Từ chiến tranh du kích đến sân gôn: Sự chuyển đổi của quân đội Việt Nam từ sau Điện Biên Phủ

Quân đội Việt Nam thời nay.

 Từ hoạt động du kích với những tình nguyện quân trang bị vũ khí thủ công, đến việc quản lý các tập đoàn viễn thông hay sân gôn, Quân đội Nhân dân Việt Nam, nay trở thành sức mạnh to lớn trong nền kinh tế của đất nước cộng sản, đã thay đổi hẳn bộ mặt 60 năm sau chiến thắng trước Pháp tại Điện Biên Phủ.

Thiếu tướng Vũ Quang Đạo, Viện trưởng Viện Lịch sử  Quân sự Việt Nam nhớ lại: « Chúng tôi hi đó chng có gì c: súng ng và cht n t to, và nhng qu mìn chng tăng thô sơ cho đến ni nhiu khi sát hi ngay chính người lính đánh mìn». Chiến thắng Điện Biên Phủ «là mt chiến thng ca s ngoan cường» – ông giải thích với hãng tin Pháp AFP như trên, vào thời điểm chỉ vài ngày nữa là đến dịp kỷ niệm thất bại nổi tiếng của quân đội Pháp trước các chiến binh Việt Minh, ngày 07/05/1954.

Việt Nam ngày nay là một trong những quốc gia Đông Nam Á dành nhiều tiền bạc nhất để phát triển quân đội của mình, chủ yếu là do cuộc xung đột lãnh thổ với Bắc Kinh tại Biển Đông.

Jon Grevatt, chuyên gia về kỹ nghệ quốc phòng tại châu Á-Thái Bình Dương của cơ quan phân tích IHS Jane’s bình luận: «Vic mua các h thng thiết b quân s hin đi ca Vit Nam tăng lên vi mc đ chóng mt. Vn đ là phi đm bo an ninh lãnh th và các li ích trên Bin Đông, nht là các m du khí ngoài khơi».

Khi mua các thiết bị quân sự như thế, chủ yếu là của Nga, và qua việc nhân lên các quan hệ hợp tác chiến lược từ Đức cho đến Hàn Quốc, quân đội Việt Nam đang « chuyên nghip hóa», theo ông Grevatt. Theo ước tính của IHS Jane’s, ngân sách quốc phòng dành cho việc mua thiết bị lên đến trên 910 triệu euro trong năm 2014. Nhưng do thiếu minh bạch trong lãnh vực này, số tiền trên còn có thể cao hơn.

Trong ba mươi năm sau này, quân đội Việt Nam còn đầu tư vào kinh doanh, với một hệ thống doanh nghiệp có sức nặng đáng kể.

Quân đội luôn là «mt lc lượng chính tr ch yếu Vit Nam», nhưng với các cải cách kinh tế đưa ra vào cuối thập niên 80, « gii quân nhân bt đu đóng mt vai trò tích cc trong nn kinh tế th trường» – giáo sư Jonathan London thuộc trường City University của Hồng Kông khẳng định. Ông giải thích: «Bn thân quân đi cũng như các quân nhân cũng đã có th hưởng li t vic được ưu tiên cp đt, cp vn», bên cnh v trí ưu đãi đ thng thu».

Quân đội cũng sở hữu nhiều khách sạn, sân gôn, các kênh truyền hình, báo chí, và ngay cả một công ty viễn thông hàng đầu là Viettel hiện đã vươn tay ra đến nước ngoài, từ Cam Bốt láng giềng đến Haiti.

Các quân nhân có được những khu đất rộng rãi, mà cách sử dụng gây nhiều tranh cãi. Việc xây dựng một sân gôn trên đất quân sự gần sân bay Tân Sơn Nhất ở Saigon cũng bị phản đối. Huỳnh Đăng, một cư dân chỉ trích trên tờ Thanh Niên : « Sân gôn này xây lên đ phc v cho các đi gia và quan chc tham nhũng hay chăng? Các công dân bình thường không th nào có điu kin chơi gôn ».

Đa dạng hóa nền kinh tế mang lại cho quân đội hàng trăm triệu đô la mỗi năm, theo ông Carl Thayer, trường đại học New South Wales, Úc. Và các doanh nghiệp quân đội thu dụng nhiều cựu binh và thân nhân bộ đội, là một lực lượng vận động hậu trường rất mạnh, trong đất nước độc đảng mà ảnh hưởng của quân đội vẫn rất lớn.

Cho dù việc mua thiết bị tăng lên, tầm vóc quân đội lại thu nhỏ bớt, từ 1,2 triệu quân vào cuối thập niên 80 xuống còn dưới 600.000 quân hiện nay, trong một đất nước có 90 triệu dân. Giáo sư Thayer nhấn mạnh, tuy vậy còn phải tính thêm 5 triệu quân dự bị.

Đối mặt với người láng giềng khổng lồ Trung Quốc, Việt Nam ngày nay đang trong một tình trạng có thể so sánh với thời kỳ chiến tranh chống quân đội thực dân Pháp trong thập niên 50, cũng như «David chng li Goliath» – giáo sư Thayer ví von. Ông khẳng định: «Goliath trn đó, xây dng các lá chn và tàu chiến ln hơn. Nhưng người Vit li có nhiu khu súng cao su t.

T.M

Nguồn: viet.rfi.fr

This entry was posted in Quân Đội. Bookmark the permalink.