Địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, Tây Bắc thực sự trở thành hướng chính như dự kiến của ta trong kế hoạch Đông Xuân 1953 – 1954.
Điện Biên Phủ thuộc tỉnh Lai Châu, cách Hà Nội 480 km về phía Tây Bắc. Mường Thanh là tên gọi xưa nhất và phổ biến nhất của Điện Biên. Đời nhà Lý Mường Thanh nằm trong địa hạt châu Lâm Tây. Đời Trần nước ta có 15 lộ thì Mường Thanh thuộc châu Ninh Viễn, lộ Đà Giang. Đến đời Lê, Mường Thanh thuộc châu Phục Lễ, trấn Gia Hưng, châu Phục Lễ tức Mường Lễ, tức Lai Châu ngày nay…
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhưng phải đến năm 1890 Pháp mới đặt được ách thống trị tại Lai Châu. Theo nghị định ngày 6.1.1891 của Phủ Toàn quyền Pháp thì Lai Châu (trừ Phong Thổ) thuộc đạo binh thứ 4 nằm trong khu vực quân sự Vạn Bú. Năm 1910 tỉnh Lai Châu được thành lập, Điện Biên thuộc Phủ Điện Biên. Phủ Điện Biên có châu Điện Biên và Tổng Tuần Giáo.
Cách mạng tháng Tám thành công nhưng Điện Biên vẫn tiếp tục nằm dưới quyền kiểm soát của Pháp. Số là, trong cuộc đảo chính của Nhật đêm 9.3.1945, Tướng Pháp Alessandri, chỉ huy một lữ đoàn tại Sơn Tây đã đưa 6.000 quân chạy qua Lai Châu sang Trung Quốc (lúc đó thuộc lực lượng Đồng minh Anh – Mỹ – Tưởng chống Nhật). Khi Nhật đầu hàng, số tàn quân Pháp này lại tìm đường về Lai Châu. Và, đến Hiệp định sơ bộ ngày 6.3.1946, 800 quân Pháp được chính thức trở lại vùng này tiếp phòng quân Tưởng. Tướng Leclerc đã trực tiếp lên Điện Biên Phủ dịp này. Đến chiến dịch Tây Bắc 1952 Điện Biên Phủ mới được giải phóng.
Điện Biên Phủ không những giữ một vị trí chiến lược quan trọng ở Tây Bắc mà còn trên cả chiến trường Đông Dương. Vùng này tiếp giáp với Thượng Lào, có đường xuống Trung Lào và Hạ Lào, phía Tây là Thái Lan, Miến Điện, phía Bắc giáp Trung Quốc.
Ai đã một lần lên thăm Tây Bắc – Lai Châu – Điện Biên Phủ mới thấy được thiên nhiên nước ta thật kỳ thú. Và, Điện Biên Phủ là một vẻ đẹp khác thường. Huyện Điện Biên (nay được chia làm hai, gồm huyện Điện Biên, thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên Đông) trước kia rộng đến 316.000 hécta, gấp hai lần tỉnh Thái Bình, là một vùng núi cao hiểm trở, đỉnh cao nhất là Pú-Huổi 2.178 mét. Giữa vùng núi rừng trùng điệp đó lại bất thần xuất hiện một lòng chảo có chiều dài đến 20 km, rộng từ 7 đến 8 km, bằng diện tích một huyện miền xuôi. Cánh đồng Mường Thanh nằm lọt giữa lòng chảo thung lũng Điện Biên rộng đến 4.000 hécta, là vựa lúa lớn nhất của vùng thượng du Tây Bắc. Lòng chảo Điện Biên với cánh đồng Mường Thanh và con sông Nậm Rốm êm đềm uốn khúc giữa lòng nó không khác gì một bài thơ của núi rừng Tây Bắc. Một năm của Điện Biên có 4 mùa xuân hạ thu đông, vì thế hạt gạo Mường Thanh thơm ngon kỳ lạ. Giống lúa IR64 ở miền xuôi là lúa của người nghèo đem lên trồng ở Điện Biên thành đặc sản. Gạo nếp hương của Điện Biên hạt to, trong suốt, nấu lên thơm phức cả nhà, ăn dẻo dai như cốm và không mau ngán như nếp thường…
