”, bắt đầu từ những bước đi mới trên Biển Đông;

(3) Tháng 3-2014 Nga sáp nhập Crimea, ngang nhiên sửa lại bản đồ quốc gia ở thế kỷ 21 này. Sau đó Putin ký với Tập Cận Bình hợp tác Thượng Hải (05-2014), với những hợp đồng kinh tế (và quân sự) 300 – 400tỷ USD. Đế chế Nga đã thức dậy và xuất hiện trở lại chính trường quốc tế. Tác động đầu tiên là vấn đề Ukraina đang nóng lên từng ngày với nhiều hệ lụy khó lường (lúc này cả thế giới bàng hoàng về vụ máy bay MH 17 của hãng hàng không Malaysia bị bắn rơi trên vùng trời miền Đông Ukraina khiến 298 người thiệt mạng).

Có thể xem 3 sự kiện trên đây đánh dấu thời kỳ hậu chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới đã chuyển hẳn sang cục diện quốc tế đa cực. Đấy là xem xét trên phương diện địa chính trị toàn cầu.

–       Thời kỳ chiến tranh lạnh: 1945 – 1990, nghĩa là từ sau Chiến tranh thế giới II đến khi các nước Liên Xô Đông Âu cũ sụp đổ (kéo dài 45 năm).

–       Thời kỳ hậu chiến tranh lạnh, Mỹ nổi lên ví trí số 1 thế giới với ảnh hưởng chưa từng có. Thời kỳ này kết thúc khi Mỹ chấm dứt chiến tranh Iraq (2003-2010) – (kéo dài khoảng 2 thập kỷ).

–       Chỉ trong vòng vài năm sau thế giới chuyển hẳn sang cục diện quốc tế đa cực rất phức tạp hiện nay[2].

–       Toàn bộ tình hình nói trên cho thấy sự vận động của thế giới ngày càng phức tạp và tình hình diễn tiến nhanh hơn khả năng nhận thức cũng như khả năng ứng xử của các quốc gia.

Xem xét trên phương diện địa kinh tế toàn cầu, cũng có thể nói cuộc khoảng kinh tế lớn của Mỹ bắt đầu từ năm 2008, kéo theo hay làm trầm trọng thêm các cuộc khủng hoảng kinh tế ở hầu hết các nước phát triển.

Về nhiều mặt, nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới là Trung Quốc đang tích tụ nhiều vấn đề nghiêm trọng mang tính khủng hoảng.

Toàn bộ tình hình trên đặt ra hầu như cho mọi quốc gia – đặc biệt là các nền kinh tế lớn – phải tiến hành những thay đổi lớn nhằm cơ cấu lại nền kinh tế của mình cho phù hợp với sự phát triển hiện tại.

Theo quy luật, một cơ cấu kinh tế đã định hình thường chỉ tồn tại được trong một phạm vi không gian và thời gian nhất định, bây giờ đã đến lúc phải thay đổi nó. Song cuộc khủng hoảng cơ cấu kinh tế thế giới hiện nay còn có thêm một nguyên nhân mới nữa, đó là nền kinh tế Trung Quốc lớn thứ hai thế giới phát triển rất nóng và tự nó cũng tác động lớn đến cơ cấu của các nền kinh tế khác, làm mất đi nhiều sản phẩm truyền thống của những nước này, cơ cấu lao động của những nước này cũng phải sắp xếp lại… Một quá trình cạnh tranh và phụ thuộc lẫn nhau mới rất phức tạp xuất hiện. Thế giới đang chứng kiến một tình hình: Trung Quốc trên nhiều phương diện kinh tế, chính trị và quân sự đang trở thành vấn đề của cả thế giới; nhưng đồng thời sự phát triển của các nền kinh tế lớn trên thế giới hiện nay không thể thiếu thị trường Trung Quốc, và ngược lại cũng vậy.

Có thể nói, với sự xuất hiện của cục diện quốc tế đa cực như thế, sự vận động của thế giới hiện nay đã bước sang một trang mới, với những đặc điểm nổi bật như sau:

–      Bên cạnh sự hợp tác chiến lược trong nội bộ từng nhóm, tính độc lập với nhau giữa các cực lớn như Mỹ, Tây Âu, Nhật, Nga, Trung Quốc tăng lên rõ rệt hơn trước. Lý do chủ yếu là trong bối cảnh quốc tế ngày nay mỗi cực ngày càng nhiều vấn đề riêng và đòi hỏi riêng (ví dụ: mối quan hệ Tây Âu – Nga, mối quan hệ Tây Âu – Trung Quốc trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư…). Hơn nữa đang xuất hiện ngày càng nhiều vấn đề quốc tế và khu vực vượt quá khả năng giữ vai trò quyết định đơn phương của Mỹ, đòi hỏi phải bàn bạc để chia sẻ trách nhiệm. Ngoài ra, trước sự uy hiếp mới từ phía Trung Quốc, các nước như Úc, Ấn Độ, Nhật… cũng phải thay đổi nhiều vấn đề cơ bản; trong đó nổi bật là Nhật (07-2014) đã quyết định điều chỉnh lại một cách căn bản quan điểm phòng vệ của mình kể từ sau chiến tranh thế giới II, hình thành liên minh quân sự Nhật – Úc; Ấn Độ bước sang một thời kỳ hợp tác mới với Mỹ; mối quan hệ mới đầy các “affairs” Nga – Trung đang đặt ra nhiều vấn đề phức tạp mới, vân vân…

–      Những thách thức truyền thống và phi truyền thống trên thế giới không hề giảm đi, thậm chí có những vấn đề nóng hơn trước – ví dụ vấn đề nạn khủng bố, vấn đề vũ khí A của một số nước (Bắc Triều Tiên, Iran…), nguy cơ bí mật công nghệ hạt nhân rơi vào tay khủng bố, những vấn đề xung đột sắc tộc và xung đột tôn giáo (đặc biệt là trong thế giới đạo Hồi), tình hình Iraq rất nhạy cảm hiện nay với nguy cơ thành lập nhà nước thánh chiến IS có thể vượt ra ngoài khu vực, vấn đề Afghanistan gần như còn nguyên vẹn, vấn đề Trung Đông lại đang nóng lên… Đặc điểm chung của tình hình này là nó làm cho các nước hữu quan phải phân tán khả năng ứng phó, hoặc thậm chí có những vấn đề có thể vượt ra ngoài khả năng ứng phó… Vì thế Mỹ và phương Tây phải rất thận trọng (ví dụ: chính quyền Obama hiện nay kiên trì việc không đưa quân đội trực tiếp tham gia vào giải quyết những biến động mới ở Iraq và vấn đề nhà nước thánh chiến Hồi giáo IS…).

–      Quan hệ Nga – NATO ngày càng nóng lên trước thực tế nhiều nước trong Liên Xô cũ đã ly khai quan hệ với Nga để gia nhập EU, kéo theo việc gia nhập NATO. Thực tế này làm xuất hiện nguy cơ hình thành vòng vây NATO chung quanh Nga, khiến cho quan hệ Nga – NATO căng thẳng. Bây giờ lại nổ ra vấn đề Ukraina.

–      Điểm nổi bật của cục diện quốc tế đa cực hiện nay là quan hệ và mâu thuẫn Mỹ – Trung Quốc sẽ là yếu tố chi phối toàn thế giới trong thế kỷ 21, trận địa chính của mối quan hệ song phương này là khu vực Châu Á – Thái Bình Dương; trong đó không may Việt Nam là một trong các điểm nhạy cảm của các mối quan hệ hay giành giật nhau giữa hai người khổng lồ này. Tình hình càng trở nên phức tạp hơn ở chỗ Châu Á – Thái Bình Dương đồng thời cũng là khu vực kinh tế năng động nhất của thế giới trong thế kỷ này, nơi tranh hùng sôi nổi nhất của các nền kinh tế lớn trên thế giới. Tại đối thoại Mỹ – Trung lần thứ 6 (Bắc Kinh 09 và 10-07-2014) phía Mỹ thẳng thắn yêu cầu Trung Quốc không được phá vỡ nguyên trạng trên Biển Đông, phải tuân thủ luật pháp quốc tế, giải quyết hòa bình các tranh chấp, cần sớm cùng các nước ASEAN hoàn thành COC; Mỹ nói rõ không đứng về bên nào, đồng thời nhấn mạnh để quan hệ Mỹ – Trung đổ vỡ sẽ là thảm họa cho thế giới. Cũng thời gian này Thượng Viện Mỹ thông qua nghị quyết về Biển Đông cùng một nội dung tương tự.

          I.2. Về siêu cường Trung Quốc đang lên

Khoảng năm 2035 trở đi, nhiều khả năng Trung Quốc có thể sẽ là nền kinh tế lớn nhất thế giới – nghĩa là GDP vượt Mỹ tính theo sức mua PPP (cứ tạm tin vào các số liệu thống kê như vậy). Có thể nói đây là sự phát triển mang lại cho thế giới nhiều tai họa hơn là thuận lợi. Đơn giản vì quốc gia này không có ý niệm phát triển gắn với trách nhiệm đối với thế giới. Nó vẫn đang ở trong quá trình vơ vét tài nguyên thế giới, đồng thời bằng mọi thủ đoạn và phương tiện đang tận dụng khai thác quy mô thị trường của nền kinh tế thế giới toàn cầu hóa cho sự phát triển nóng của chính nó. Chắc chắn trong một thời gian dài nữa nó sẽ tiếp tục cách đối xử Thế giới chẳng là gì, Trung Quốc mới quan trọng, mục tiêu biện minh cho biện pháp [3]. Tất cả nhằm vào cái đích trở thành siêu cường Trung Hoa.

Hiện nay (2013), GDP p.c của Trung Quốc là 6000 USD. Nguy cơ quốc gia này rơi vào cái bẫy nước đang phát triển có thu nhập trung bình rất lớn, bởi vì kinh tế Trung Quốc tăng trưởng và phát triển chủ yếu vẫn dựa vào bóc lột lao động và khai thác quy mô thị trường, chứ không dựa vào nâng cao công nghệ và thể chế. Trong khi đó đất nước có quá nhiều vấn đề nan giải và bất công. Hiện nay toàn quốc có khoảng 1/3 dân cư tại nhiều vùng nông thôn và hẻo lánh có thu nhập chỉ vài trăm USD tính theo đầu người. Vùng dân cư có thu nhập tính theo đầu người cao nhất gấp khoảng 100 lần vùng dân cư có thu nhập thấp nhất. Vấn đề ô nhiễm môi trường gần như không có lời giải. Trung Quốc có rất nhiều vấn đề nội trị nóng bỏng như Tân Cương, Tây Tạng, Nội Mông, sự phát triển khác biệt giữa các vùng… Song Trung Quốc là một thế giới cho chính nó, nên Trung Quốc không thể sụp đổ được. Bởi vì khả năng của nó hy sinh cục bộ để giữ toàn cục rất lớn, bằng bất cứ giá nào – ví dụ Trung Quốc đã từng hy sinh hàng thập kỷ sự phát triển của miền Tây để tạo ra sự phát triển năng động miền duyên hải…

Cả thế giới kinh ngạc trước tình hình chỉ trong vòng một nửa thế kỷ Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 sau Mỹ, một cường quốc quân sự có quân đội đông nhất thế giới, chi phí quốc phòng chỉ xếp sau Mỹ. Sức mạnh kinh tế và quân sự Trung Quốc đang tạo ra áp lực lớn tại chỗ cho các nước trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á, uy hiếp trực tiếp tất cả các nước láng giềng. Trung Quốc là đối tác thương mại và thị trường đầu tư quan trọng đối với tất cả các nền kinh tế lớn của thế giới, với dự trữ ngoại tệ trên 4000 tỷ USD đang là chủ nợ số một của thế giới. Tuy nhiên, đấy là sự phát triển đang gây ra nhiều vấn đề lo ngại cho cả thế giới, trước hết bởi lẽ các thể chế quốc tế và khu vực hiện có một mặt không theo kịp tình hình có sự tham gia ngày càng lớn của Trung Quốc vào nền kinh tế thế giới, mặt khác nhiều thực tiễn hoạt động kinh tế của Trung Quốc đang vô hiệu hóa những thể chế này (các vấn nạn mới nhất là vấn đề ăn cắp bản quyền và những vi phạm bảo hộ sở hữu trí tuệ, nạn hacker, rửa tiền, tham nhũng…).

