Trò cũ viết tặng thầy Đại nhân dịp thầy nhận giải thưởng Phan Châu Trinh. Không biết địa chỉ của thầy Đại, nên trò tạm treo lên đây, hy vọng sẽ có người chuyển đến tay thầy.
Chú giải cho lời đề tăng [của “hòa thượng” Thích Học Toán trên trang blog thichhoctoan do giáo sư Toán học Ngô Bảo Châu quản trị]:
… Thực ra thì những lời thày Đại nói với học trò đều thuộc “Ngôn ngữ học đại cương”: tính võ đoán của ngôn ngữ. Ferdinand de Saussure minh họa khái niệm đó: cách nhau một “ngã ba biên giới”, cùng một con ngựa, bên này gọi cheval, bên kia gọi horse, bên kia nữa gọi pferd. (Bên trong một nước Việt, người Kinh gọi con ngựa, còn người Tày lại gọi tu mạ đấy thôi?). Đó chính là luật về tính võ đoán (arbitrariness hoặc arbitraire).
Trong hệ thống có tên Công nghệ Giáo dục do thày Đại mở, luật về tính võ đoán ngôn ngữ học được học từ lớp 2. Sách do thày Đại chủ biên gọi nội dung đó bằng hai khái niệm vật thật (cái con ngựa có thật trong đời sống) và vật thay thế (cái symbol bằng âm thanh “thay thế“ được cho cái con ngựa thật kia).
Ngô Bảo Châu biết quá rõ điều này. Anh chàng giả vờ thật thà, vận dụng vào trường hợp thày Đại, kể ra mấy cái tên từ thày Đại, đến giáo sư Rồ Ngọc Dại, cho đến cụ Chí Vĩ, nhằm chỉ rõ thái độ của xã hội với Hồ Ngọc Đại. Lẽ ra Ngô Bảo Châu nên kể thêm một vài cái tên khác nữa do những người và những thế lực ú ớ đặt ra, đám này chẳng biết gọi nhà giáo dục được giải Phan Châu Trinh 2009 là gì!
Ngô Bảo Châu còn nhắc khéo cả xã hội, muốn đánh giá đúng giáo sư Hồ Ngọc Đại, phải xem xét đúng bản chất cái “vật thật” đó, không xét đoán theo những cách gọi tên thay thế cho Công nghệ Giáo dục, càng không nên dại dột gọi tên theo lời đồn mà bé cái lầm!
Một chú thích nhỏ: việc bạn Ngô Bảo Châu nhắc nhở hệ thống Công nghệ Giáo dục của thầy Đại là việc làm đúng đắn và cần thiết. Anh chàng chỉ quên có một tí tẹo này thôi: cậu đã xa trường trên dưới một phần tư thế kỷ. Bấy nhiêu năm, bao nhiêu nước chảy dưới chân cầu, hệ thống ấy chẳng rồ chẳng dại gì mà không “tự diễn biến” theo hướng tích cực.
Phạm Toàn
Thái độ của xã hội với Hồ Ngọc Đại cũng sắc nét quyết liệt như bản thân con người ông. Kẻ ghét ông gọi ông là Rồ Ngọc Dại. Trò yêu gọi ông là thầy Đại. Một vài bạn bè quí ông gọi ông là cụ Chí Vĩ. Bản thân ông thì coi cái tên chỉ là một qui ước. Có lần ông ôn tồn giải thích với các bạn cùng lớp của tôi rằng cái tên của bạn Châu cũng chỉ là qui ước. Chúng ta hoàn toàn có thể qui ước lại là Trâu, Trâu Bò hay Châu Chấu. Lúc đó trò còn bé quá, chưa cãi thầy được, cho nên tức lại càng tức.
Cái tên là một sự qui ước nhưng là một sự qui ước có lý do. Trò hay đùa với đồng nghiệp rằng chọn ký hiệu trong toán còn khó hơn chọn tên cho con. Ký hiệu phải vừa gọn gàng, vừa phải gợi lên trong tiềm thức của người đọc những gì liên quan đến đối tượng. Đấy là lý do tại sao ta không nên coi thường những cái tên có sự đồng thuận cao trong xã hội như ông Rồ Ngọc Dại, thầy Đại và cụ Chí Vĩ.
