«Khai trừ» Tiến sĩ Phạm Chí Dũng – người đã từ bỏ Đảng

clip_image002

Thông thường, người bỏ Đảng ở Việt Nam chỉ cần gửi một thông báo ra đảng cho tổ chức Đảng nơi sinh hoạt. Nhưng với việc Tiến sĩ Phạm Chí Dũng gửi đơn xin ra Đảng như một cử chỉ thể hiện sự tôn trọng và cách hành xử văn hóa, anh đã phải nhận một phản ứng ít văn hóa hơn hẳn là quy trình tổ chức “đấu tố” và khai trừ.

Ngày 25/12/2013, Tiến sĩ Phạm Chí Dũng đã được mời đến cơ quan Ủy ban Kiểm tra thuộc Đảng ủy khối Dân Chính Đảng để nghe đọc quyết định khai trừ Đảng đối với anh, một loại “án bỏ túi” được mặc định bởi Đảng ủy khối Dân Chính Đảng – cơ quan được Đảng bộ và Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh chỉ đạo.

TS Phạm Chí Dũng cho biết, do tự xét thấy mình không hề vi phạm Điều lệ Đảng và các văn bản liên quan nên anh đã không tiếp nhận quyết định khai trừ Đảng trong cuộc họp thi hành kỷ luật đảng viên.

Anh bày tỏ quan điểm là toàn bộ các bài viết và phát ngôn của anh chỉ nhằm phản biện trung thực tình hình, cảnh báo khách quan về thế tồn vong của Đảng. Nếu Đảng vẫn duy trì thực trạng như hiện nay mà không có bất kỳ cải cách đáng kể nào, nhiều khả năng sau bốn năm nữa Đảng sẽ tự tan rã theo đúng cái cách mà tiền nhân Cách mạng tháng Mười Nga Vladimir Ilitch Lenin đã cảnh báo “Không ai có thể tiêu diệt được người Cộng sản, chỉ có người Cộng sản mới có thể tiêu diệt chính họ”.

Có thể xem đây là một sự kiện kỷ lục về thời gian, khi quyết định khai trừ đã hiện ra chỉ sau ba tuần kể từ khi TS Phạm Chí Dũng công bố bức Tâm thư từ bỏ Đảng và nộp đơn xin ra Đảng. Những năm trước, ông Kha Lương Ngãi – nguyên Phó Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải Phóng – đã phải mất đến hai năm để được thuận tình cho ra Đảng.

Việc khai trừ Đảng TS Phạm Chí Dũng xảy ra sau khi không thành công trong việc vận động anh rút đơn xin ra Đảng, đã ghi dấu một “điểm son” nữa trên gương mặt tổ chức Đảng đương đại: thay vì giải quyết đơn xin ra Đảng một cách bình thường, Thành ủy và Đảng ủy khối Dân Chính Đảng đã vin vào cớ TS Phạm Chí Dũng “truyền bá quan điểm trái với đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam”, biến thành cơ sở cho việc ban hành quyết định khai trừ Đảng.

Trước khi xảy ra việc khai trừ Đảng, TS Phạm Chí Dũng đã được yêu cầu làm bản kiểm điểm để chuẩn bị cho một cuộc “đấu tố” trong đảng ủy Viện Nghiên cứu Phát triển TPHCM – nơi anh làm việc và sinh hoạt Đảng – với “gợi ý” về việc anh đã vi phạm điều lệ Đảng và quyết định số 47 của trung ương về 19 điều đảng viên không được làm. Đó là : “Nói, làm trái hoặc không thực hiện cương lĩnh chính trị, điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, kết luận của Đảng”, và “…tuyên truyền, tán phát thông tin, tài liệu dưới mọi hình thức để truyền bá những quan điểm trái với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước”.

Khá trái ngược với sức ép của Thành ủy và Đảng ủy khối cấp trên, cuộc “đấu tố” tại Đảng ủy Viện Nghiên cứu Phát triển TPHCM đã mang lại kết quả 60% đảng viên dự họp không đống ý với hình thức khai trừ Đảng đối với TS Phạm Chí Dũng. Tỉ lệ 40% đồng ý khai trừ nhiều khả năng thuộc về phiếu của giới quan chức Đảng và những người có chức vụ trong chính quyền.

Nhìn lại năm 2009, đại tá, nhà văn Phạm Đình Trọng – người có một số bài viết thể hiện bất đồng quan điểm với Đảng, cũng đã bị khai trừ sau khi cấp ủy Đảng địa phương hoàn toàn thất bại trong việc vận động ông rút đơn xin ra Đảng. Thời gian của tiến trình khai trừ này là 5 tháng. Mục đích chính hành động khai trừ Đảng là người bỏ Đảng luôn phải “vi phạm điều lệ Đảng”, phải bị mất danh dự và đồng thời răn đe các Đảng viên khác không được bỏ Đảng theo.

Thông thường, người bỏ Đảng ở Việt Nam chỉ cần gửi một thông báo ra đảng cho tổ chức đảng nơi sinh hoạt. Nhưng với việc TS Phạm Chí Dũng gửi đơn xin ra đảng như một cử chỉ thể hiện sự tôn trọng và cách hành xử văn hóa, anh đã phải nhận một phản ứng ít văn hóa hơn hẳn là quy trình tổ chức “đấu tố” và khai trừ.