Các chuyên gia tính toán, giả thử muốn nâng GDP p.c. của Trung Quốc hiện nay lên gấp đôi, Trung Quốc cần một khối lượng nguyên liệu, năng lượng gấp 4 – 5 lần mức đang sử dụng hiện nay, lấy ở đâu ra? Quy mô thị trường cũng phải tăng lên tương ứng. Phát triển như vậy mà lại không gắn với trách nhiệm, sẽ tác động lên nền kinh tế thế giới như thế nào? Các chuyên gia đánh giá quy mô và phương thức Trung Quốc hiện nay thu hút tài nguyên của thế giới đã vượt xa chủ nghĩa thực dân mới trong thế kỷ 20, sản phẩm Trung Quốc hiện nay đã lũng đoạn đáng kể thị trường nhiều nước… Vậy sắp tới sẽ là gì?

Bành trướng bá quyền là lẽ sống, là phương thức sống, là triết lý xây dựng nên và nuôi dưỡng sự tồn tại của đế chế Trung Hoa từ ngàn xưa. Ngày nay đế chế này đang phục sinh dưới cái nhãn chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc. Nghĩa là bành trướng bá quyền còn là vấn đề bản chất sinh tồn và văn hóa, chứ không phải chỉ đơn thuần là vấn đề chủ trương chính sách, hay là vấn đề đạo đức chính trị của lãnh đạo Trung Quốc đương thời. Nó còn là sản phẩm của văn hóa và truyền thống Trung Quốc từ ngàn xưa để cố kết nên, và hôm nay đang duy trì, và phát triển tiếp cái Đại Trung Hoa trong thế giới đương đại. Bởi lẽ nếu không có tăng trưởng nóng như vậy, không giữ được toàn Trung Quốc cho khát vọng siêu cường, Trung Quốc sẽ sụp đổ, thậm chí có thể sẽ tan rã thành nhiều mảng. Từ khi nước CHNDTH ra đời đến nay, có một thực tế qua mọi thời kỳ là một khi nội trị càng nhiều vấn đề nóng bỏng, lãnh đạo Trung Quốc càng phải ra sức hướng sự bùng nổ của các mâu thuẫn bên trong ấy ra bên ngoài. Chính thực tế này giải thích tại sao hôm nay “cả nước Trung Quốc đang được chính quyền dạy nhầm là người Trung Quốc đã phát hiện ra Nam Hải (Biển Đông) và các đảo ở đây” (Bill Hayton, Prospect Magazine 10-7-14) để xúc tiến bá chiếm Biển Đông.

Mới lên cầm quyền được 2 năm, chủ trương “trỗi dậy hòa bình” thời Hồ Cẩm Đào đã được Tập Cận Bình đẩy lên thành khát vọng “giấc mộng Trung Hoa”, dùng mọi ảnh hưởng củng cố “con đường tơ lụa truyền thống” trên bộ (từ Trung Quốc qua Trung Á, châu Phi, sang châu Âu, đến tận Địa Trung Hải…), đồng thời đẩy mạnh hình thành “con đường tơ lụa thứ hai trên biển” nối eo Malacca với Biển Đông, đi ra Thái Bình Dương, rồi vòng sang Ấn Độ Dương…, trước mắt tập trung thực hiện cái “đường lưỡi bò 9 vạch” (hiện nay trở thành 10 vạch) và tìm cách chi phối tuyến giao thương hàng hải huyết mạch số 1 của thế giới, nâng kim ngạch buôn bán với các nước ASEAN hiện nay khoảng 500 tỷ USD sẽ lên 1000 tỷ USD vào năm 2020, tăng FDI…

Từ 3 năm nay, khai thác những vấn đề phức tạp mới trong cục diện quốc tế đa cực, đặc biệt là tình hình Mỹ và quan hệ Nga – Mỹ, lãnh đạo Trung Quốc chủ trương mở ra thời kỳ mới trong chiến lược bá chiếm Biển Đông. Tập Cận Bình tuyên bố Trung Quốc có lợi ích cốt lõi ở Biển Đông, chủ quyền của Trung Quốc là vấn đề không thể nhân nhượng… Đây còn là cách Trung Quốc trả đũa chiến lược trục xoay Châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ.

Trong tình hình Mỹ cam kết bảo vệ chủ quyền của Nhật bao gồm cả khu vực đảo Điếu Ngư trên cơ sở hiệp ước liên minh phòng thủ Mỹ – Nhật, đồng thời Mỹ cam kết mạnh mẽ bảo vệ Philippines (tuyên bố của Obama 29-04-2014 và việc hai nước ký hiệp ước liên minh quốc phòng mới cho 10 năm tới), có thể phán đoán Trung Quốc lúc này tuy gây ồn ào, nhưng thật ra không dám trực tiếp đụng độ với Nhật và Philippines, vì so sánh lực lượng tại hai nơi này đều nghiêng hẳn về phía Mỹ.

Trong khi đó sự kiện giàn khoan HD 981 và những hệ lụy đang diễn ra cho thấy Trung Quốc lúc này tập trung áp lực bành trướng vào vùng biển của Việt Nam.

Các diễn tiến tiếp theo như việc Trung Quốc tiếp tục đặt thêm các giàn khoan ở vùng vịnh Bắc Bộ (giáp ranh đường phân định và thuộc vùng đang còn tranh chấp giữa ta và Trung Quốc), xúc tiến hình thành chiến tuyến các căn cứ quân sự nổi trên biển chạy dài từ Du Lâm (Hải Nam), Tam Sa (thuộc Hoàng Sa chiếm của Việt Nam) đến Gạc Ma, Chữ Thập (2 đảo này chiếm của Việt Nam năm 1988) hướng về Scarborough (Philippines), báo chí Trung Quốc đã nói đến khả năng lập vùng nhận dạng phòng không (AIDZ) trên Biển Đông… cho thấy Trung Quốc đang tìm cách khẳng định “đường lưỡi bò” bằng thực lực (bao gồm cả vũ lực), bất chấp sự lên án quyết liệt của toàn thế giới.

Các bước đi mới nói trên của Trung Quốc đối với Việt Nam, bắt đầu từ sự kiện giàn khoan HD 981, cho thấy hiện nay vùng biển của Việt Nam đã trở thành đối tượng bành trướng trực tiếp của Trung Quốc, khâu Trung Quốc có khả năng nhiều nhất để giành thắng lợi trên Biển Đông.

Nếu đặt tình hình thực tế nói trên trong bối cảnh Trung Quốc luôn bố trí sẵn sàng lực lượng quân sự trên toàn biên giới phía Bắc Việt Nam, có ảnh hưởng sâu sắc với tất cả các nước láng giềng trên sườn phía Tây của Việt Nam, trên biển Đông là cái đường 9 vạch đang được Trung Quốc tìm mọi cách khẳng định, từ căn cứ hải quân Du Lâm (Hải Nam) đến đặc khu kinh tế Vũng Áng (Hà Tĩnh) chỉ cách nhau khoảng 350km hiện đang có hàng nghìn công nhân Trung Quốc làm việc.., có thể hình dung một bản đồ tổng hợp quân sự – chính trị, trong đó Việt Nam đang bị uy hiếp và bao vây như thế nào. Nếu nhìn sâu thêm vào sự lệ thuộc về kinh tế của Việt Nam, vào tình hình lũng đoạn của quyền lực mềm Trung Quốc vào nội tình Việt Nam, có thể nhận định: Về tổng thể Việt Nam đang bị Trung Quốc uy hiếp toàn diện và ở mức độ chưa từng có kể từ sau ngày 30-04-1975.

Phải nói khi xẩy ra cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc 17-02-1979 tình hình Việt Nam bị uy hiếp hồi đó không nguy hiểm bằng hôm nay. Cái “4 không được”[4] Trung Quốc gửi gắm vào dịp chuyến đi Hà Nội 15-06-2014 của Dương Khiết Trì, càng làm rõ Trung Quốc không có sự khoan nhượng nào.

Như đã trình bày trong bài “Còn cay đắng hơn cả câu chuyện Mỵ Châu – Trọng Thủy”, Trung Quốc đã sẵn sàng trong tay các kịch bản từ A – Z để đối xử với Việt Nam theo lợi ích của Trung Quốc đòi hỏi. Hiện nay Trung Quốc đang theo đuổi kịch bản A, vì nó rẻ nhất, “êm ả” nhất đối với dư luận thế giới, đạt nhiều hiệu quả nhất. Bởi lẽ kịch bản này khai thác được tối đa sự khiếp nhược của Việt Nam, Trung Quốc có thể lấn chiếm tiếp mà không cần phải dùng đến những biện pháp quân sự ồn ào. Kịch bản Z là kịch bản cuối cùng, tổng hợp tất cả các biện pháp kinh tế, chính trị và chiến tranh.

Việc Trung Quốc cử Dương Khiết Trì đi Hà Nội có thể cho thấy kịch bản A được tiếp tục; với lý do nếu làm quá tay, sự phản ứng của nhân dân Việt Nam sẽ có thể dẫn đến tình huống Hà Nội không kiểm soát được tình hình, buộc Trung Quốc phải chuyển sang kịch bản ồn ào hơn mà Trung Quốc lúc này chưa muốn. Trong giới chuyên gia quân sự quốc tế, có ý kiến: Nếu lúc này Trung Quốc tiến hành chiến tranh dưới các hình thái như bất ngờ đánh chiếm biển đảo như đã làm trong các năm 1974, 1988, hoặc chiến tranh trên bộ như quy mô 17-02-1979, Trung Quốc có thể thắng; song điều bất lợi khiến Trung Quốc còn đang cân nhắc là: bước đi này có thể sẽ đẩy nhiều nước Đông Nam Á ngả hẳn theo Mỹ và tạo thành một vòng vây chống Trung Quốc…

Nghĩa là nhìn về bất kể phương diện nào, trong cục diện quốc tế hiện nay chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam đã thực sự bước hẳn sang một giai đoạn có những đối kháng mới, vì đây là khâu yếu nhất cần đột phá cho giai đoạn mới của chiến lược bá chiếm Biển Đông. Nghĩa là Trung Quốc thấy đã đến lúc vứt cái lá nho “4 tốt và 16 chữ” đã hết thời.

Thế còn Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ)?