Cái nền chung của xã hội chúng ta vẫn là tính bảo thủ của anh tiểu nông. Không thể phủ nhận việc anh tiểu nông có cái khôn ngoan, có cái đáng yêu riêng của anh. Đối nhân xử thế như thế nào thì anh sành sỏi lắm. Nhưng với cái gì đòi hỏi suy nghĩ có hệ thống, lại không liên quan đến cơm áo hàng ngày, thì anh vẫn thích hơn những chỉ dẫn có sẵn của các bậc sĩ phu, những người được trang trí bằng những danh hiệu to đùng. Chúng ta chia sẻ những bối rối của anh khi đứng trước một nhân vật dám lật lại những giá trị tưởng như đã được thiết lập cho muôn đời như là dạy trẻ con tập đọc, tập viết, tập tính toán và tập sống. Chúng ta cũng thông cảm những băn khoăn của anh đối với một con người không ngừng diễu cợt những danh hiệu to đùng, để chăt chiu phần trân trọng cho trẻ nhỏ. Nếu dám tự đặt mình vào vị trí của thầy, trò sẽ rất lấy làm hãnh diện vì cái tên Rồ Ngọc Dại do các anh tiểu nông đặt cho.
Nhưng trò sẽ chột dạ nếu bạn bè thân thiết gọi mình là cụ Chí Vĩ. Trò chỉ đồng ý với câu thầy nói ”Trẻ có thể học bất kỳ điều gì nếu ta biết… dạy! ” nếu kèm thêm giả thiết quĩ thời gian của trẻ là vô hạn. Theo chủ quan của trò, cụm từ “biết … dạy” thể hiện sự chủ quan vô hạn của ngành khoa học giáo dục : phương pháp giảng dạy quan trọng hơn nội dung giảng dạy. Xem xét lại những thao tác cơ bản nhất trong việc dạy dỗ trẻ nhỏ là viêc không thể không làm. Nhưng trò muốn cân nhắc thêm xem những kỹ năng trong việc dạy có thể san phẳng những khó khăn trong việc học hay không.
Trò còn nhớ như in những tiết học lớp một ở trường Thực nghiệm. Ở tiết toán, trò được học : nếu lấy giao của tập hợp các tam giác với tập hợp các hình màu vàng thì ta có tập các tam giác màu vàng. Ở tiết văn, trò được học làm thơ lục bát trước khi học đánh vần. Những tiết học này là những món quà tuyệt vời hằn sâu vào ký ức của trò.
Nhưng sau này, trò rất lo lắng khi trò chuyện với một người kế nhiệm của thầy, phụ trách mảng toán cấp hai cho trường thực nghiệm. Anh ấy bảo, học xong tập hợp thì ta học nhóm, học xong nhóm thì ta học vành. Để minh họa cho nhóm, anh ấy lập một bảng chi tiết cho phép toán hai ngôi cho nhóm rồi kiểm tra các tiên đề của nhóm được thỏa mãn hay không. Dạy lý thuyết nhóm như thế tức là không hiểu gì về nhóm. Dạy tập hợp, rồi nhóm, rồi đến vành, trường, cũng không khác việc kể chuyện que tăm, rồi chuyển sang kể chuyện que diêm, rồi chuyện cái bật lửa.
Vào đầu thế kỷ hai mươi, lý thuyết tập hợp là một cuộc cách mạng lớn, nhưng nó không thay đổi bản chất của toán học. Toán học của thế kỷ hai mốt kế thừa toán học của thế kỷ hai mươi như toán học thế kỷ hai mươi đã kế thừa toán học thế kỷ mười chín, dù cho ngôn ngữ và công cụ đã trải qua nhiều lần lột xác.
Nói cho cùng, vấn đề không phải là chứng minh phương pháp cũ là sai, phương pháp mới là đúng, mà làm thế nào để học sinh biết đọc, biết viết, biết tính toán. Xuất phát từ suy nghĩ của một người rất hay thẹn vì lỗi chính tả, trò trộm nghĩ, bên cạnh việc hiểu ba nguyên tắc của đánh vần trong tiếng Việt của thầy Phạm Toàn, học sinh nên tập viết chính tả có chấm điểm thường xuyên hơn. Hình như cụ Khổng Khâu có nói, ăn đòn cũng là một cách học tốt.
Trò rất mong thầy xem những bất đồng trình bày ở trên như một cách bày tỏ sự trân trọng của trò với công nghệ giáo dục và như sự kính trọng với sự nghiệp của thầy. Cái cách thầy đặt ra ngoài tầm quan tâm mọi hư danh phù phiếm, để cho việc làm của minh và suy nghĩ của mình luôn song hành chính là cái mà trò luôn hướng theo để học tập.
Anh tiểu nông cũng nên nhập tâm cái câu nói của thầy Đại mà trò đã nhập tâm :
ĐI HỌC LÀ HẠNH PHÚC