Cuộc chơi của Trung Quốc tại Biển Đông Nam Á: Kết thúc thời “trỗi dậy hòa bình” của Bắc Kinh?

Nguồn: nationalinterest.org
Tác giả: Hà Anh Tuấn
Phương Anh dịch từ bản tiếng Anh
————

Trong thập kỷ vừa qua, Trung Quốc đã thực hiện mọi nỗ lực để thuyết phục thế giới rằng nó đang trỗi dậy một cách hòa bình. Thuật ngữ “trỗi dậy hòa bình” lần đầu tiên được sử dụng vào đầu năm 2003, khi ông Trịnh Tất Kiên, lúc ấy đang là Phó Hiệu trưởng của Trường Đảng Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc có một phát biểu tại Diễn đàn Boao châu Á. Sau đó thuật ngữ này được các nhà lãnh đạo Trung Quốc như Thủ tướng Ôn Gia Bảo sử dụng trong bối cảnh quan hệ quốc tế khác nhau.

Các nguyên tắc chính của lý thuyết “trỗi dậy hòa bình” lý thuyết của Trung Quốc, được đổi thành “phát triển hòa bình” từ năm 2004, là Trung Quốc sẽ không thực hiện bá quyền, sự tăng trưởng kinh tế và quân sự của TQ sẽ không đặt ra mối đe dọa cho hòa bình và ổn định khu vực và quốc tế, và các nước khác sẽ được hưởng lợi từ sức mạnh và tầm ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc. Để tầm nhìn này trở thành hiện thực, Bắc Kinh đánh giá cao vai trò của quyền lực mềm và cho rằng việc thúc đẩy quan hệ tốt với các nước láng giềng sẽ thúc đẩy chứ không hề làm suy yếu sức mạnh quốc gia toàn diện của nó. Như vậy, luận điểm trỗi dậy hòa bình nhấn mạnh cách tiếp cận mang tính hợp tác đối với những tranh chấp lãnh thổ của Trung Quốc, bao gồm cả tranh chấp lãnh hải với các nước khác nhau ở các vùng biển xung quanh Trung Quốc.

Một trong những lý do khiến TQ đưa ra lý thuyết trỗi dậy hòa bình là để chống lại những người có quan điểm Trung Quốc như một mối đe dọa. Nói một cách tổng quát, học thuyết “mối đe dọa từ TQ” cho rằng sự tăng trưởng kinh tế bền vững của Bắc Kinh sẽ cho phép họ đầu tư vào việc mở rộng quân sự và hiện đại hóa. Những tiềm năng của sức mạnh đang lên của Trung Quốc sẽ làm thay đổi cán cân khu vực và quốc tế về quyền lực theo hướng có lợi cho TQ, đe dọa lợi ích và an ninh quốc gia của các quốc gia khác. Nhiều người ở Trung Quốc tin rằng, thuyết này đang được Hoa Kỳ xây dựng như một phần của chiến lược khống chế có sự trỗi dậy của Bắc Kinh.

Tuy nhiên, các sự kiện trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương từ năm 2007 đến nay đã chứng minh rằng học thuyết mối đe dọa từ Trung Quốc đã vô tình được chính TQ xây dựng, khi Bắc Kinh đã và đang ngày càng tỏ ra hung hăng đối với các nước láng giềng. Các tàu hải giám của Trung Quốc đã hoạt động tích cực trong việc thực thi tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh ở Biển Hoa Đông và Biển Đông Nam Á (Biển Đông). Các tàu này đã bắt giữ và tấn công tàu cá của các nước Đông Nam Á trong vùng biển đánh bắt cá truyền thống của họ, quấy nhiễu tàu hải quân Mỹ khi hoạt động trong vùng biển Hoa Đông và Biển Đông Nam Á, và can thiệp tàn bạo khi các tàu đánh cá Trung Quốc được kiểm tra bởi các cơ quan nước ngoài bị buộc tội có những hoạt động đánh bắt trái phép.

 

Bắc Kinh cũng đang có có những động thái khác nhau để thách thức hiện trạng tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông Nam Á. Trong năm 2009, Trung Quốc lần đầu tiên chính thức đệ đưa ra đường chín đoạn đầy tai tiếng hiện nay. Đường chín đoạn này tuyên bố chủ quyền trên 80 phần trăm Biển Đông Nam Á. Trong năm 2012, Trung Quốc đã phái nhiều tàu đến thách thức sự hiện diện của Philippines tại bãi cạn Scarborough và cuối cùng nắm quyền kiểm soát tại đây.Cũng trong năm ấy, TQ thành lập thành phố Tam Sa trên đảo Phú Lâm của quần đảo Hoàng Sa đang tranh chấp với Việt Nam, và đặt một đơn vị đồn trú quân sự để bảo vệ các yêu sách về lãnh thổ của quốc gia này ở Biển Đông Nam Á.

Từ năm 2011, Tổng công ty China National Offshore Oil (CNOOC) đã mở rộng phạm vi hoạt động về phía nam, khoanh các lô khai thác dầu để kêu gọi hợp tác quốc tế trong khu đặc quyền kinh tế của Việt Nam (EEZ) .

Trong vài tuần qua, sự căng thẳng thậm chí còn gia tăng hơn nữa. Trong một trong những sự cố nghiêm trọng nhất trong những năm gần đây, Trung Quốc đã chuyển một giàn khoan dầu khổng lồ đến một địa điểm chỉ 120 dặm từ bờ biển của Việt Nam. Để bảo vệ giàn khoan từ các tàu có chức trách hàng hải của Việt Nam, nhiều tàu của Trung Quốc, bao gồm một số tàu chiến đã được cử đến khu vực. Tàu Trung Quốc cố tình đâm tàu Việt Nam khi đang cố gắng tiếp cận giàn khoan. Tình hình rất nguy hiểm, có thể dẫn đến việc leo thang hơn nữa sự căng thẳng giữa hai nước.

Hành vi của Trung Quốc cho thấy học thuyết “trỗi dậy hòa bình” đã chết. Sự quyết đoán và gây hấn của Bắc Kinh đã khiến nước này mất đi láng giềng. Chỉ bằng cách tôn trọng hòa bình và an ninh trong khu vực và quốc tế, đồng thời tôn trọng luật pháp quốc tế thì Bắc Kinh mới có thể làm giảm bớt căng thẳng trong khu vực và duy trì sự phát triển lâu dài của đất nước.

———-

Hà Anh Tuấn là một nghiên cứu sinh ngành Chính trị học và Quan hệ quốc tế tại Đại học New South Wales, Úc.

Nguồn: vietnammaritime.blogspot.com

 

This entry was posted in Biển Đông. Bookmark the permalink.