Cô gái Hà Nhì
Suối Hua-pe ở Điện Biên
Cánh đồng Mường Thanh hôm nay (4/2013)
Kể từ ngày 20.11.1953, khi 6 tiểu đoàn lính dù của quân Pháp nhảy xuống đây thì bài thơ Điện Biên bỗng trở thành “con nhím” của Điện Biên Phủ. Con nhím đó sau này lên đến 16.200 quân gồm 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh với 40 khẩu pháo 105 ly và 155 ly, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng 10 chiếc giăng thành một tập đoàn cứ điểm, tập hợp trong 8 trung tâm đề kháng với 49 cứ điểm có hầm hào, lô cốt, dây kẽm gai, bãi mìn bảo vệ. Tập đoàn cứ điểm còn có 2 sân bay, và hàng ngày có từ 200 đến 300 tấn lương thực, súng đạn, thuốc men do 100 máy bay từ Hà Nội, Hải Phòng chở tới yểm trợ. Navarre đã 9 lần lên Điện Biên kiểm tra “con nhím”; còn Cogny, tư lệnh quân Pháp tại Bắc kỳ thì đến nhiều hơn vì đây là phần đất do ông ta phụ trách. Từ Paris, nhiều bộ trưởng, quan chức cao cấp và tướng lãnh được cử tới thị sát tại chỗ. Tổng thống Mỹ Eisenhower cử các tướng O’Daniel, Thomas Trapnell đến thăm Điện Biên Phủ, sau đó là 3 sĩ quan Mỹ ở lại làm cố vấn cho Bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm.
Ai đến cũng thừa nhận Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm mạnh chưa từng có ở Đông Dương. Mà đúng thế thật, ngay cả trong thế chiến thứ 2, quân Pháp cũng chưa bao giờ xây dựng một trận địa phòng thủ dã chiến lớn đến thế. Tất cả đều đồng thanh tung hô: một pháo đài không thể tấn công!
Duy chỉ có các nhà báo Pháp là có con mắt tinh đời. Robert Guillain, phóng viên của tờ Le Monde sau khi sang thăm Điện Biên Phủ đã viết: “Chẳng khác gì một hố nhốt sư tử”, “một sân vận động mà Việt Minh chiếm lĩnh các bậc thang pháo đài xung quanh”! Trả lời nhà báo Henri Amourouk của tờ Tây – Nam khi ông này đặt câu hỏi lo ngại rằng, nếu Việt Minh chiếm được các cao điểm xung quanh và bắn xuống… De Castries, chỉ huy trưởng tập đoàn Điện Biên Phủ đã quát to với vẻ khinh miệt: – Lại thêm ông nữa! Ông biết không, nếu ông Guillain của Le Monde trở lại đây ông ta sẽ không bước xuống được khỏi máy bay, tôi sẽ cho 4 tay súng giữ ông ta lại… Thế mà ông ấy đã từng uống cô-nhắc (rượu mạnh – LPK) của chúng tôi… Cả ông cũng nghĩ y như họ sao? Nếu quân Việt Minh tấn công, các anh sẽ thấy chúng tôi đón tiếp họ như thế nào? Mọi thứ đều sẵn sàng… Nếu họ bắn xuống ư? Vậy thì sao nào?! Tôi sẽ đội chiếc ca-lô đỏ lên đầu để họ trông được rõ hơn!!!