Cuốn sách Lược tân lịch sử Trung Quốc (xuất bản 1954) đưa lại lời phát biểu của Mao Trạch Đông nói sau khi thành lập nước CHNDTH: “Tất cả các lãnh thổ và hải đảo thuộc khu vực ảnh hưởng của Trung Quốc đã từng bị phe Đế Quốc Tây Phương và Nhật Bản chiếm đoạt từ giữa thế kỷ 19 đến sau Thế Chiến I, như  Ngoại Mông, Triều Tiên, “An Nam”, Mã Lai, Thái Lan, Miến Điện, Bhutan, Nepal, Ladakh, Hồng Kông, Macao, cùng những hải đảo Thái Bình Dương như  Đài Loan, Bành Hồ, Ryukyu, Sakhalin, phải được giao hoàn cho Trung Quốc”[5]. Quan điểm này của Mao, cùng với toàn bộ những sự việc tranh chấp lãnh thổ do Trung Quốc gây ra với tất cả các nước láng giềng (trong đó có Việt Nam) trong suốt chiều dài lịch sử nước CHNDTH cho đến hôm nay nói lên rất rõ ý thức hệ mà ĐCSTQ tôn thờ: chủ nghĩa bành trướng Đại Hán.

Đại hội 18 của ĐCSTQ (11-2012) đã đưa vào nghị quyết: Nước giàu quân mạnh, quyết đánh thắng các cuộc chiến tranh cục bộ. Gắn nội dung này với những phát biểu của Tập Cận Bình về giấc mộng Trung Hoa, về lợi ích cốt lõi của Trung Quốc trên Biển Đông…, quan sát những hành động Trung Quốc đang tiến hành, chỉ có thể kết luận ĐCSTQ hôm nay bộc lộ nguyên hình là tổ chức quyền lực của đế chế Trung Hoa phục sinh, đang khai phá con đường cho quốc gia này trở thành siêu cường số một.

Đến đây có thể kết luận: Cục diện quốc tế đã sang một trang mới, trong đó tranh chấp quan hệ Mỹ – Trung trở thành yếu tố chính chi phối cục diện quốc tế đa cực trong thế kỷ 21. Trung Quốc bước vào một thời kỳ mới trên con đường khẳng định vai trò siêu cường. Trước mắt là tận dụng tình hình thế giới hiện nay đang có nhiều vấn đề mới ở khắp mọi nơi, Trung Quốc quyết định đi vào một thời kỳ mới của chiến lược bá chiếm Biển Đông. 

Do bản chất bành trướng, nên quá trình đi lên siêu cường của Trung Quốc không gắn với trách nhiệm đối với thế giới. Thực tế này khiến cho Trung Quốc trở thành vấn đề của cả thế giới, không thể trở thành vai trò lãnh đạo thế giới như Mỹ và phương Tây hiện đang tiếp tục nắm giữ.

 

II. Con đường phát triển của Việt Nam đã sang trang từ lâu

II. 1. “Nước Việt Nam là của người Việt Nam!”

Ngày 30-04-1975 đất nước thống nhất, Việt Nam hoàn toàn độc lập, kết thúc thời kỳ chiến tranh, đi vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ đất nước. Lịch sử Việt Nam bắt đầu sang trang mới từ đây: Dân tộc Việt Nam làm chủ quốc gia độc lập thống nhất của mình. Khẩu hiệu làm nên Cách Mạng Tháng Tám “Nước Việt Nam là của người Việt Nam!” trở thành hiện thực với ngày 30-04-1975.

Lẽ ra…

Nhiệm vụ đầu tiên và mãi mãi của quốc gia độc lập là phải thiết lập và phát huy quyền làm chủ đất nước của toàn dân tộc, vì điều này đơn giản như lẽ sống: Đất nước này từ nay là của toàn thể dân tộc Việt Nam ta, trường tồn với dân tộc ta. Tổ quốc mang trong tim mỗi người Việt Nam chúng ta có ý nghĩa thiêng liêng là vì lẽ như vậy.

Bao nhiêu hy sinh xương máu, bao nhiêu đau thương mất mát, bao nhiêu điều đau lòng tay trái chém tay phải, bao nhiêu lầm lỗi và oán thù, bao nhiêu sai lầm phải trả giá đau đớn, và còn biết bao nhiêu đau khổ khác nữa không thể nói lên thành lời cả dân tộc này đã phải chịu đựng trong suốt 3 thập kỷ chiến tranh… Máu nào của người dân ta đã ngã xuống cũng đều là máu của dân tộc ta, tất cả chỉ càng làm cho mỗi người Việt Nam chúng ta thấm thía sâu sắc hơn cái giá phải trả cho đất nước độc lập thống nhất, càng thôi thúc mỗi người Việt Nam chúng ta từ nay phải hiểu các bài học của quá khứ để gìn giữ đất nước trong hiện tại và tương lai, giác ngộ mỗi chúng ta ý thức phải vươn lên sống xứng đáng với tính cách là người chủ của đất nước.

Hàng triệu sinh mạng bị cướp đi, hàng triệu tấn bom đạn tàn phá đất nước và biết bao nhiêu đau khổ khác nhân dân ta phải trải qua suốt 3 thập kỷ chiến tranh ấy để có đất nước độc lập thống nhất không cho phép bất kỳ ai, dù với lý do gì, tiếp tục hành hạ đất nước trong hiện tại, cướp đi sức sống của đất nước vì hạnh phúc của hòa hợp dân tộc và vì tương lai của một đất nước độc lập, tự do.

Một giọt máu phải nhỏ xuống đất này, một giọt nước mắt mất đi, từng giọt mồ hôi phải nuốt vào trong, tất cả phải dồn nén, phải hun đúc ý chí của từng người dân Việt chúng ta thành một tinh thần dân tộc thống nhất, để sớm lấy lại cho đất nước những gì chiến tranh đã cướp đi, cùng nhau vực dậy đất nước. Hiện tại và tương lai của đất nước đòi hỏi mỗi người dân của đất nước ghi xương khắc cốt những bài học của quá khứ, bởi vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trên con đường dân tộc và dân chủ vô vàn gian truân. Hơn nữa, nước ta trước đây, bây giờ và mãi mãi phải là láng giềng của một Trung Quốc tham lam, lại luôn luôn nằm ở vị trí đầu sóng ngọn gió của khu vực, nếu chúng ta không thấy những yếu kém của nước ta và không hiểu cái thế giới chúng ta đang sống để quyết tìm ra con đường đi lên, nước ta làm sao tránh được số phận con mồi trong tranh giành quyết liệt tiếp theo giữa các cường quốc?… …

Những điều lẽ ra phải làm như vậy ngay sau ngày 30-04-1975 đã không xảy ra.

Sau 30-04-1975 ĐCSVN đã chọn con đường thừa thắng xông lên, tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội theo con đường của chủ nghĩa Mác – Lênin.

Hệ quả: kinh tế đất nước vốn kiệt quệ sau chiến tranh đi ngay vào sụp đổ cho đến khi phải tiến hành đổi mới. Đồng thời đất nước bị đẩy tiếp vào 2 cuộc chiến tranh lớn kéo dài 10 năm (1979 – 1989).

Nguyên nhân chủ yếu là ý thức hệ của đảng một mặt đã lựa chọn cho đất nước con đường phát triển sai lầm vì duy ý chí, và mặt khác đã nhìn nhận sai bàn cờ thế giới lúc ấy, nên đẩy đất nước vào tình thế nguy hiểm.

Cần nhìn nhận 40 năm độc lập thống nhất đầu tiên là một giai đoạn phát triển thất bại, vì các lẽ:

1.    Ngoài 10 năm đầu mất cho 2 cuộc chiến tranh tiếp theo, thành tựu giành được trong 28 năm đổi mới tuy là rất lớn so với điểm xuất phát, nhưng về cơ bản là thất bại nếu so với công sức đã bỏ ra và cơ hội đất nước có được. Mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 không thể hoàn thành vì cơ cấu kinh tế hiện còn rất lạc hậu, kết cấu hạ tầng vật chất & kỹ thuật thấp kém, hiện đang khủng hoảng cơ cấu sâu sắc, chưa có lối thoát ra khỏi cái bẫy là nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp, chất lượng nguồn nhân lực đạt được nhìn chung còn thấp, khoảng cách tụt hậu so với nhiều nước chung quanh ngày càng rộng.

2.    Sau 3 thập kỷ xây dựng đất nước, lúc đầu là xây dựng chủ nghĩa xã hội, do có nhiều sai lầm không khắc phục được nên từ khi tiến hành đổi mới phải điều chỉnh lại thành xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, những thành tựu kinh tế – xã hội đạt được có nhiều măt hạn chế như đã nói trong điểm 1 bên trên. Riêng về mặt thể chế chính trị, nước ta hiện nay rất lạc hậu so với đòi hỏi phát triển của đất nước, so với xu thế phát triển của thế giới, so với một số quốc gia có mức thu nhập tính theo đầu người tương tự như nước ta. Tuy có cái tên gọi là chế độ xã hội chủ nghĩa hay là định hướng xã hội chủ nghĩa, chế độ chính trị một đảng của đất nước hiện nay về bản chất có quá nhiều tàn dư của chế độ phong kiến cũ. Quá trình tha hóa đã nhanh chóng làm cho tính đảng trị của chế độ ngày càng nổi bật, trên thực tế ngày nay đã trở thành chế độ toàn trị.

3.    Đất nước đã độc lập thống nhất 4 thập kỷ. Thay vào chỗ phải có một nhà nước pháp quyền dân chủ để thực thi quyền lực của nhân dân, đất nước có một chế độ chính trị toàn trị. Tính đảng trị của chế độ này tạo ra cho truyền thống phong kiến cũ cha truyền con nối cái phương thức mới “làm vua tập thể” (Nguyễn Văn An) để duy trì chế độ đảng mặc nhiên và mãi mãi cầm quyền cai trị đất nước. Trên thực tế đã hình thành sự phân chia: ĐCSVN trở thành kẻ cai trị, nhân dân trở thành người bị cai trị. Nhân dân bị phân chia thành các giai cấp để đối xử. Trong nhiều hình thái tư tưởng của xã hội và trong thiết kế các chủ trương chính sách vẫn tồn tại sự phân biệt giữa “ta” và “ngụy”, giữa “yêu nước đồng nghĩa với yêu chủ nghĩa xã hội”  và  “không yêu chủ nghĩa xã hội là không yêu nước, là chống chế độ”; ai dám mở miệng nói trong lòng kháng chiến có cuộc nội chiến, sẽ lập tức bị quy kết là phản động… Nhiều quyền tự do, dân chủ cơ bản của công dân tuy đã được ghi trong hiến pháp nhưng chỉ là hình thức. Tuy chế độ toàn trị của ĐCSVN mang trong nó nhiều tàn dư của chế độ phong kiến cũ, song cái nền tảng tinh thần của “làm vua tập thể” hôm nay được tạo dựng ra không phải từ một trật tự của thượng tầng kiến trúc phong kiến vương đế, mà hình thành từ một thứ văn hóa ra đời trong quá trình chia chác quyền lực giữa các nhóm lợi ích đủ các thành phần phức tạp trong xã hội. Các “nhóm” này sống và tự ngụy trang bằng nhiều thứ “giả, diễn, hão”, luôn luôn tìm kiếm đồng minh trong mọi rác rưởi của xã hội[6]. Hệ thống chính trị của đất nước được tổ chức theo cái phương thức “đảng cử dân bầu” là tiêu biểu tổng hợp nhất cho những “giá trị” “giả, diễn, hão” này. Thực tế này lý giải: Bên cạnh những thành tựu đạt được phải trả giá đắt, mỗi bước phát triển của đất nước luôn gắn theo một nấc thang xuống cấp mới về đạo đức, chính trị và tư tưởng. Dẫn đến nghịch lý càng phát triển càng yếu, càng ngày sinh nhiều yếu kém mới, mâu thuẫn mới.

