Hồi hương người Tân Cương, Việt Nam có vi phạm luật quốc tế?

ENGLISH

Báo chí Việt Nam đưa tin, vào rạng sáng ngày 18/4/2014, “một nhóm đối tượng người Trung Quốc” (không nói họ là người Duy Ngô Nhĩ) đã “vượt biên trái phép vào Việt Nam” và bị bắt giữ, dẫn giải ra cửa khẩu để trả về Trung Quốc. Sự việc này dẫn tới một vụ nổ súng giữa họ với cơ quan biên phòng Việt Nam, làm chết 7 người, trong đó có 2 chiến sĩ Việt Nam. 

Sau sự cố ở cửa khẩu Bắc Phong Sinh, trong cộng đồng mạng nảy sinh một số câu hỏi: Nên hay không nên thương xót những người Trung Quốc bị bắn chết, tự sát, hoặc bị trả về Trung Quốc? Việc họ nhập cảnh trái phép vào Việt Nam có cần phải bị trừng phạt bằng cách cưỡng bức hồi hương? Nếu không thì nên cư xử với họ như thế nào? Hành động của nhà chức trách Trung Quốc trong trường hợp này có vi phạm chủ quyền Việt Nam? 

Bài trả lời phỏng vấn dưới đây của luật sư Vi Katerina Tran, Văn phòng Luật Vi K. Tran, San Jose, California, có thể cung cấp cho độc giả Việt Nam một số thông tin để giúp giải đáp các câu hỏi đặt ra. 

* * * 

1. Báo Tiền Phong, dẫn lại Cổng Thông tin  Điện tử tỉnh Quảng Ninh, cho biết: “Vào hồi 4 giờ 20 sáng ngày 18/4/2014, một nhóm 16 người Trung Quốc gồm 10 nam, 4 nữ và 2 trẻ em đã nhập cảnh trái phép vào Việt Nam qua khu vực cửa khẩu Bắc Phong Sinh (huyện Hải Hà, tỉnh Quảng Ninh), trên đường thâm nhập sâu vào nội địa đã bị các cơ quan chức năng của Việt Nam phát hiện, bắt giữ và dẫn giải ra cửa khẩu để tiến hành làm các thủ tục trao trả lại phía Trung Quốc theo quy định và thông lệ quốc tế.” 

Xin luật sư cho biết quy định và thông lệ quốc tế cụ thể nào có thể được dẫn chiếu trong trường hợp này?

Tôi nghĩ đó là Cao ủy LHQ về Người Tị Nạn (UNHCR), Công ước LHQ về Người Tị Nạn năm 1951 và Nghị định thư năm 1967 của nó. Còn có một số công ước và tuyên bố khác, phù hợp cho từng khu vực cụ thể. Ví dụ, có các công cụ pháp lý về người tị nạn áp dụng cho châu Phi, châu Mỹ Latin, và EU. Cũng có khá nhiều điều luật về nhân quyền quốc tế bổ sung thêm cho các quyền của người tị nạn được quy định trong Công ước năm 1951. Các nhà nước thực hiện cam kết bảo vệ quyền của người tị nạn thông qua những nghĩa vụ của họ về nhân quyền.

2. Người tị nạn chính trị được định nghĩa như thế nào? Nói cách khác, có những tiêu chí nào để chúng ta xác định một cá nhân nào đó là người tị nạn chính trị?

Không có khái niệm “người tị nạn chính trị”, mà chỉ có khái niệm “người tị nạn” thôi bạn. Theo Cao ủy LHQ về Người Tị Nạn, Công ước LHQ về Người Tị Nạn năm 1951 quy định rằng người tị nạn là bất cứ ai “vì một nỗi sợ thâm sâu về khả năng bị ngược đãi, do các lý do liên quan đến sắc tộc, tôn giáo, quốc tịch, tư cách thành viên của một nhóm xã hội cụ thể, hoặc do quan điểm chính trị, mà phải ở bên ngoài quốc gia mà người đó mang quốc tịch, và không thể, hoặc – cũng vì nỗi sợ đó – không muốn tìm kiếm sự bảo vệ của quốc gia đó”.

3. Vậy trong vụ việc gần đây ở cửa khẩu Bắc Phong Sinh, chúng ta có thể coi những người Duy Ngô Nhĩ đó là người tị nạn không?

Cách hành xử đối với người Duy Ngô Nhĩ ở Trung Hoa trong những năm gần đây đã gây ra sự quan ngại sâu sắc trong cộng đồng quốc tế. Tôi nhớ là vào năm 2009, quốc tế từng kêu gọi không trục xuất 9 người Duy Ngô Nhĩ khỏi Campuchia. Mới đây, lại có những lời kêu gọi tương tự trong cộng đồng quốc tế, yêu cầu chấm dứt việc trục xuất những người tị nạn Duy Ngô Nhĩ đang ở Thái Lan.

Tôi tin rằng căng thẳng giữa sắc tộc Duy Ngô Nhĩ và tộc Hán ở tỉnh Tân Cương đã leo thang kể từ tháng 7/2009, sau vụ đụng độ giữa người Duy Ngô Nhĩ và người Hán ở Urumqi [Urumqi, tiếng Hán Việt là Ô Lỗ Mộc Tề, thủ phủ của khu tự trị Tân Cương – PV]. Từ những gì tôi đọc được, người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương không được đối xử bình đẳng với người Hán, và cũng chưa bao giờ được đối xử bình đẳng kể từ khi Trung Hoa kiểm soát khu vực này vào khoảng năm 1949. Họ không được phép làm một số công việc thuộc khối chính quyền. Việc hành đạo của họ bị kiểm soát và ngăn cản. Họ bị bắt giam, bị đánh đập nếu dám đòi quyền bình đẳng và các quyền con người cơ bản. Theo tôi, sắc tộc Duy Ngô Nhĩ ở Trung Hoa chắc chắn phù hợp với định nghĩa về người tị nạn của Công ước LHQ năm 1951.