Trong khi nhiều người đều tin là sẽ có chiến thắng nếu Việt Minh tấn công vào Điện Biên Phủ, riêng Navarre, với tầm nhìn cao hơn, đã tỏ ra dè dặt. Ngày 31.12.1953 đã bí mật chỉ thị cho Cogny phải nghiên cứu một kế hoạch rút lui khỏi Điện Biên Phủ khi cần thiết, cuộc hành binh ấy được biệt danh là Xéophon (apération Xénophon). Sự lo ngại của Navarre còn thể hiện rõ qua báo cáo gửi về Paris ngày 1.1.1954: “Tất cả đều cho cảm giác là lúc này kẻ thù quyết tâm dùng sức mạnh tiến công Điện Biên Phủ với những phương tiện rất lớn… Trong trường hợp bị tấn công cơ may chiến thắng của chúng ta ra sao? Mới hai tuần lễ trước, tôi đánh giá nó là 100%… Nhưng với sự xuất hiện những phương tiện mới… tôi không thể… bảo đảm chắc chắn thắng lợi… Dù sao đi nữa Điện Biên Phủ sẽ giữ vai trò chiếc nhọt tu độc và sẽ cho phép tránh cuộc tổng giao chiến ở đồng bằng”.
Navarre là một tướng năng động. Ngay khi nhậm chức Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp tại Đông Dương, Navarre đã nêu cao khẩu hiệu: “luôn luôn chủ động”, “luôn luôn tiến công”… Salan, người tiền nhiệm của Navarre trước đó chỉ có khả năng cứu vãn và duy trì sự cầm cự của quân Pháp nên đã bị sa thải. Là một chỉ huy năng động nên Navarre không thể để nằm yên những binh đoàn cơ động của mình ở đồng bằng. Navarre phải điều “binh khiển tướng”, và điều đó lại là ở Điện Biên Phủ mới trớ trêu (!). Sau này, trong cuốn: “Hồi ức Điện Biên Phủ – điểm hẹn lịch sử” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp do nhà văn Hữu Mai thể hiện (NXB Quân đội nhân dân – 2001), Đại tướng có nhận định: “Trước sau, Điện Biên Phủ chỉ giữ một vai trò thứ yếu trong kế hoạch, nhưng vẫn là một nước cờ chiến lược đã được Navarre tính trước những hệ quả một cách tỉnh táo – Công bằng mà nói, tới lúc này Navarre không đáng chê trách như nhiều người sau đó đã lên án!” (trang 77).
Hạ tuần tháng 12 năm 1953, Bộ Chính trị quyết định chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược trong Đông Xuân 1953 – 1954. Đảng ủy chiến dịch được chỉ định gồm Hoàng Văn Thái – Tham mưu trưởng, Lê Liêm – Chủ nhiệm chính trị, Đặng Kim Giang – Chủ nhiệm cung cấp, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là Bí thư kiêm chỉ huy trưởng chiến dịch.
…Đại đoàn 312 từ Yên Bái được điều lên Tây Bắc. Trung đoàn 36 của Đại đoàn 308 chốt chặn con đường từ Điện Biên Phủ sang Lào. Đại đoàn 351 và các trung đoàn trưởng lựu pháo 105 ly, cao xạ pháo được triệu tập để nhận lệnh lên đường…
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến chào Chủ tịch Hồ chí Minh ở Khuổi Tát trước khi lên đường. Trước đó, cơ quan tiền phương của Bộ Tổng tư lệnh đã lên đường để không những chỉ đạo Điện Biên Phủ mà còn chỉ đạo các chiến trường toàn quốc, kể cả bộ đội tình nguyện ở Lào và Căm-pu-chia.
“Bác hỏi Đại tướng: Chú đi xa như vậy, chỉ đạo các chiến trường có trở ngại gì không?
– Chỉ ngại là ở xa, khi có vấn đề quan trọng và cần thiết, khó xin ý kiến của Bác và Bộ chính trị.
– Tổng tư lệnh ra mặt trận, “Tướng quân tại ngoại”. Trao cho chú toàn quyền. Có vấn đề gì khó khăn, bàn thống nhất trong Đảng ủy, thống nhất với cố vấn (Trung Quốc – LPK) thì cứ quyết định, rồi báo cáo sau.
Khi chia tay, Bác nhắc: Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng, không chắc thắng không đánh…” (Trang 63 – sách đã dẫn).
L.P.K.
Tác giả gửi BVN
* Bài trích từ cuốn “Tại sao Điện Biên Phủ” xuất bản lần đầu năm 2004, tái bản năm 2014.