Xin lưu ý, chủ nghĩa Mác – Lênin ĐCSVN hiện đang kiên định bám giữ, có quá nhiều sai trái thoát ly hẳn cái gốc thực của lý luận Mác. Nhiều nhà khoa học trên thế giới đã chứng minh đó là chủ nghĩa Mác – Lênin đã được Stalin-hóa, trước khi vào đến Việt Nam nó được tác chế thêm một lần Mao-hóa nữa. Một thứ chủ nghĩa như vậy trên thực tế là phản khoa học – được chứng minh qua những thất bại của tất cả các ĐCS cầm quyền trên thế giới, chỉ còn lại là một công cụ giáo điều. Ý thức hệ này chỉ thuận tiện cho việc đàn áp chính trị – tư trưởng và làm tha hóa chính bản thân ĐCSVN. Là một công cụ chính trị như thế, ý thức hệ này một mặt khiến đảng đặt quyền lực của mình là tối thượng, mặt khác đã lấy đi của đảng mọi khả năng nhận thức khách quan sự vật. Có thể nói chính bản thân ĐCSVN đã tự nô dịch mình bằng ý thức hệ như vậy, và qua đó đang nô dịch cả đất nước.

Hệ quả là đất nước đã độc lập thống nhất bốn thập kỷ, song khẩu hiệu làm nên Cách Mạng Tháng Tám “Nước Việt Nam là của người Việt Nam!” với nghĩa nhân dân là người chủ của đất nước đến hôm nay vẫn chưa trở thành hiện thực, kẻ chiến thắng trở thành người cai trị chính nhân dân nước mình.

II. 2. Con đường phát triển của Việt Nam bị chặn đứng

Có thể nói một cách rốt ráo: Đất nước có độc lập thống nhất bốn thập kỷ, nhưng đến hôm nay nhân dân vẫn chưa được giải phóng!  Đây là nguyên nhân gốc gây nên mọi yếu kém của đất nước hôm nay, độc lập chủ quyền của quốc gia thiếu sức mạnh lẽ ra phải có trước những thách thức mới.

Thập kỷ đầu tiên sau 30-04-1975 bị mất hoàn toàn cho 2 cuộc chiến tranh và sự đổ vỡ kinh tế. Công cuộc kiến thiết lại đất nước thực ra chỉ bắt đầu từ khi tiến hành đổi mới 1986, đến nay là 29 năm. Bản “kết toán” 40 năm độc lập thống nhất của quốc gia hôm nay có thể phác thảo như sau:

1.    Đất nước hình thành một nền kinh tế phát triển theo chiều rộng, đã tận dụng tới mức tối đa có thể huy động được những yếu tố ban đầu như lao động rẻ, tài nguyên, đất đai và môi trường. Cơ cấu hiện có của nền kinh tế nhìn chung còn lạc hậu, hàm lượng chế biến trong sản phẩm rất thấp, tính lệ thuộc của một nền kinh tế gia công rất cao (thực chất là chỉ bán lao động rẻ và môi trường, không tự hình thành được những sản phẩm hay ngành kinh tế của chính quốc gia mình), kết cấu hạ tầng thấp kém, năng suất lao động vào lọai thấp nhất trong khu vực, khả năng cạnh tranh đang suy giảm nhanh vì đã khai thác cạn kiệt những yếu tố ban đầu, các hệ quả trong quá trình phát triển của một nền kinh tế lạc hậu ngày càng gia tăng (như thất nghiệp, nghèo đói, chênh lệch giàu nghèo và bất công xã hội, ô nhiễm môi trường…). Về nhiều mặt sự phát triển kinh tế có phần mang tính thị trường hoang dã, đồng thời đậm nét chủ nghĩa tư bản thân hữu. Nền kinh đòi hỏi bắt buộc phải tìm đường chuyển sang một thời kỳ phát triển mới.

2.    Thể chế chính trị và hệ thống nhà nước được thiết kế theo quan điểm đảng đứng trên Hiến pháp, nắm quyền lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối. Trong thực tế đó là một hệ thống đảng trị, có trong tay hệ thống nhà nước làm công cụ thực hiện quyền lực của hệ thống đảng. Hệ thống quyền lực kép này (đảng + chính quyền) còn có hệ thống mặt trận (MTTQVN) là công cụ phụ trợ. Thiết kế như vậy, ngân sách quốc gia (thuế của dân) phải gánh 3 hệ thống quyền lực: (a) hệ thống đảng, có mọi quyền lực nhưng không phải chịu trách nhiệm ràng buộc nào trước đất nước; (b) hệ thống chính quyền, thực thi quyền lực của hệ thống đảng và trên thực tế hầu như chỉ chịu trách nhiệm trước hệ thống đảng, (c) hệ thống mặt trận với tính chất là công cụ thâu tóm mọi hoạt động trong xã hội vào guồng máy của hệ thống chính trị. Toàn bộ cỗ máy quyền lực này được vận hành dưới sự chi phối của (1) tập đoàn kinh tế nhà nước, (2) nền kinh tế GDP tỉnh, và (3) tư tưởng tư duy nhiệm kỳ. Có thể thấy ngay, một hệ thống quyền lực cồng kềnh và chồng chéo, có hệ điều hành đảng quyết định tất cả nhưng không chịu trách nhiệm ràng buộc, với chất lượng con người hoạt động trong hệ thống được nhào nặn từ chính hệ thống này, hiển nhiên không thể vận hành có hiệu quả toàn bộ sự vận động của một quốc gia. Về nhiều mặt, đây là một hệ thống quyền lực kìm kẹp quốc gia, vô hiệu hóa không ít hay không thực thi được bao nhiêu các chính sách cũng như luật pháp do chính hệ thống này ban hành. Mọi chiến lược hay quy hoạch quốc gia đã vạch ra được đều trở nên không khả thi hoặc chỉ được thực hiện manh mún phần nào trong một hệ thống quyền lực chồng chéo, vận hành theo nhiệm kỳ và xé lẻ như vậy; quan liêu, lãng phí, tham nhũng và tội ác ngày càng trầm trọng là tất yếu. Chính hệ thống quyền lực này bóp nghẹt các quyền tự do dân chủ của nhân dân, hủy hoại nghị lực sáng tạo của đất nước. Thực tế này đẻ ra đòi hỏi phải tăng cường trấn áp để bảo toàn chế độ, hệ quả là ngày càng mất lòng dân, trực tiếp cản trở sự phát triển của đất nước. Với một hệ thống quyền lực như vậy không thể tạo ra và cũng không thể quản lý nổi một nước Việt Nam công nghiệp hóa.

Tình hình kinh tế đất nước bế tắc như hiện nay, đất nước hầu như bị động và chưa chuẩn bị được bao nhiêu trong việc đối phó với âm mưu bành trước bá quyền của Trung Quốc, cũng như nhiều yếu kém khác nữa của sự nghiệp phát triển đất nước trong đối nội và đối ngoại còn cho thấy: Trong tình hình mới, hệ thống quyền lực này ngày càng bất cập và không có khả năng dẫn dắt đất nước trong thế giới hiện tại. Ngoài ra không thể không đặt câu hỏi sự lũng đoạn của quyền lực mềm Trung Quốc đã tác động  tới mức nào vào hệ thống quyền lực nước ta hiện nay.

3.    Những sai lầm và yếu kém của hệ thống quyền lực trong hai thập kỷ gần đây ngày càng trầm trọng, gây ra áp lực ngày càng lớn trong đời sống của nhân dân. Chính sách thông tin bưng bít và định hướng để giữ chế độ và giữ đảng trong quá trình ngày càng tha hóa đang một mặt làm trầm trọng thêm tình trạng ngu dân, mặt khác vấp phải sự bác bỏ (bộc lộ ra hay không bộc lộ ra) của nhân dân ngày càng quyết liệt. Trong đời sống xã hội, sự lên ngôi của giả dối và của những hiện tượng phi đạo đức của quyền lực đang gây ra cuộc khủng hoảng trầm trọng đời sống tinh thần và văn hóa của đất nước. Trong đời sống đất nước xuất hiện những nghịch lý trầm trọng: Giữa lúc cần phát huy cao nhất tinh thần đoàn kết hòa hợp hòa giải dân tộc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, nhưng lòng dân ly tán và dân tộc bị chia rẽ; giữa lúc cần phát huy những giá trị tinh thần, đạo đức, văn hóa, xã hội cho sự nghiệp chấn hưng đất nước lại xảy ra hiện tượng đời sống tinh thần của nhân dân sa sút nhất, sự băng hoại các giá trị đạo đức xã hội ngày càng trầm trọng; chưa bao giờ các hiện tượng phản văn hóa, hủ tục, các tệ nạn xã hội như cờ bạc, nghiện hút và tội phạm hình sự tràn lan như hiện nay. Tinh thần dân tộc bị tổn thương, nguyên khí quốc gia bị đánh cắp. Và như đã phân tích trong phần II. 1. “Nước Việt Nam là của người Việt Nam!”, đất nước đã độc lập 40 năm mà vẫn chưa phải là của nhân dân và do nhân dân làm chủ. Nguyên nhân gốc của toàn bộ tình trạng này xuất phát từ sự tha hóa của hệ thống quyền lực.

4.    Bốn mươi năm độc lập thống nhất đầu tiên của đất nước cũng là 40 năm đảng và nhà nước Việt Nam vấp phải nhiều sai lầm đối ngoại trầm trọng nhất. Do nhìn nhận sai về thế giới, nên sau khi vừa mới ra khỏi chiến tranh đất nước lại bị kéo ngay vào 2 cuộc chiến tranh mới trong 10 năm liền (1979 – 1989). Hội nghị Thành Đô là sai lầm chiến lược tiếp theo, để lại hệ lụy lâu dài và khôn lường cho đất nước. Điều trớ trêu là ĐCSVN chủ trương đường lối đối ngoại hòa hiếu, không đi với bất kỳ nước nào chống lại nước thứ ba. Song đường lối đối ngoại bắt đầu từ hội nghị Thành Đô lại cột chặt nước ta vào một bên Trung Quốc, có nghĩa là làm như thế khách quan tạo ra những mâu thuẫn nhất định giữa nước ta và các nước thứ ba. Nguy hiểm hơn thế, đường lối đối ngoại này đã đưa con đường phát triển của đất nước đi vào quỹ đạo của Trung Quốc, tạo ra sự lệ thuộc trầm trọng và tình trạng bị Trung Quốc uy hiếp cho đến hôm nay ĐCSVN vẫn không thể tìm ra đối sách khắc phục; độc lập, chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia bị xâm phạm nghiêm trọng. Đường lối đối ngoại Thành Đô cùng với đường lối đối nội giữ đảng và giữ chế độ bằng mọi giá trên thực tế đã biến nước ta thành một nước chư hầu kiểu mới của Trung Quốc, giữa lúc nước ta đã hội nhập toàn diện vào thế giới toàn cầu hóa, có tất cả các quốc gia quan trọng là đối tác chiến lược hay đối tác toàn diện. Đường lối đối ngoại này khiến cho nước ta bị cô lập, vì nó chỉ cột chặt nước ta vào Trung Quốc và đẩy nước ta vào thế phải leo dây với các đối tác khác, nước ta vừa không có sự liên minh thật sự với bất kỳ đối tác quan trọng nào cần thiết cho an ninh của nước ta, vừa tự mình không tranh thủ được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của cả thế giới cho bảo vệ chủ quyền quốc gia và những lợi ích chính đáng của nước ta.

