Indonesia, biển Đông và các đường 11/10/9 vạch

Đại sứ Indonesia tại Bỉ, Chủ tịch Kì họp thứ 20 của các nước thành viên của UNCLOS 1982 cho giai đoạn 2010-2011

Dịch giả: Phan Văn Song

Có vẻ có một nỗi ám ảnh trong các nhà bình luận chính trị ở châu Á và bên ngoài khi cho rằng Indonesia phải thừa nhận rằng mình là một bên tranh chấp ở biển Đông và do đó, phải từ bỏ vai trò như là một “trung gian hòa giải”. Đây quả là chuyện buồn cười dưới góc độ luật pháp quốc tế.

Đây là cách của tôi nắm bắt về vấn đề này.

Thứ nhất, bản chất thật sự của tranh chấp biển Đông, nói dưới dạng đơn giản, là về nước nào làm chủ hàng trăm hòn đảo, đá, rạn san hô, mặt bằng triều thấp và bãi cát ở quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa.

Các bên tranh chấp là Brunei, Trung Quốc, Malaysia, Philippines và Việt Nam. Đài Loan cũng được nhiều người coi là một bên tranh chấp.

Kể từ khi giành được độc lập, Indonesia chưa bao giờ nghĩ tới việc yêu sách chủ quyền đối với bất kì một trong hàng trăm thể địa lí (feature) ở biển Đông. Ngay cả khi Thủ tướng lúc đó là Djuanda Kartawidjaja tuyên bố vùng nước quần đảo của Indonesia năm 1957, Indonesia cũng không bao gồm quần đảo Trường Sa vào. Indonesia không có bất kì tham vọng lãnh thổ nào trong khu vực này.

Nếu các bên tranh chấp thực sự muốn giải quyết việc nước nào sở hữu thứ gì và ở đâu, họ phải áp dụng các nguyên tắc chung của công pháp và án lệ quốc tế tính từ ngày có phán quyết vụ Las Palmas / Miangas vào năm 1928. Họ không thể sử dụng Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 vì Công ước này không được vạch ra để giải quyết tranh chấp chủ quyền.

Thứ hai, nếu (chứ không phải khi) quyền sở hữu của hàng trăm thể địa lí ở biển Đông được xác định thì việc thực hành kế tiếp sẽ là việc phân định các vùng biển từ những thể địa lí này. Nguyên tắc luật pháp quốc tế quy định rằng “đất thống trị biển”, do đó, chiều rộng của bất kì khu vực biển nào ở biển Đông phải được dựa trên việc quy từ đất ra.

Luật lệ áp dụng cho việc này nằm trong UNCLOS 1982, cụ thể là Điều 15 (phân định lãnh hải), 74 (phân định vùng đặc quyền kinh tế [EEZ]), 83 (phân định thềm lục địa) và 121 (quy chế về đảo).

Quy chế về đảo là một khía cạnh rất quan trọng của luật biển trong việc xác định quyền được hưởng vùng biển của một đảo cụ thể. Phái đoàn Trung Quốc tại phiên thứ 19 các thành viên nhà nước của UNCLOS nói rằng theo điều 121 của UNCLOS, đảo đá (rock) nào không thể duy trì sự sống của con người hay đời sống kinh tế sẽ không có EEZ hay thềm lục địa.

Vì hầu hết các thể địa lí có tranh chấp đều rơi vào điều này, những gì có thể xảy ra sẽ là các “bong bóng” bao quanh vùng lãnh hải 12 hải lí. Những bong bóng này có khả năng nằm cách xa khó mà chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia ở biển Đông.

Thứ ba, tất cả các bên tranh chấp đều đã làm cho các tuyên bố chủ quyền của họ hết sức rõ ràng, tuy nhiên không có nước nào trong số đó đã vạch ra tỉ mỉ cơ sở cho yêu sách của mình. Có lẽ lập luận của họ thiếu căn cứ pháp lí nên tiết lộ ra sẽ là thảm hoạ.

Thứ tư, một trong các bên tranh chấp đã đưa ra một mảnh bản đồ với một hình vẽ không nhất quán được biết với tên là đường 9 vạch. Không nhất quán bởi vì đường đó không phải luôn luôn có 9 vạch. Đôi khi lại có 11 hoặc 10 vạch.

Đường nhiều vạch đó không liên tục. Các vạch có vẻ không phải là đường phóng chiếu cho một vùng biển suy từ bất kì thể địa lí nào ở biển Đông. Mảnh bản đồ mà trên đó đường 11/10/9 vạch được vẽ không có tọa độ, không mốc quy chiếu cũng như không có hệ thống trắc địa.

Không ai có thể giải thích dứt khoát liệu bản đồ đó nhằm thể hiện yêu sách chỉ đối với các thể địa lí hay đối với các thể địa lí lẫn các vùng biển hay thậm chí đối với các thể địa lí, vùng biển lẫn biên giới trên biển.

Trong vụ tranh chấp Burkina Faso – Mali toà quy định rằng “Bản đồ […] mà chỉ dựa trên sự tồn tại của một mình nó […] không thể tạo nên quyền sở hữu lãnh thổ”. Trong việc phân xử vụ Eritrea kiện Yemen, Tòa Công lí Quốc tế phán quyết rằng họ “không sẵn lòng với việc quy ý nghĩa cho các đường chấm chấm. Các kết luận trên cơ sở này do Eritrea thúc giục liên quan đến […] bản đồ của họ không được chấp nhận”.

