Từ đầu tháng 5 dư luận rộ lên việc giàn khoan thăm dò dầu khí ngoài khơi của Trung Quốc hạ đặt trái phép tại Biển Đông. Nhưng việc hiểu cặn kẽ về chủ nhân, cấu tạo, chức năng con tầu và tên gọi của nó đã mấy ai rành, đa phần nói theo và gọi tên chưa đúng danh xưng của nó.
1. Nơi tạo ra và quản lý giàn khoan:
Chủ nhân của Giàn khoan HD 981 là Tổng Công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc (H: 中国海洋石油公司, A: China National Offshore Oil Corporation, viết tắt là CNOOC) được thành lập năm 1982. CNOOC là một trong 116 doanh nghiệp nhà nước (中国中央企业, SOEs) thuộc quyền quản lý của Ủy ban Giám sát và Quản trị Tài sản nhà nước của Quốc vụ viện (中华人民共和国国务院, Chính phủ Trung Quốc, SASAC). Với vốn đăng kí là 50 tỉ Nhân dân tệ (人民币)và tạo công ăn việc làm cho hơn 98.750 người. Tổng Công ty này được một tạp chí xếp thứ 93 trong số 500 tập đoàn, công ty có doanh thu lớn nhất trên thế giới, thậm chí được xếp trên hai hãng nổi tiếng là Sony (thứ 94, doanh thu 81.9 tỷ) và Boeing (thứ 95, doanh thu 81.7 tỷ).
Ngành nghề 產業: Công nghiệp khai thác dầu khí 海上石油及天然氣開發.
Trụ sở đóng tại: Số 25 đại lộ Triều Dương, quận Triều Dương, thành phố Bắc Kinh 中华人民共和国北京市朝阳區朝阳门北大街25号 với Đổng sự trưởng董事長 là Vương Nghi Lâm 王宜林
Nó có 2 Công ty con là: CNOOC Limited 中國海洋石油有限公司, có niêm yết tại Sở giao dịch Hồng Kông và China Oilfield Services 中海油田服務, niêm yết ở cả Sở giao dịch Hồng Kông và Sở giao dịch chứng khoán New York.
Dù bị xếp sau Tập đoàn Dầu khí Quốc gia (CNPC) và Sinopec trong lĩnh vực dầu khí, CNOOC là công ty lớn nhất ở Trung Quốc trong lĩnh vực tìm kiếm, khai thác dầu khí ở ngoài khơi.
Ngoài việc phát triển, trang bị kỹ thuật hiện đại, CNOOC còn tìm cách ký kết các hợp đồng (mua bán, hợp tác) với nhiều công ty khác trên thế giới để thăm dò, khai thác dầu khí. Tiêu biểu cho các hoạt động ấy là việc CNOOC mua Nexen – một tập đoàn năng lượng của Canada – với giá 15,1 tỉ USD vào đầu năm 2013. Đây là thương vụ mua lại công ty nước ngoài lớn nhất từ trước tới nay của Trung Quốc và cũng là một vụ mua bán gây nhiều tranh cãi ở Canada. Trong thương vụ này, có người trong giới phân tích cho rằng ngoài việc tìm kiếm thêm một nguồn năng lượng cho Trung Quốc, CNOOC còn muốn tiếp cận kỹ thuật hiện đại để có thể tiến hành thăm dò và khoan dầu tại những địa điểm sâu ở Biển Ðông. Năm 2005, Tập đoàn này đề nghị mua Unocal – công ty dầu lớn thứ tám tại Mỹ – nhưng đã thất bại vì Hạ viện Mỹ không tán thành việc mua bán đó bởi họ e ngại nó sẽ tác động xấu đến an ninh Mỹ, dù Unocal chỉ chiếm 0.8% số lượng dầu sản xuất tại đây. Unocal sau đó đã được bán cho Chevron, công ty dầu khí lớn thứ hai tại Mỹ, với giá 17.1 tỷ – ít hơn giá mà CNOOC đề nghị là 18.5 tỷ USD.