Trung Quốc là đối tác và đối tượng số một tự nhiên và mãi mãi đối với nước ta, nhưng trong 40 năm độc lập thống nhất đầu tiên của đất nước ĐCSVN đã thất bại hoàn toàn trong việc xây dựng nên một quốc sách có thể bảo vệ được độc lập chủ quyền quốc gia, đồng thời giữ được hòa bình và thực hiện được hữu nghị, hợp tác với Trung Quốc. Nguyên nhân chủ yếu là: ĐCSVN đặt lợi ích quốc gia dưới lợi ích của đảng và của chế độ, trí tuệ thấp kém, sự lầm lẫn nghiêm trọng của ý thức hệ, sự khiếp nhược trước Trung Quốc, bị quyền lực mềm Trung Quốc lũng đoạn nghiêm trọng.

Bản kết toán 40 năm đất nước độc lập thống nhất cho phép đánh giá:

1.    Đất nước trong 40 năm độc lập thống nhất đầu tiên dưới chế độ toàn trị của ĐCSVN đã tạo ra được một nền kinh tế chủ yếu là bán những thứ tự có nhiều hơn là những thứ tự làm ra, nợ nần nhiều ai trả (?), với một chế độ chính trị không có khả năng đưa đất nước trở thành một nước công nghiệp phát triển.

2.    Để giữ đại cục quan hệ với Trung Quốc, đảng đã phải chấp nhận nhiều thỏa hiệp hay hy sinh lợi ích quốc gia (không loại trừ có thể có những vụ việc sự tha hóa của cá nhân đã bán rẻ lợi ích quốc gia); đất nước lâm vào tình trạng lệ thuộc và bị chèn ép nhiều mặt đến mức gần như trở thành một chư hầu kiểu mới của Trung Quốc.

3.    Giữ đảng và chế độ như hiện nay, không thể giữ nước. Tình hình đã đến mức sự tồn tại và hành động của đảng và của chế độ như trong hiện tại đã và đang cản trở trực tiếp sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Sự lũng đoạn và uy hiếp của Trung Quốc rất nguy hiểm nhưng không nguy hiểm bằng.

Đại hội XII sắp đến của ĐCSVN nhất thiết cần thẳng thắn mổ xẻ toàn bộ tình hình đất nước nói trên và rút ra những kết luận dứt khoát.

III. Hiểm họa đen?

          III. 1. Lạc lõng

Phần I cho thấy thế giới đã sang trang tiếp, sang trang tiếp, và lại vừa mới sang trang tiếp một trang mới nữa. Càng ngày càng rõ trong thời đại chúng ta đang sống không có chỗ cho những suy nghĩ hão huyền về chủ nghĩa xã hội hoặc xu thế tất yếu nào về điều này trong bất kỳ mối quan hệ quốc tế nào. Hiện nay giành giật của quan hệ Mỹ – Trung đang chi phối sâu sắc bàn cờ thế giới. Một thời kỳ mới của các mối quan hệ quyết liệt tập hợp lực lượng và đối đầu nhau trong trật tự quốc tế đa cực bắt đầu, đặt ra rất nhiều vấn đề nan giải cho nhiều quốc gia liên quan – nhất là cho nước Việt Nam ta.

Phần II cho thấy lịch sử Việt Nam đã sang trang cách đây 40 năm. ĐCSVN đã áp đặt cho đất nước một con đường phát triển theo ý thức hệ của mình, hoàn toàn trái với đòi hỏi hỏi tất yếu của một nước được tự nhiên đặt sẵn vào vị trí địa kinh tế và địa chính trị trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay. Con đường phát triển đã lựa chọn ấy, một mặt là duy ý chí với quy luật phát triển tự nhiên của một quốc gia như nước ta – một nước nông nghiệp lạc hậu, trải qua liên tiếp những cuộc chiến tranh lớn thảm khốc, mặt khác là không nhận thức được cái trật tự quốc tế hiện hành đã ấn định cho nước ta một vị thế địa kinh tế và địa chính trị nhất định, buộc nước ta phải chấp nhận và phải tìm ra cách xử lý thỏa đáng sao cho có lợi nhất cho mình.

 Nói hình ảnh, ĐCSVN đã chọn cho đất nước độc lập thống nhất con đường phát triển đảng muốn và xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa như ở trên cung trăng – với hàm nghĩa đảng chọn một mô hình xây dựng đất nước không theo quy luật của phát triển, lại một mình chọn một sân chơi khác kiểu trong thế giới, không nhận thức đúng được các mối quan hệ qua lại giữa nước ta và toàn bộ thế giới bên ngoài, càng không hiểu rõ sự chi phối có ý nghĩa quyết định về nhiều mặt của những mối quan hệ qua lại này đối với nước ta.

Có thể kết luận: ĐCSVN vừa không hiểu đất nước sau khi ra khỏi chiến tranh, vừa không nhận thức đúng được cái thế giới nước ta đang sống.

Tư duy ý thức hệ của đảng là nguyên nhân của mọi nguyên nhân, lại trong hệ thống chính trị một đảng, nên ngay từ ngày đầu tiên của đất nước độc lập thống nhất, với tính cách là người chiến thắng, ĐCSVN đã trở thành người cai trị đất nước. Chính thực tế này giải thích tại sao quyền làm chủ của nhân dân đối với đất nước độc lập thống nhất không được trao lại cho nhân dân ngay sau khi chiến tranh kết thúc – nhân danh đảng phải đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của đảng, để đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Về phương diện này, lịch sử phát triển của Việt Nam đã bị chặn đứng ngay từ đấy – nghĩa là cách đây 40 năm, và bị bẻ ngoặt sang một hướng duy tâm, duy ý chí, với kết quả đạt được như hôm nay.

Theo quy luật tha hóa của quyền lực, hệ thống chính trị quốc gia được xây dựng lên dưới sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của đảng ngày nay đã thật sự trở thành chế độ toàn trị, đang tích tụ ngày một nhiều mâu thuẫn đối kháng với các quyền tự do dân chủ của nhân dân và đi ngược lại lợi ích quốc gia. Đất nước bị chính hệ thống chính trị của mình kìm hãm trước tiên, mọi bước phát triển đạt được đều phải trả giá đắt, hiện đang lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện rất sâu sắc.

Ngày nay, tình hình tha hóa của đảng đến mức ý thức hệ thật ra cũng chỉ còn lại là cái bình phong hay là công cụ, để che đậy hay để thực hiện yêu cầu bảo vệ quyền lực của đảng, thực sự nó không còn đọng lại chút nào là lý tưởng cách mạng.

Tổng hợp lại có thể nói: Tư duy ý thức hệ của ĐCSVN không phải là tụt hậu hay lạc hậu so với thời đại của thế giới hiện tại, nó lạc lõng theo một lối riêng không tưởng và không đi cùng với xu thế phát triển của thế giới hiện tại. Sự tha hóa của quyền lực trong hệ thống chính trị một đảng càng khiến cho sự lạc lõng này không thể cứu vãn được, đảng ngày càng suy yếu vì những thất bại của chính mình. Để tồn tại, đảng bắt buộc phải mắc thêm nhiều sai lầm mới, buộc phải thêm độc tài và toàn trị hơn nữa.

Tình hình nêu trên có thể rọi thêm ánh sáng vào những quyết định của đảng khi lựa chọn giải pháp Thành Đô và các giải pháp thỏa hiệp khác với Trung Quốc cho đến nay. Ảo tưởng rằng Trung Quốc cùng chung ý thức hệ đã làm cho cái giá phải trả cho những thất bại phạm phải càng đắt hơn.

Đành rằng giác ngộ là một quá trình, song độc quyền chân lý của chế độ toàn trị đã không dung nạp quá trình này cho đến hôm nay.

Cũng như ở hầu hết mọi nước Liên Xô Đông Âu cũ và một số nước xã hội chủ nghĩa khác, ở nước ta tiếng nói phê phán tư duy ý thức hệ cộng sản và đường lối sai lầm của tư duy này đã được trí tuệ của đất nước cất lên rất sớm ngay sau khi kháng chiến chống Pháp kết thúc. Chí ít vụ Nhân văn giai phẩm có thể coi như là tiếng nói tập thể đầu tiên nêu lên mối nguy của ý thức hệ làm mất dân chủ và nhân văn trong sự nghiệp phát triển đất nước. Ai cũng biết vụ Nhân văn giai phẩm đã bị trấn áp quyết liệt. Khoảng dăm bẩy năm nay hầu như các nạn nhân vụ này đã được phục hồi danh dự cá nhân, nhưng chế độ chưa bao giờ có một lời xin lỗi hay nhận sai lầm. Nhìn chung chế độ này không biết xin lỗi các sai lầm đã xảy ra (trong cải cách ruộng đất, trong cải tạo tư sản, trong cải tạo tù chính trị…).

Đặc biệt là sau khi kháng chiến chống Mỹ kết thúc, tiếng nói phê phán những sai lầm tư duy ý thức hệ và đường lối của nó ngày càng nhiều, được nói lên từ những nhân vật tiêu biểu như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Trần Độ, Trần Xuân Bách, vân vân… Sự tiếp thu của chế độ là quy kết những tư duy như thế là phản động, là chống chế độ, và thậm chí là phản quốc, phải đàn áp. Phan Đình Diệu không bị đàn áp nhưng bị bỏ ngoài tai, còn nhiều người khác bị bỏ ngoài tai…Sự việc mà tôi biết rõ nhất là bức thư gửi Bộ Chính trị ngày 09-08-1995 của đương kim Thủ tướng Võ Văn Kiệt lúc ấy đặt vấn đề: (1) phải nhận thức lại thế giới, (2) trên cơ sở đó xem lại đường lối xây dựng và bảo vệ đất nước, (3) giai đoạn phát triển mới của đất nước nhất thiết phải có nhà nước pháp quyền dân chủ. (4) nhất thiết phải thay đổi tổ chức và xây dựng đảng. Bức thư này mới chỉ đặt vấn đề, chưa nói được gì nhiều, nhưng không có cái tai nào nghe, và người viết thư được hưởng quả đắng, ba người khác bị bắt giam chỉ vì đã đọc bản photo copy…

Sự việc nghiêm trọng mới đây nhất của tình trạng độc quyền chân lý và bóp nghẹt tự do dân chủ là mọi ý kiến đúng đắn góp vào xây dựng / sửa đổi hiến pháp năm 2013 đã bị loại bỏ rất thô bạo, để thông qua rất hình thức (đúng ra phải nói là lừa dối) một hiến pháp sửa đổi về cơ bản giữ nguyên như cũ, cướp đi của đất nước cơ hội hòa bình cải cách thể chế độc đảng toàn trị hiện nay sang chế độ pháp quyền dân chủ. Việc sửa đổi hiến pháp như đã làm cuối cùng biến thành bước đi quan trọng để tiếp tục bảo vệ quyền lực của ĐCSVN bằng mọi giá, không đếm xỉa đến những đòi hỏi sống còn của đất nước.