Xác những người Duy Ngô Nhĩ bị chất lên ba xe bò, trả về Trung Quốc.

Hình như bức ảnh đã bị gỡ khỏi các trang báo (chính thống) của Việt Nam.

4. Theo luật quốc tế, những người đó nên được đối xử như thế nào?

Khi một người chạy vào một quốc gia khác, gọi là “nước chủ nhà”, thì nước chủ nhà có nghĩa vụ tiến hành tự đánh giá để xác định xem người đó có đáp ứng định nghĩa quốc tế về người tị nạn hay không.

Một trong các quyền căn bản của người tị nạn là được nước chủ nhà bảo vệ khỏi nước mà họ chạy trốn, và không bị trao trả về nước mà họ chạy trốn đó, bởi vì nếu không người tị nạn đó có thể phải đối mặt với những đe dọa nghiêm trọng về tính mạng hoặc quyền tự do. Đây là nguyên tắc không trao trả, nằm trong Điều 33 Công ước LHQ năm 1951.

Công ước năm 1951 này cũng quy định các quyền cụ thể của người tị nạn trên nước chủ nhà. Ví dụ, quyền không bị trục xuất (Điều 32), quyền có chỗ ở (Điều 21), quyền được giáo dục (Điều 22), quyền được làm việc (Điều 17-19), v.v.

Mặc dù Việt Nam không ký Công ước LHQ năm 1951, song nguyên tắc không trao trả – cấm việc gửi trả người tị nạn về lãnh thổ nơi tính mệnh hoặc quyền tự do của người đó bị đe dọa – được coi là một quy định thuộc tập quán pháp quốc tế. Với đó, Nghị định thư năm 1967 quy định rằng nguyên tắc không trao trả có tính ràng buộc đối với tất cả các nước, bất kể họ có tán thành Công ước 1951 hay Nghị định thư 1967 hay không. Không được phép ngăn chặn một người tị nạn – vốn đang đi tìm sự bảo vệ cho mình – nhập cư vào một quốc gia khác, nếu không thì sẽ tạo thành hành động trao trả.

 

Việt Nam ở trong số nhiều nước Đông Nam Á không có điều luật nào quy định về quyền của những người đang xin tị nạn hoặc người tị nạn. Tuy nhiên, tôi tin rằng UNHCR thực sự đã xây dựng các quy định về tị nạn, mặc dù thiếu vắng một cơ chế cho tị nạn mang tính quốc gia trong khu vực. Trong trường hợp Việt Nam, UNHCR đã làm việc với chính phủ Việt Nam về vấn đề người vô tổ quốc (tức là không được công nhận quốc tịch, không được có tư cách công dân của quốc gia nào – PV). Do đó, có sự hiện diện của UNHCR ở Việt Nam chứ không phải là không.

Cá nhân tôi muốn đề nghị Nhà nước Việt Nam cấp nơi trú ẩn tạm thời cho người tị nạn, đồng thời tìm sự hỗ trợ và hướng dẫn từ UNHCR để giải quyết vấn đề này, nếu Việt Nam không có điều luật nào liên quan đến người tị nạn và người đang xin tị nạn.

Tuy nhiên, tôi muốn nhấn mạnh một lần nữa, rằng bất kể các quy định và luật lệ riêng của Việt Nam về người tị nạn là như thế nào, thì Chính phủ Việt Nam vẫn bị buộc phải thực hiện đúng nguyên tắc không trao trả, có nghĩa là họ không được phép gửi trả những người tị nạn ở nước mình về nước xuất phát để rồi những người đó sẽ bị ngược đãi; họ cũng không được từ chối, không cho những người tị nạn đó vào Việt Nam, khi mà người ta đang chạy trốn khỏi quốc gia xuất thân của người ta.

Ở một nước có luật pháp quy định về quyền của người tị nạn và người đang xin tị nạn, nói chung, từ phía nước đó sẽ phải có sự tiếp nhận và hỗ trợ di chuyển, quá cảnh, với sự hỗ trợ từ UNCHR.

UNHCR phối hợp với chính phủ các nước trên khắp thế giới để giúp họ giải quyết các khó khăn mà họ phải đương đầu trong vấn đề người tị nạn và người đang xin tị nạn (người đang xin tị nạn là người nhận họ là người tị nạn, tuy nhiên, tư cách tị nạn của họ chưa được xác định rõ ràng). Ví dụ như một chương trình 10 điểm mà UNHCR đang triển khai, chương trình này xác lập các lĩnh vực chính cần có hành động để giải quyết vấn đề nhập cư giữa các nước xuất phát, nước quá cảnh và nước định cư cuối cùng.

——-

Luật sư Vi Katerina Tran là thành viên của Đoàn Luật sư Quốc tế (International Bar Association, IBA), và có nhiều kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực bảo vệ nhân quyền theo luật pháp quốc tế.

Kỳ sau: Sự hiện diện của phía Trung Quốc và vấn đề chủ quyền 

Đ.T. 

Nguồn:  phamdoantrang.com

 

This entry was posted in Quốc Tế. Bookmark the permalink.