Có người trong giới phân tích cho rằng ngoài việc tìm kiếm thêm nguồn năng lượng cho Trung Quốc trong cơn khát dầu, CNOOC còn muốn tiếp cận kỹ thuật hiện đại để có thể tiến hành thăm dò và khoan dầu tại những địa điểm sâu ở Biển Ðông.
Hiện nay, CNOOC được trang bị các phương tiện, kỹ thuật hiện đại có thể tiến hành thăm dò, khoan dầu ở những vị trí rất sâu ngoài khơi mà Giàn khoan HD 981 là một ví dụ.
2. Giàn khoan đang hạ đặt ở Biển Đông:
“Giàn khoan HD 981” được Trung Quốc gọi là “海洋石油981” (“Hải dương Thạch du 981”, “Offshore Oil 981”) có thể hiểu nôm na đó là giàn thăm dò dầu khí ngoài khơi. Đây là tầu khoan dầu ngoài khơi lớn nhất của Trung Quốc và là thế hệ tầu khoan thứ 6 với công nghệ chế tạo và trang bị tiên tiến, giá trị hơn 6 tỷ NDT (人民币, 923 triệu USD) và mất ba năm để chế tạo.
Tầu “nửa chìm nửa nổi” này có tự trọng hơn 31.000 tấn, được sử dụng cho các lĩnh vực khoan thăm dò, khoan sản xuất dầu khí ngoài biển. Con tầu khủng này có chiều dài 114 mét, rộng 90 mét và cao 137,8 mét, lớn hơn một sân bóng đá tiêu chuẩn, có bãi đỗ cho trực thăng. Do vậy nó được ví như một “Tầu sân bay”, “Hàng không mẫu hạm” 航空母舰, “Lãnh thổ quốc gia di động” (H: “流动的国土”,A: “mobile national territory”)và là một vũ khí chiến lược (H: “战略武器”, A: “strategic weapon”) như lời Chủ tịch Tổng công ty CNOOC Vương Nghi Lâm (Wang Yilin, 王宜林) từng khoe. Giàn khoan dầu khí nước sâu này được trang bị 8 máy phát điện 44.000 kilowatt, động cơ đẩy với sức mạnh mỗi động cơ tương đương 5 đầu máy xe lửa. Các động cơ đẩy sẽ chống lại tác động từ gió, sóng và dòng chảy của đại dương. Do vậy nó hoạt động ở độ sâu tối đa 3.050 mét và độ sâu khoan tối đa 12.000 mét.
Giàn khoan này mang tên 981, mỗi con số mang một ý nghĩa nhất định:
– Số “9” biểu thị là “giàn khoan” 钻井船 (toản tỉnh thuyền);
– Số “8” biểu thị là “nước sâu” 深水 (thâm thủy);
– Số “1” chỉ ra rằng đây là giàn khoan dầu khí nước sâu đầu tiên 首个(thủ cá) của Trung Quốc. Trung Quốc dự định chế tạo thêm nhiều giàn khoan hiện đại kiểu này nữa. Ví dụ chiếc thứ 2 là: “Hải dương thạch du 982”, thứ 3, 4 tiếp theo là “Hải dương thạch du 983”, “Hải dương thạch du 984” sẽ đi vào hoạt động trong những năm tiếp theo.
