Khách có kẻ:
Giương buồm giong gió văn chương
Lướt bể chơi trăng thi phú
Sớm tìm hiểu chừ tích truyện người xưa
Chiều lần thăm chừ thơ ca hiện đại
Thơ loạn, thơ Điên, cùng là Sáng tạo
Xuân thu, Dạ đài, sánh với cách tân
Nơi có người đi
Đâu mà chẳng biết.
Thế mà
Nhân bọn lý luận quốc doanh gây nỗi phiền hà
Để trong nước lòng khách thơ oán giận
Chuyện Nhã Thuyên li kì đại học nhà ta
Nhóm Mở Miệng xôn xao làng văn chính thống
Giấc mộng tự do học thuật chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều
mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết
bèn giữa dòng chừ ngồi suy nghĩ
học Đỗ Phủ chừ bày đặt đau đời
Mới hay:
Đỗ Thị Thoan thạc sĩ cách ba năm
Bị truất phế âm thầm trong bóng tối
Hội đồng xưa chấm được điểm 10
Hội đồng nay tức thì hủy diệt
Chỉ vì nàng Nhã Thuyên dám nói
Về chuyện mấy cậu nhà thơ đòi mở miệng mở mồm.
Hỡi ôi
Bao năm quen nhờ người khác nghĩ hộ
Bây giờ có đứa nó tự nghĩ tự hành văn
Thì ô hô, rằng nó có tội với dân ta
Nó phải nghĩ theo “ông cha”
Theo Đảng, theo ước mơ của “nhân dân” ta
Tội của nó nghìn lần không tha thứ!
Vậy nên
Đặng Thanh Lê[1], Đoàn Đức Phương[2] “lưu danh sử sách”
Phan Trọng Thưởng[3], Lê Quang Hưng[4] “tiếng để ngàn năm”
Hội đồng xét lại luận văn có một không hai
Công học hành cả đời đem đổ vào tro bụi
Qua cửa công danh
Ngóng bờ quyền lực
Lén lút đến ngồi rỉ rả với nhau
Quyết giết cho được bọn tự do suy nghĩ!
Trọn hay
Đem đại dốt để thắng hiền tài
Lấy chí ngu để thay đẳng cấp
Trận Nhân Văn vùi chôn biết mấy thi gia
Miền Sư Phạm tận diệt bao nhiêu khí phách
Ám khí đã hăng
Tiếng tai càng mạnh
Người hướng dẫn Nguyễn Thị Bình được cho nghỉ sớm an nhàn
Thạc sĩ Đỗ Thị Thoan bị tước bằng, về nhà thơ thẩn
Bọn văn nhân hẳn đã sức cùng lực kiệt
Ta đây mưu phạt vĩ mô, mới đánh ba mươi mấy bài mà chúng nó đã chịu khuất
Nó chắc sợ chết, im lặng chẳng dám nói gì
Ta muốn toàn quân là hơn, để các giáo sư quốc doanh nghỉ sức
Quả thật mưu kế diệu kì
Cũng là chưa thấy xưa nay!
Giang sơn từ đây không còn bọn mở miệng
Xã tắc từ đây hết kẻ đòi viết lách tự do
Nhật nguyệt sáng rồi lại thôi
Càn khôn thái rồi lại bĩ
Ngàn năm vết nhục nhã in sâu
Muôn thuở muối mặt một nền đại học
Âu cũng nhờ thành quả mấy mươi năm cải cách…
Nước trời một sắc,
Phong cảnh ba thu.
Bờ lau san sát,
Bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gãy, khắp nơi người biết người không biết đều im
Gò đầy xương khô, ai dám nói nhiều kẻo vạ lây như hồi “Nhân văn” thuở trước
Buồn vì cảnh thảm,
Đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.
Bên sông bô lão hỏi,
Hỏi ý ta sở cầu.
Có kẻ gậy lê chống trước,
Có người thuyền nhẹ bơi sau.
Vái ta mà thưa rằng:
“Đây là chiến địa lý luận phê bình được gầy dựng từ hồi “Mác-xít”
Cũng là bãi đất xưa, thuở Đảng ta kêu gọi phải có thép trong thơ”.
Đương khi ấy:
Thuyền tàu muôn đội,
Tinh kì phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.
Chém cho được mấy đứa ham tự nghĩ tự sáng tạo nhố nhăng
Lòa cho chúng mờ mắt đi, đừng có đòi tự do xúc động.
Tuy nhiên:
Từ có vũ trụ,
Đã có giang san.
Quả là: trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ: nhân tài giữ cuộc điện an!
Hội nào bằng hội những người có niềm tin vào lẽ phải, công bằng
Trận nào bằng trận những trí thức vững vàng mặc cho thời cuộc
Tiếng thơm còn mãi,
Bia miệng không mòn.
Đến chơi sông chừ ủ mặt,
Ngẫm giáo dục chừ lệ chan.
Rồi vừa đi vừa ca rằng:
“Sông Đằng một dải dài ghê,
Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông.
Chuyện văn chương, chuyện non sông
Tự do là giấc mộng không thể thành”
[1] Thành viên Hội đồng mật xoá luận văn ĐTT
[2] Thành viên Hội đồng mật xoá Luận văn ĐTT
[3] Thành viên Hội đồng mật xoá Luận văn ĐTT
[4] Thành viên Hội đồng mật xoá Luận văn ĐTT
Nguồn: http://www.viet-studies.info/NguVanKhoaTapPhu_HaNhan.htm
—