Cho đến hôm nay, độc quyền chân lý vẫn đang quyết liệt tiếp tục đàn áp mọi tư duy “trái chiều”, nhân danh chống diễn biến hòa bình, bảo vệ chế độ, bảo vệ tổ quốc…

Đến đây có thể nói, hiểm họa đen hôm nay thực ra đã manh nha ngay sau ngày đất nước độc lập thống nhất đầu tiên từ tư duy ý thức hệ và từ quá trình tha hóa của quyền lực đảng.

Có thể rút ra kết luận: Tư duy ý thức hệ của đảng và sự tha hóa của quyền lực đến hôm nay đã biến chất trầm trọng ĐCSVN vốn là một đảng yêu nước, ra đời trước hết với lý tưởng giải phóng đất nước. ĐCSVN hôm nay tha hóa thành vấn đề nghiêm trọng của đất nước.

Trừ một thiểu số thoái hóa, phần lớn đảng viên, nhất là đảng viên các thế hệ kháng chiến, là những người yêu nước. Tất cả những đảng viên yêu nước  – như tôi đã viết trong bài 1[7] – có món  nợ lương tâm và có trách nhiệm chính trị phải trang trải với đất nước: Cất lên tiếng nói tại đại hội XII đòi vứt bỏ tư duy ý thức hệ, đòi phải thay đổi đảng để thay đổi chế độ, vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước theo tinh thần bức thư ngày 09-08-1995 của đảng viên Võ Văn Kiệt.

Với tính cách nắm quyền toàn diện và tuyệt đối, ĐCSVN hôm nay có trách nhiệm ràng buộc toàn diện và tuyệt đối trước đất nước thực hiện nhiệm vụ hòa bình cải cách chế đố toàn trị hiện nay chuyển sang chế độ pháp quyền dân chủ, và qua đó thay đổi chính bản thân mình trở thành một đảng khác đi với dân tộc, phấn đấu trở thành đảng của dân tộc, vì sự nghiệp cứu nước và chấn hưng đất nước. Đây phải là vấn đề nghị sự số 1 của đại hội XII. ĐCSVN hôm nay thực ra có mọi điều kiện cần và đủ để thực hiện thành công những nhiệm vụ trong vấn đề nghị sự số 1 này, đảng chỉ còn thiếu ý chí đoạn tuyệt với sự tha hóa của chính mình.

Hơn bao giờ hết, đại hội XII cần bắt đầu từ thẳng thắn nhìn lại toàn bộ tình hình của đất nước và của đảng trong 40 năm đất nước độc lập thống nhất đầu tiên, từ đó đảng tự giải phóng chính mình khỏi kiếp nô lệ của ý thức hệ và của quyền lực, chỉ để giữ lại cho mình lòng yêu nước, cùng với cả nước khai phá con đường dân tộc dân chủ cứu nước và đưa đất nước đi lên.

Mong rằng ĐCSVN hôm nay đừng mảy may ngó nghiêng hay lấn cấn gì với ĐCS Trung Quốc, để dứt khoát đoạn tuyệt với cái gọi là tư duy ý thức hệ anh em trên mọi phương diện. Đơn giản vì ĐCSTQ hôm nay chỉ giữ lại cho nó cái tên khai sinh như đang có, còn bản thân nó hôm nay là bộ máy quyền lực siêu lợi hại của siêu cường Trung Quốc đang lên trên con đường bành trướng bá quyền. Quan hệ ngoại giao là chuyện khác.

Đồng thời phải nói sòng phẳng: ĐCSVN hôm nay cũng chỉ còn lại mỗi cái tên. Bản chất đảng hiện nay, những việc đảng đang làm, hiện thực đất nước của nền kinh tế thị trường còn nhiều mặt hoang dã và đậm nét chủ nghĩa tư bản thân hữu, tất cả những điều này nói lên ĐCSVN hôm nay chẳng còn dính dáng gì đến chủ nghĩa Mác – Lênin hay tư tưởng Hồ Chí Minh. ĐCSVN hôm nay chỉ còn lại là đảng của quyền lực độc quyền nắm quyền cai trị đất nước. Việc thay đổi đảng trở thành đảng của dân tộc đã trở thành đòi hỏi sống còn đối với chính bản thân ĐCSVN, nhằm chặn đứng con đường đảng trở thành lực lượng đối kháng quốc gia và lợi ích dân tộc, tránh cho đất nước thảm họa tự hủy diệt.

          III. 2. Đối mặt với hiểm họa đen

Những khó khăn và thách thức đất nước hiện tại đang phải đối mặt trên mọi phương diện đối nội và đối ngoại không thể nói là nhỏ hoặc dễ giải quyết. Song hiểm họa đen về nhiều mặt có thể không đến từ những khó khăn và thách thức này, mà trước hết có thể lại đến từ những câu hỏi:

–      Nhân dân này, dân tộc này lựa chọn gì trước những vấn đề đang đặt ra cho đất nước hôm nay?

–      ĐCSVN với tính cách là lực lượng chính trị lớn nhất đang nắm quyền cai trị đất nước (không còn là lực lượng lãnh đạo nữa) lựa chọn gì? Lựa chọn đất nước hay chính bản thân mình?

–      Nói như thế chẳng lẽ hiểm họa đen chủ yếu đến từ phía ta, nghĩa là từ phía nhân dân này? Từ đảng này?

–      Đúng vậy với nghĩa: Nếu ta nhận biết được hiểm họa đen, thì có thể vô hiệu hóa nó, hoặc làm thất bại nó; đối phương dù có ác hiểm đến thế nào chăng nữa cũng không phải là bất khả kháng. Nhưng nếu ta mù quáng chẳng nhìn thấy gì, hoặc nếu ta cường điệu nó hay đánh giá thấp nó thì đúng là hiểm họa đen.

Đơn giản vì nếu ai hiểu Trung Quốc, chắc chắn đều thấy không thể quỳ xuống xin Trung Quốc rủ lòng thương lựa chọn kịch bản nhẹ tay đối với nước ta.

Trong phát triển kinh tế cũng thế, chẳng có gì cho không cả!

Vậy phải tập trung vào việc ta chống hiểm họa đen như thế nào?

Để làm rõ vấn đề, xin bàn luận thêm về Trung Quốc.

Như đã nói trong phần I. 2. Bàn về siêu cường Trung Quốc, hiện nay Trung Quốc đã sẵn sàng trong tay các kịch bản từ A – Z trong đối xử  với Việt Nam. Hiện nay họ đang thực hiện kịch bản A. Khi cần thiết họ có mọi điều kiện cần và đủ để chuyển sang kịch bản khác họ muốn. Kịch bản Z là tồi tệ nhất, tổng hợp mọi phương tiện từ những thủ đoạn bẩn thỉu đến chiến tranh. Thật là khó chịu một khi phải đối mặt với một đối tượng giữ thế chủ động như vậy (trong đó có phần nào do lỗi bị động từ trước đến nay của phía ta).

Sự thật là ngay trong kịch bản A hiện nay, Trung Quốc có thể dễ dàng làm kinh tế nước ta tổn thất 10 – 15% GDP như nhiều chuyên gia đã tính toán. Trong kịch bản khác, Trung Quốc có thể đánh thắng ta trong một cuộc hay một số cuộc chiến tranh có giới hạn. Trong kịch bản Z Trung Quốc có thể hủy hoại tới 1/3 GDP của nước ta hoặc hơn nữa, đánh chiếm thêm các đảo của ta, thậm chí có thể đánh chiếm kiểm soát một phần lãnh thổ ta trong một thời gian nhất định…

Vì ta không thể ra lệnh được cho Trung Quốc chỉ được phép dùng kịch bản gì và dùng như thế nào, cho nên lựa chọn sự đáp trả của phía ta mới là quyết định. Lựa chọn sự đáp trả đúng thì thắng, lựa chọn sai thì là hiểm họa.

Sự lựa chọn tại Thành Đô là sự lựa chọn sai, đã và đang đem lại hiểm họa hôm nay.

Trong tiểu thuyết “Lũ” (bản thảo 2, tập II, tháng 08-2012[8]), những kinh nghiệm có được trong những năm phải đối phó với cuộc chiến tranh 17-02-1979 và chủ nghĩa bành trướng bá quyền Trung Quốc khiến tôi đã phải tính đến kịch bản Z này. Song nước ta xưa nay có bao giờ chịu khuất phục một cuộc xâm lược như thế? Trong thế giới ngày nay lại càng không thể như thế. Trong thế giới đương đại, nước ta mới đây thôi đã 3 lần chiến thắng 3 kẻ xâm lược lớn với sự hậu thuẫn của cả thế giới tiến bộ.

Giả thiết Trung Quốc áp đặt lên nước ta kịch bản Z, nhân dân ta có sự lựa chọn nào hơn là trong tình huống “bị lôi ra làm thịt” như thế, thì phải tìm cách tự giải phóng đất nước thoát khỏi kiếp chư hầu, đồng thời giành lại cho chính mình quyền làm chủ đất nước đã bị trì hoãn 4 thập kỷ nay? Tôi có lòng tin vững chắc trong tình huống xảy ra kịch bản Z, nhân dân ta sẽ buộc phải lựa chọn như vậy và nhất định sẽ thắng cả gói: Nước giữ được độc lập, dân giành lại được quyền làm chủ đất nước đã bị trì hoãn 4 thập kỷ.

Nếu nước ta bị Trung Quốc áp đặt một kịch bản Z như thế, nhân dân ta sẽ phải một lần nữa hy sinh xương máu ghê gớm lắm, phải cố tránh. Trong vòng một nửa thế kỷ đã 4 cuộc chiến tranh lớn đẫm máu là quá nhiều đối với đất nước ta! Nhưng biết làm thế nào? Rồi bao nhiêu mổ hôi nước mắt, và cả máu nữa, mới xây dựng nên được những gì đất nước có hôm nay! Càng tha thiết với hòa bình, quý trọng sinh mạng và công sức của đất nước, càng phải có ý chí quyết liệt đấu tranh bảo vệ, huy động sự hậu thuẫn của cả thế giới để quyết bảo vệ. Bởi vì không thể quỳ gối mà gìn giữ được! Hòa bình không thể đến được bằng van xin.

Nhưng một khi cây muốn lặng, nhưng gió chẳng đừng!? Vâng, một khi nước ta bị Trung Quốc cố ý áp đặt một kịch bản Z như thế, cho dù cho đảng lựa chọn đối phó thế nào, chắc chắn dân tộc ta sớm hoặc muộn sẽ chỉ có sự lựa chọn duy nhất nói trên của chính mình mà thôi, sẽ quyết chấp nhận sự lựa chọn duy nhất này, như đã từng bao nhiêu lần dân tộc ta phải lựa chọn như thế trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước.