Một số thông số cụ thể của Giàn khoan 981:
船舶登记号 Số đăng ký tàu 11B5001
中文船名 Tên Trung Quốc 海洋石油981
拼音船名Tên Bính âm HAI YANG SHI YOU 981
英文船名 Tên tiếng Anh Offshore Oil 981
船舶呼号 Đăng nhập BYDG
国际海事组织编号 Số IMO 9480344
船旗国 Treo cờ Trung Quốc
船籍港 Cảng đỗ Trạm Giang
船舶所有人 Chủ sở hữu Tổng Công ty Dầu khí Trung Quốc (China National Offshore Oil Corp)
中国海洋石油总公司
船舶管理公司 Công ty quản lý TNHH Dịch vụ Dầu mỏ Trung Quốc
船舶类型及用途 Loại tàu Nửa nổi nửa chìm半潜式Semisubmersible
下次特检日期 Ngày kiểm tra đặc biệt sau 2016/10/17
总吨位Tổng dung tích 34.483
净吨位Tự trọng 10.344
垂线间长Chiều dài 114,07
型宽 Chiều rộng 78,68
型深Chiều sâu 38,60
干舷 Phần thân tàu 11.000,00
平均吃水 Dự thảo trung bình 19.00
船体入级符号 Biểu tượng phân loại thân ★ ★ CSA & CCA
船体附加标志 Thêm dấu hiệu thân tàu Khoan đơn vị; HELDK; PM; IWS; DP-3
轮机入级符号 Ký hiệu vỏ tầu ★ CSM
轮机附加标志 Dấu hiệu Tua bin AUT-0
船舶建造厂 Nhà máy đóng tàu Công ty TNHH đóng tầu Ngoại Cao Thượng Hải
上海外高桥造船有限公司
船舶建造地点 Nơi đóng Trung Quốc
船舶建造时间 Thời gian đóng 2011-10-18
发电机*数*功率*电压
* Số * điện áp máy phát điện *
AMG 0900LS10 LAE * 1 * 5530 * 11000; AMG 0900SL10 LAE * 8 * 5530 * 11000
起货设备类型,数量,安全负荷
Loại thiết bị cần cẩu, số lượng, tải trọng an toàn
Cần cẩu, 2100; thang máy, 2,0.998
Giàn khoan nước sâu khổng lồ đầu tiên này được chính thức đưa vào hoạt động vào ngày 09/05/2012 khi tiến hành khoan trên biển lần đầu tiên tại một vị trí trên Biển Đông, cách Hong Kong 320 km. Khi đó, có không ít người cho rằng một ngày nào đó Trung Quốc sẽ đưa giàn khoan này vào thăm dò và khoan dầu tại những vị trí đang tranh chấp hay thuộc chủ quyền của một số nước ở Biển Đông.
Sau khi CNOOC mua thành công Công ty dầu khí Nexen của Canada với trị giá hơn 15 tỷ USD hồi đầu năm 2013 thì với sự tăng cường kinh nghiệm và công nghệ của Nexen, điều kiện đã đủ “chín” để CNOOC đưa 981 xuống vùng Biển Đông của Việt Nam. Nay thì sự việc đang diễn ra đúng như vậy, CNOOC 981 được giao nhiệm vụ tác nghiệp tại vùng Biển Đông mà Trung Quốc gọi là biển Nam Trung Hoa. Sau này các giàn khoan nước sâu số 2, 3, 4 hoàn thành, đưa vào sử dụng thì chẳng ai biết chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu vụ “海洋石油 981”-5/2014 không được dẹp yên!
3. Gọi thế nào cho đúng:
Đầu tiên, đây là “Giàn thăm dò” chứ viết “Dàn thăm dò” là chưa chuẩn bởi trong tiếng Việt:
– “Dàn” có thể là danh từ chỉ “Kết cấu chịu lực cấu tạo từ những thanh thẳng bằng gỗ, thép, bê tông cốt thép…, dùng làm hệ thống chịu lực chính trong xây dựng (mái nhà, nhịp cầụ..) và trong kết cấu máỵ” hay “Một nhóm nhạc cụ hay giọng hát được tập hợp theo cơ cấu và biên chế nhất định”, như “Dàn nhạc”, “Dàn hợp xướng”. “Dàn” có thể là động từ chỉ sự “Bày rộng ra trên một phạm vi nhất định”, như “Dàn quân”, “Dàn hàng ngang” hoặc chỉ việc “Thu xếp, trang trải, làm cho ổn thỏa”, như “Dàn nợ”, “Dàn việc”.