Trong việc giải thích yêu sách của mình, Trung Quốc đã sử dụng các thuật ngữ không có trong UNCLOS 1982, cụ thể là “vùng biển liên quan” (relevant waters) và “vùng biển liền kề” (adjacent waters). Các nhà bình luận Trung Quốc cũng nói rằng bản đồ này thể hiện quyền lịch sử hoặc vùng nước lịch sử.

Tuy nhiên, trong UNCLOS 1982 chỉ có khái niệm vịnh lịch sử (historic bay) và sở hữu / danh nghĩa lịch sử (historic title) liên quan đến lãnh hải.

Thứ năm, vùng biển Indonesia trong khu vực đó được đường bao ngoài của vành đai lãnh hải 12 hải lí chia thành hai phần. Đường bao ngoài này phát sinh từ đường cơ sở quần đảo đã được nộp cho Liên Hiệp Quốc và được coi là phù hợp với nguyên tắc quần đảo của UNCLOS 1982.

Vùng biển bên trong đường bao ngoài này là lãnh hải của Indonesia và vùng nước quần đảo được gọi là biển Natuna. Vùng biển bên ngoài đường bao ngoài này cho tới ranh giới vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Indonesia là một bộ phận của biển Đông. Indonesia và Malaysia đã nộp hiệp ước về phân định thềm lục địa của hai nước ở biển Đông cho Tổng thư kí Liên Hiệp Quốc vào tháng 10 năm 1969.

Không một quốc gia đơn lẻ nào đã thách thức tính hợp lệ của hiệp ước lâu 45 năm này [dù] hiệp ước này lấy đi một phần đáng kể của biển Đông.

Thứ sáu, việc Indonesia tuyên bố chính mình là một bên trong tranh chấp biển Đông vì có cái bản đồ 11/10/9 vạch sẽ là vô lí.

Như một vấn đề pháp lí, thực tế và logic cho thấy rằng việc Indonesia sẽ bắt đầu phải che phủ công trình rất chính xác và đúng đắn về mặt pháp lí của mình với một bản đồ không hoàn chỉnh, không chính xác, không nhất quán và có vấn đề về mặt pháp lí là điều không thể hiểu được.

Indonesia đã bày tỏ lập trường về bản đồ nhiều vạch đó trong công hàm gửi Tổng thư kí Liên Hiệp Quốc vào ngày 08 tháng 7 năm 2010, nêu rằng bản đồ đó thiếu cơ sở pháp lí quốc tế và tương đương với việc làm đảo lộn UNCLOS 1982.

Ngoại trưởng Marty Natalegawa đã tái khẳng định việc Indonesia bác bỏ tính hợp pháp của bản đồ đó vào ngày 19/3.

Là một nước tuân thủ luật pháp quốc tế, Indonesia luôn luôn bác bỏ bất kì đường nào trên vùng biển mà thiếu cơ sở theo UNCLOS 1982, như Hiệp ước Paris năm 1898[1] và bản đồ nhiều vạch này.

Trong lĩnh vực luật biển quốc tế, chúng không không có chút giá trị pháp lí nào cả. Không có sự mơ hồ, chiến lược hay gì gì khác.

Thứ bảy, lập luận của một số nhà bình luận như Tiến sĩ Murphy của Mĩ và Tiến sĩ Batongbacal của Philippines cho rằng Indonesia đã đánh mất vai trò của mình như là trung gian hòa giải trong tranh chấp biển Đông là một sai lầm không chữa được. Indonesia không phải là một “trung gian hòa giải” vì tranh chấp chưa bước vào giai đoạn”hòa giải”.

Không có bất kì nghi ngờ hợp lí nào là tranh chấp hiện còn đang ở giai đoạn thảo luận, chưa phải hoà giải, theo Nhóm công tác chung ASEAN – Trung Quốc về việc thực hiện Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông mới vừa họp cuối tháng 3 tại Singapore.

Việc Indonesia không ngừng tạo thuận lợi trong tiếp cận vòng hai có tên là Hội thảo về Quản lí xung đột tiềm năng ở biển Đông, không nhằm định vị Indonesia như một trung gian hoà giải. Đó là một biện pháp xây dựng lòng tin để tăng cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau.

Sự tồn tại đơn thuần của một bản đồ không đầy đủ, không chính xác, không nhất quán và có vấn đề về mặt pháp lí sẽ không buộc Indonesia phải từ bỏ nỗ lực tạo thuận lợi trong xây dựng lòng tin cũng như không đột nhiên làm cho Indonesia đánh mất niềm tin vào công trình chính xác cao, đúng đắn về pháp lí và đã nộp cho LHQ về phân giới biển ở biển Đông của mình.

A.H.O.

Nguồn bản gốc: The Jarkarta Post (09/04/2014)

Dịch giả gửi BVN


[1] Hiệp ước giữa MĨ và Tây Ban Nha theo đó đế quốc Tây Ban Nha nhượng quyền kiểm soát Cuba, nhượng Porto Rico, nhiều phần của West Indies, đảo Guam và Philippines cho Mĩ. Liên quan tới Philippines, hiệp ước này dính dáng tới tranh chấp đảo Palmas/Miangas mà trong tài quốc tế đã có phán quyết nghiêng về Indonesia như tác giả có nhắc đến trong bài. (ND)

This entry was posted in Biển Đông. Bookmark the permalink.