Đồng thời tôi cho rằng: Một khi phải đương đầu với một kịch bản Z như thế, trong sự lựa chọn nói trên của nhân dân có lẽ sẽ không thể có một chỗ đứng nào cho ĐCSVN như đảng đang là, vì lòng tin của nhân dân vào đảng như đang là không còn nữa.  ĐCSVN như đang là cũng không thể lựa chọn như nhân dân lựa chọn, càng không thể có phẩm chất và năng lực lãnh đạo nhân dân thực hiện sự lựa chọn ấy, bởi vì phẩm chất và năng lực của ĐCSVN như đang là không còn đáp ứng được nhiệm vụ quyết liệt này nữa. Trong tình hình như vậy, ĐCSVN như đang là sẽ không còn đứng và sẽ không thể đứng được trong hàng ngũ cứu nước của dân tộc.

Câu chuyện sẽ hoàn toàn khác, nếu ĐCSVN như đang là quyết lột xác để trở thành đảng của dân tộc và để cùng chung với nhân dân sự lựa chọn như thế. ĐCSVN chủ động tiến hành cải cách hòa bình đễ xóa bỏ chế độ toàn trị, thiết lập chế độ pháp quyền dân chủ chính là con đường đảng như đang là có thể hoàn toàn thay đổi chính bản thân mình, để  trở thành đảng cùng đi với cả dân tộc. ĐCSVN như đang là chủ động tiến hành cải cách hòa bình xóa bỏ chế độ toàn trị, để tập hợp toàn dân tộc thành một khối thống nhất rong một thể chế pháp quyền dân chủ, sẵn sàng đương đầu với bất kỳ kịch bản nào của Trung Quốc – đấy còn là con đường ngăn chặn hay làm thất bại kịch bản xấu nhất mà Trung Quốc muốn ra tay.

ĐCSVN như đang là, nếu chủ động hòa bình cải cách xóa bỏ chế độ toàn trị để tập hợp toàn dân tộc trong một thể chế pháp quyền dân chủ vì sự nghiệp cứu nước và chấn hưng đất nước, chắc chắn nước ta sẽ có sức mạnh của chính mình và đồng thời sẽ tranh thủ được sự hậu thuẫn của cả thế giới tiến bộ, kịch bản nào của Trung Quốc đưa ra cũng sẽ thất bại, đất nước ta sẽ có hòa bình và từ đó mới tạo ra được hữu nghị, hợp tác với Trung Quốc. Dĩ bất biến đối với mọi cái “biến” Trung Quốc muốn áp đặt với nước ta chính là điểm này!

Tâp hợp toàn dân tộc trong một thể chế pháp quyền dân chủ vì sự nghiệp cứu nước và chấn hưng đất nước – chính cái dĩ bất biến này mới cho phép nước ta một mặt bất di bất dịch gìn được giữ độc lập chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, mặt khác mới có điều kiện thực hiện các giải pháp sách lược. Trong quan hệ ngoại giao, làm sao mà thiếu được các giải pháp sách lược, nhất là đối với Trung Quốc? Song chỉ riêng lịch sử quan hệ Việt – Trung đã có đủ các bài học cho nước ta cần học: bất kỳ giải pháp sách lược nào với Trung Quốc mà nước ta không có cái dĩ bất biến này làm nền tảng, nước ta đều thua, và không hiếm trường hợp mất luôn cả chì lẫn chài – như đã trình bày trong câu chuyện Hội nghị Thành Đô.

Xin nhắc lại: Tiến hành giải pháp Thành Đô, trong thâm tâm những người lãnh đạo nước ta hồi ấy là muốn thực hiện một giải pháp sách lược lớn – hòa hiếu với Trung Quốc. Nhưng vì không có cái dĩ bất biến này làm chỗ dựa, nên cuối cùng nước ta chỉ nhận được 4 tốt và 16 chữ!

Hiểm họa đen đang đến, ở chỗ cho đến hôm nay đảng như đang là và đội ngũ lãnh đạo vẫn không dám nhìn lại 40 năm đầy sai lầm của mình, vẫn còn lo mất quyền lực hơn lo mất nước, vẫn còn cố tìm cách trì hoãn hay thỏa hiệp vì khiếp nhược, trong khi đó thời gian không chờ đợi và phía Trung Quốc đã sẵn sàng mọi kịch bản khác. Những vấn đề lịch sử để lại rất lớn và phức tạp, song chí ít ĐCSVN nhất thiết phải đứng trên quan điểm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc đánh giá lại toàn bộ chặng đường 40 năm đất nước độc lập thống nhất đầu tiên để có ý chí thay đổi đảng một cách triệt để.

Hiểm họa đen thực sự đang tiến đến, bởi lẽ cái giàn khoan HD 981 chưa đủ lớn, chưa đủ nặng để đặt ra cho Hội nghị Trung ương 9 sự lựa chọn sẽ phải được bàn đến tại đại hội XII sắp tới: Cứu nước? hay cứu chế độ và cứu đảng như đang là? Cho đến giờ phút này đối với cả nước đảng như đang là vẫn tiếp tục vừa lừa mỵ dân, vừa  đàn áp lẽ phải, trấn an dân, kêu gọi kiên định chung chung.., trong khi đó đội ngũ lãnh đạo vẫn trống đánh xuôi kèn thổi ngược.

Hiểm họa đen cũng có thể xuất hiện dưới dạng thường trực không mời mà đến, vì bất kể một yếu kém nào của chế độ đương quyền trong một bối cảnh nào đó, với sự lũng đoạn của quyền lực mềm – ví dụ như dưới dạng kịch bản tạo ra phản ứng bầy đàn cướp phá khoảng 800 xí nghiệp có FDI ngày 13 và 14-05-2014 ở quy mô không kiểm soát được… Những chuyện phản ứng bầy đàn như thế có thể xảy ra bất kỳ lúc nào trong thị trường kinh tế, trong thị trường tài chính tiền tệ, trong tình hình khiếu kiện đất đai của nông dân, trong trấn áp biểu tình, trấn áp chính trị, trong một thiên tai… Bởi vì lúc này đất nước có không ít những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội… rất nhạy cảm, mà nguyên nhân gốc thường là những sai trái và yếu kém chế độ và của người trong hệ thống chính trị. Bưng bít thông tin, không công khai minh bạch, các hoạt động lừa bịp của dư luận viên, các biện pháp trấn áp trên báo chí và bằng quyền lực… nhân danh giữ ổn định, vân vân.., tất cả những thứ này chỉ là đổ dầu vào lửa, đồng thời tạo đất thánh cho hoạt động của quyền lực mềm Trung Quốc. Chỉ có một con đường: Phải dựa hẳn vào dân, vào dân tộc, dấy lên sức mạnh từ dân để giải quyết tất cả, bắt đầu từ phát triển xã hội dân sự để nuôi dưỡng tinh thần dân tộc và phát huy dân chủ – vì sự nghiệp cứu nước và chấn hưng đất nước.

Hiểm họa đen thực sự không thể tránh nổi, nếu chế độ toàn trị hiện nay theo quy luật mâu thuẫn giữa cai trị và bị cai trị đến một lúc nào đó sẽ tức nước vỡ bờ và ắt phải sụp đổ, đất nước rơi vào tự hủy diệt của hỗn loạn nồi da xáo thịt.

Hiểm họa đen luôn tiềm tàng và không thể đảo ngược được, chừng nào đảng như đang là trốn tránh nhiệm vụ tạo ra cho đất nước cái dĩ bất biến nói trên không thể trì hoãn được nữa.

Cần thảo luận rộng rãi trong đảng để đi tới kết luận và hành động.

Lời kết: Phải cắt bỏ cái thòng lọng đang siết dần

Cách đây vài ngày cái dàn khoan HD 981 đã rời khỏi chỗ nó đứng hơn 2 tháng trong vùng biển của ta. Ý kiến nói ra nói vào trên thế giới nhiều chiều lắm.

Trong rừng các ý kiến ấy, đáng chú ý nhất là người Trung Quốc nhắc nhở chúng ta: Người Việt Nam đừng lấy trứng chọi đá, phải làm quen với việc cái giàn khoan này rút ra, cái khác sẽ được đưa vào, tùy theo công việc đòi hỏi mà!…

Ý kiến khác đánh giá: Việc rời giàn khoan HD 981 đi chỗ khác tạm thời làm xẹp được sự căng thẳng trong dư luận quốc tế; mặt khác bước đi này tiếp sức cho phái Việt Nam chủ hòa và đầu hàng, lôi kéo phái Việt Nam này vào giải pháp song phương, thuận cho phương thức “gác tranh chấp cùng khai thác”.

          …Dù sao, cái giàn khoan phải di chuyển đi nơi khác như thế cho thấy không phải Trung Quốc muốn làm gì cũng được!… Sự phản đối quyết liệt của Việt Nam và dư luận thế giới đã buộc Trung Quốc phải tính đến.

          …

          …

          …

          Nhìn lại, mười năm đầu sau 30-04-1975 Trung Quốc đã thành công đáng kể trong việc vô hiệu hóa gần như hoàn toàn ảnh hưởng của cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam trong khu vực, đồng thời giành được vị thế tạm thời lấp chỗ trống của Mỹ. Sau Hội nghị Thành Đô 1990, Trung Quốc thực sự đã đặt được cái thòng lọng ý thức hệ lên cổ đất nước ta. 25 năm qua Trung Quốc đã từng bước và bằng mọi thủ đoạn chính tri, kinh tế, quân sự siết dần cái thòng lọng này, và hôm nay đạt được một Việt Nam lệ thuộc trầm trọng về kinh tế, đối nội bị lũng đoạn, đối ngoại phải “leo dây”, ngoài việc Trung Quốc đã chiếm thêm được một số đất đai và một số diện tích biển đảo.

Những gì cái giàn khoan HD 981 đã lộ thiên ra được ở Việt Nam hai tháng qua và sự việc cái đường lưỡi bò 9 vạch được nối thêm một vạch nữa là những cái “tests” giúp Trung Quốc khẳng định được Việt Nam là khâu yếu nhất, cần đột phá cho giai đoạn mới của chiến lược bá chiếm Biển Đông, lúc tiến lúc thoái nhưng sẽ kiên định lấn tiếp.

Hiển nhiên, những năm tháng ngày càng hiểm nguy cho đất nước ta đang ở phía trước!

Bài toán 1: Chủ hòa, thôi kiện ra quốc tế, chấp nhận đàm phán song phương cho vấn đề Biển Đông, gác tranh chấp cùng khai thác, có thể tạm thời tránh được chiến tranh, bảo toàn được tài sản riêng và các đặc quyền của quyền lực; làm thế tuy sẽ phải mặt dày mày dạn thêm với dân và bạn bè, nhưng quyền lực có thể sống thêm một thời gian nữa, đất nước sẽ bị cô lập thêm nữa cũng đành, chấp nhận cái thòng lọng ở trên cổ đất nước siết thêm một nấc nữa nhưng quyền lực vẫn còn thở tiếp được… Song bia miệng chắc sẽ đời đời phỉ báng, tâm linh đất nước của quá khứ đằng đẵng đau thương chiến tranh chắc sẽ nguyền rủa trời tru đất diệt chủ hòa theo kiểu đầu hàng như vậy… Thật ra chủ hòa như thế là phương án chấp nhận chết dần từng nấc về thể xác, nhưng chết ngay và chết hẳn về nhân cách một quốc gia, một dân tộc. Cho dù có cái chủ hòa này, nhân dân ta chắc chắn sớm hay muộn sẽ không bao giờ chấp nhận bài toán này. Chấp nhận như thế, đầu tiên sẽ phải tính đến ngay sự phản kháng quyết liệt từ dân. Đàn áp thế nào đi nữa cũng không thể giập tắt được sự phản kháng của nhân dân, của dân tộc. Chấp nhận chủ hòa như thế, dù có dùng đến cả nội chiến để đàn áp nhân dân, trước sau và cuối cùng vẫn sẽ là cái chết nhục nhã của quyền lực.