– “Giàn” luôn là danh từ chỉ “Tấm lớn được đan hoặc ghép thưa bằng nhiều thanh tre, nứa, đặt trên cao làm chỗ cho cây leo hay che nắng”, như “Làm giàn mướp”, “Bí đã leo kín giàn”, “Làm giàn che nắng”; chỉ “Tấm ghép nhiều thanh (ống) tre nứa, treo ngang sát tường để đồ lặt vặt trong nhà”, như: “Giàn bát đũa”, “Giàn để đồ”; “Kết cấu gồm các thanh giằng bằng kim loại, bê tông cốt thép, gỗ hoặc vật liệu kết hợp, chịu lực của mái nhà, nhịp cầu, công trình thuỷ công, tên lửa”, như “giàn giáo”
Do vậy sự việc đang diễn ra tại Biển Đông viết đúng là: “Trung Quốc đã dàn các tầu Hải Giám, Hải Cảnh quanh giàn tầu khoan thăm dò”.
Thứ hai là tên gọi. Như trên đã viết: Trung Quốc đặt tên tầu này là “海洋石油981”, đọc theo âm Hán Việt là: “Hải dương Thạch du 981”, theo Bính âm là: “Háiyáng Shíyóu 981”, theo tiếng Anh là: “Offshore Oil 981”. Do vậy, nếu viết tắt từ bính âm thì phải là “HYSY 981”, theo tiếng Anh là “OO 981” nhưng người Trung Quốc không có truyền thống dùng bính âm để gọi tên riêng nên không viết tắt là “HYSY 981” mà chính họ thường gọi tắt đây là tầu “海油981” (“Hải du” 981), viết tắt theo tiếng Anh là “CNOOC 981”.
Chúng ta gọi tắt tầu này là HD 981, nếu tra trên mạng, chỉ có Việt Nam và những trang bằng tiếng Việt viết. Hơn nữa, khi dùng cụm từ này thì phải hiểu HD là “Hải du” chứ không phải “Hải dương”, trong đó: 海 “Hải” là Bể, cái chỗ trăm sông đều đổ nước vào, gần đất liền, xa đất liền thì gọi là 洋 “dương”; còn 油 “du” là “Dầu, là những chất lỏng mà có thể đốt cháy được, như “hỏa du” 火油 dầu hỏa, “đậu du” 豆油 dầu đậu, “chi du” 脂油 dầu mỡ, …”.
Do vậy, theo tôi không nên viết là HD 981 mà gọi tên tầu theo âm Hán Việt nói tắt (“Hải dương Thạch du 981” thành “Hải du 981”) như vẫn gọi Hải giám 海监, Hải cảnh 海警hay gọi tắt bằng tiếng Anh là “CNOOC 981”. Điều này tạo ra sự thống nhất với thông lệ quốc tế và tránh sau này Trung Quốc chối rằng họ “không có tầu HD 981”.
Để đơn giản, tôi lấy ví dụ thế này: có một xe ô tô mang biển kiểm soát 车牌 là: 云N …686 (云 là xe đăng ký tại Châu tự trị Đức Hoành (của người Thái và Cảnh Pha) tỉnh Vân Nam 云南省 德宏傣族景颇族自治州) sang gây tai nạn trên đường phố Lào Cai mà hồ sơ ghi là xe VN …686 (trong đó V là chữ viết tắt của “Vân Nam” theo tiếng Việt) thì chắc chắn Công an Vân Nam sẽ trả lời là không có xe nào mang BKS như vậy!
(Tổng hợp lại từ nhiều nguồn để nhớ)
Nguồn: http://menthuong.blogspot.com/2014/05/goi-ung-ten-chu-nhan-con-tau-ha-at-trai.html