Bài toán 2: Đấu tranh: Cắt đứt cái thòng lọng đang siết dần – Cùng với cả dân tộc và toàn thế giới tiến bộ bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia và luật pháp quốc tế. Trước hết bằng cách cùng với nhân dân cả nước nhất quyết cắt cái thòng lọng ý thức hệ và sự nô lệ của quyền lực cũng như sự cám dỗ của mọi lợi ích tội lỗi khác, trả lại quyền làm chủ đất nước cho nhân dân để tạo ra cái dĩ bất biến ứng vạn biến. Dân tộc sẽ thắng, đất sẽ nước thắng, các nước trong khu vực cùng thắng – cũng có nghĩa là luật pháp quốc tế sẽ thắng; thậm chí nếu có ý chí quyết liệt thì có thể bằng cái dĩ bất biến phải có này thắng được bành trướng bá quyền Trung Quốc trong đấu tranh hòa bình, nhờ đó tránh được chiến tranh… Nhưng lựa chọn bài toán 2 chế độ toàn trị cùng với mọi quyền lực và đặc quyền của nó sẽ không còn, ĐCSVN cũng có thể không còn như đảng đang là nữa mà phải trở thành thành một đảng khác, hoặc là không còn nữa.

Bài toán 3: “?” – Sự thật là quyền lực của chế độ toàn trị và lợi ích quốc gia không thể dung hòa được với nhau để cùng tồn tại, nên hình như không có bài toán này.

Để đại hội XII tính toán các bài toán và sự lựa chọn, chỉ xin lưu ý vài điều:

–      Trung Quốc siêu cường đang lên mạnh, ác, hiểm độc, nhưng không phải là bất khả kháng như suy nghĩ của bóng vía yếu. Cái yếu nhất của Trung Quốc không phải là sự phi nghĩa, vì bành trướng bá quyền Trung Quốc đâu có quan tâm đến đạo nghĩa, nên hầu như nó không có nỗi sợ nào về đạo lý và lẽ phải. Nhưng như đỉa sợ vôi, Trung Quốc rất sợ dân chủ. Một Việt Nam dân chủ đúng nghĩa, sẽ là gương xấu cho khát vọng cháy bỏng về dân chủ cho các vùng miền khác nhau ở Trung Quốc – đây là cái gót chân Achilles Trung Quốc đang giấu. Đập chết một Việt Nam dân chủ như vậy ngày nay hầu như không thể, vì sức mạnh nội tại của nó sẽ là bất khả kháng đã đành, và vì thế giới ngày nay không còn lạc hậu như cách đây 2 thế kỷ. Song trong trường hợp này cái gót chân Achilles của Trung Quốc sẽ làm cho nó đứng ngồi không yên. Ngoài ra, nhìn toàn diện cả bàn cờ thế giới, bành trướng bá quyền Trung Quốc vẫn đang là kẻ yếu (Nhiều người đã nói đúng: Trung Quốc mạnh chỉ vì ta quỳ xuống!).

–      Đi với ai? Liên minh với ai để đối phó với cái người láng giềng khổng lồ không biết điều này?

Xin trả lời:

§  Nước ta như hiện nay chẳng ai muốn liên minh cả, có nài xin cũng không được. Nước ta đã có khá nhiều cam kết của các đối tác chiến lược hay toàn diện rồi mà hiện nay vẫn tay trắng, chính là vì lẽ này. Các đối tác này đang kiên nhẫn chờ đợi.

§  Chẳng lẽ Việt Nam đang là một thứ con bệnh?

§  Nếu dân tộc ta, nước ta còn chưa đủ bản lĩnh sống vì chính ta, thì ai dám liên minh với ta? Xin hãy tự hỏi mình: Bản thân chúng ta có dám kết thân với kẻ ba, bốn mặt, hư, ăn bám và èo uột không?

Một khi ta có bản lĩnh dám sống vì một đất nước của dân tộc và dân chủ, ta sẽ có hậu thuẫn của trào lưu dân tộc và dân chủ trên cả thế giới này, sẽ biết liên minh như thế nào và liên minh với ai, từ đó sẽ tạo ra được liên minh. Trước sau, Việt Nam phải sớm tự thay đổi chế độ chính trị hiện nay của nước mình để có mọi điều kiện xây dựng được cho mình các mối quan hệ liên minh vững chắc dưới các hình thức và trong mọi lĩnh vực (kinh tế, chính trị, ngoại giao, quân sự, văn hóa…), ở mọi tầng nấc quốc tế và khu vực, để thay đổi triệt để nền kinh tế của nước ta, và để gắn kết được sự phát triển của nước ta với lợi ích phát triển chung của cộng đồng các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam nhất thiết phải làm như thế để tạo ra một liên kết bền vững với cả thế giới mà an ninh và sự nghiệp phát triển của nước ta đòi hỏi. Điều này trước hết có nghĩa Việt Nam phải trở thành một nước có những phẩm chất mới để có thể tạo ra cho mình một liên kết như thế với nhân loại. Dù để chậm mất 40 năm rồi, nhưng bây giờ vẫn là lúc dân tộc Việt Nam ta phải đề ra cho mình lẽ sống này!

Trong bối cảnh cục diện quốc tế đa cực rất phức tạp và giành giật nhau rất quyết liệt hiện nay, cái lối nghĩ “Việt Nam không bao giờ liên minh với ai để chống nước thứ ba” đã trở nên quá sơ lược, lỗi thời và tự trói tay mình. Thực ra lối suy nghĩ này hàm chứa (1)sự mơ hồ chết người về cái thế giới chúng ta đang sống, (2)sự nhu nhược không dám tự thay đổi bản thân mình để thích nghi và sống được trong cái thế giới hiện tại này, và (3)sự van xin trá hình lòng thương từ Trung Quốc.

Ngày nay Trung Quốc trở thành vấn đề riêng rất nghiêm trọng của Việt Nam, đồng thời cũng là vấn đề chung nghiêm trọng của cả thế giới, Việt Nam phải tự thay đổi chính mình để tự giải quyết vấn đề của mình và cùng chung tay giải quyết vấn đề của cả thế giới.

–      Có cái dĩ bất biến đất nước đang đòi hỏi, sẽ có thể ứng vạn biến. Nước ta muốn sống có hòa bình, hữu nghị và hợp tác được với Trung Quốc, nhất thiết phải sống như thế. Phải gạt sang một bên mọi di sản tiêu cực của quá khứ và suy nghĩ cảm tính, để có trí tuệ và ý chí cần thiết xây dựng nước ta trở thành một đối tác chiến lược của Trung Quốc với đúng nghĩa Trung Quốc phải nhìn nhận nước ta là đối tác chiến lược, chứ không phải là một chư hầu. Vấn đề đặt ra cho nước ta là: Ngoài “quyền lực mềm” luôn luôn có sẵn trong “thực đơn” Trung Quốc đưa ra, không có sự nhượng bộ hay quà biếu nào trong mối quan hệ này, mà chỉ có sản phẩm của trí tuệ và ý chí độc lập tự do nước ta cần tạo ra để xây dựng những mối quan hệ bình đẳng, cùng có lợi và thuận với lợi ích chung của cộng đồng khu vực và quốc tế. Nước ta rất cần một Trung Quốc của những mối quan hệ như thế. Song cũng có thể nói nước ta có những điều kiện làm cho Trung Quốc cần một Việt Nam không phải là thù địch của Trung Quốc, là cầu nối cho mọi liên hệ, là trung tâm của hòa giải trong khu vực – và một ngày nào đó Việt Nam trở thành một trung tâm phát triển mới trong khu vực cùng có lợi cho mọi bên hữu quan. Chống chủ nghĩa bành trướng bá quyền Trung Quốc một cách chủ động là phải dấn thân tự thay đổi chính mình như thế để có trí tuệ, bản lĩnh, nghị lực, thực lực và thế đứng tự mở ra được con đường làm cho mình trở thành một đối tác như thế mà Trung Quốc cũng phải cần đến.

Sự thật một trăm lần rõ phải bắt đầu từ dứt khoát cắt đi cái thòng lọng ý thức hệ đang siết trên cổ đất nước.

 

 

Thiết tha mong từng đảng viên suy nghĩ. Hiểm họa đen thực sự đang đến. Phải quyết liệt đối mặt với nó, bằng dấn thân tự thay đổi chính mình trước tiên. Nhìn được ra vấn đề, dựa hẳn vào dân tộc, sẽ định liệu được nhiệm vụ và những bước đi thích hợp.

Để có một điểm tựa nào đó cho so sánh, có thể nói: Một phần tư thế kỷ vừa qua từ Hội nghị Thành Đô mọi sai lầm chết người ở nước ta đều xuất phát từ lỗi của hệ thống; cũng một phần tư thế kỷ vừa qua, mọi thành công ngoạn mục của nước Đức thống nhất đều bắt nguồn từ hệ thống đúng đắn./.

 

Nguyễn Trung

Hà Nội  tháng 7-2014

 
[1] Bài 1: Còn cay đắng hơn cả câu chuyện Mỵ Châu – Trọng Thủy
http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_CayDangHonMyChauTrongThuy.htm

 

[2] Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, “Việt nam trong thế giới thập kỷ thứ hai thế kỷ 21http://vietsciences.free.fr/timhieu/khoahoc/kinhte/khunghoangkinhteVN2008.htm

 

[3]Tham khảo thêm: Peter W. Navarro, Greg Autry “Death by China: Confronting the Dragon – A Global Call to Action”.

 

[4] Tham khảo: Nguyễn Trung, “Từ 4 tốt đến 4-không-được

http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_BonTotBonKhong.htm

Bốn không được: (1) không được đánh giá thấp quyết tâm và sức mạnh của Trung Quốc, (2) không được dù tư liệu lịch sử làm dư luận thế giới hiểu sai, (3) không được quốc tế hóa vấn đề Biển Đông, (4) không được phá bỏ quan hệ hữu nghị với Trung Quốc đã xây dựng lại được 20 năm.

[5]  Tham khảo: Luật Sư NGUYỄN HỮU THỐNG, “CHÍNH SỬ TRUNG QUỐC PHỦ ĐỊNH BIỂN LỊCH SỬ TRUNG QUỐC”.

[6] Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, bộ 3 các loạt bài “Viễn tưởng”, bài 3 “Đảng Cộng Sản Việt Nam phải giành lại vai trò lãnh đạo bị đánh mất – hay là Hoang tưởng?”

http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_VienTuong_3.htm#_ednref11

[7] Nguyễn Trung, “Còn cay đắng hơn cả câu chuyện Mỵ Châu – Trọng Thủy”

http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_CayDangHonMyChauTrongThuy.htm

 

[8] Nguyễn Trung, tiểu thuyết “”, bản thảo 2, tập II, http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/Lu_I_15.pdf

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 20-7-14

Nguồn: http://viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_HiemHoaDen.htm

 

This entry was posted in Lên Tiếng. Bookmark the permalink.