Dư luận sau các tuyên bố bỏ Đảng

Từ tiến trình khai trừ Đảng một cách có hệ thống và rất thiếu thuyết phục như vậy, Thụy My đã có cuộc trao đổi riêng với TS Phạm Chí Dũng về phản ứng của dư luận sau sự kiện ba đảng viên bỏ Đảng, sức ép mà những người bỏ Đảng phải gánh chịu, tâm lý thoái – bỏ Đảng trong giới hưu trí và xu thế thoái – bỏ Đảng đang diễn ra và có thể sẽ tiếp tục diễn biến với quy mô lớn hơn nhiều trong những năm tới. Xin phép được ghi lại ở đây.

Anh có thể cho biết về phản ứng của dư luận sau sự kiện ba đảng viên Lê Hiếu Đằng, Phạm Chí Dũng và Nguyễn Đắc Diên đồng loạt tuyên bố bỏ Đảng vào đầu tháng Chạp năm 2013?

Tất nhiên vấn đề nào cũng có hai mặt, sự việc nào cũng có thể phát sinh hai loại phản ứng trái ngược. Liên quan đến trường hợp có thể xem là hiện tượng mang tính chính trị – xã hội học về bỏ Đảng, dưới góc độ một người làm công tác nghiên cứu, tôi có thể rút ra khá nhiều đánh giá thú vị về vấn đề «xã hội học đảng viên» của năm 2013.

Mọi chuyện bắt đầu từ lời tuyên bố bỏ Đảng của anh Lê Hiếu Đằng. Lời tuyên bố này lại sinh ra trong bối cảnh anh Đằng đang trong tình trạng ung thư giai đoạn cuối tại bệnh viện 115. Điều rõ rệt có thể nhận thấy là sau tuyên bố này, không chỉ những anh em bạn bè thân thiết trong nhóm Phong trào học sinh sinh viên Sài Gòn, hay còn gọi là nhóm Lực lượng thứ ba, đến thăm anh Đằng, mà còn có cả nhiều người không quen biết thuộc các tầng lớp khác nhau trong xã hội cũng đến bệnh viện để gặp và chia sẻ với người cựu tử tù chế độ cũ.

Có ít nhất một trường hợp làm tôi xúc động là một phụ nữ làm nghề buôn bán nhỏ, có tên là N.T.M.D. hỏi tôi địa chỉ nơi anh Đằng nằm để vào thăm. Sau đó chị đã viết cho tôi như thế này: “Mấy hôm nay tôi bận quá, nên không đọc tin tức. Giờ giở ra mới hay bác Đằng đang nguy đến tính mạng. Sao vậy? Hôm tối thứ Năm ngày 10/12 tôi thăm bác vẫn tỉnh táo kia mà. Từ ông Menras André tới ông Hạ Đình Nguyên, thông tin từ ấy làm tôi lo lắng, dẫu biết rằng cái lo ấy là lo thế thôi chứ chẳng có tích sự gì. Tôi buồn quá! Nếu tôi không gặp Bác lần nào nữa chắc là tôi ân hận lắm. Tôi hứa mà chưa đi thăm bác lần thứ hai. Có khi một lần gặp bác trong đời đã làm tôi thức tỉnh? Nhưng có khi quá bé mọn thì làm gì được hở anh?”

Theo cảm nhận của tôi, chỉ vài dòng ngắn ngủi nho nhỏ như thế đã biểu lộ tình cảm của không ít người dân với tâm tư rời bỏ Đảng của anh Lê Hiếu Đằng. Nhiều người dân đang muốn chứng nhận một sự chuyển đổi và hành động dứt khoát ngay trong nội tại người đảng viên cộng sản để giúp nhân dân có được một chọn lựa xứng đáng hơn nhiều so với thực tế.

Với bác sĩ Nguyễn Đắc Diên cũng vậy, anh ấy nhận được nhiều lời quan tâm và chia sẻ. Theo tôi biết, anh Diên là bác sĩ tư và sinh hoạt Đảng tại địa phương cùng với những đảng viên hưu trí. Anh Diên cũng đã nhận dược những lời động viên và chia sẻ của cả một số đảng viên hưu trí.

Còn phản ứng dư luận đối với Tâm thư từ bỏ đảng và đơn xin ra đảng của anh thì thế nào?

Cá nhân tôi đã nhận được gần 200 lời chia sẻ và ủng hộ trực tiếp. Nếu xem xét vấn đề này dưới góc độ thống kê xã hội học, con số gần 200 người liên hệ với tôi vào lần này gấp ba lần so với số người bày tỏ đồng thuận khi tôi viết một bức tâm thư gửi Quốc hội vào tháng 11/2013 để phản đối Dự thảo Hiến pháp, và gấp 10 lần so với số người chia sẻ với tôi khi tôi nhận quyết định đình chỉ điều tra vào tháng 3/2013.

Sau bức tâm thư từ bỏ Đảng của tôi, đáng chú ý là khá nhiều người đã liên hệ trực tiếp với tôi qua điện thoại để bày tỏ sự ủng hộ, cho dù họ thừa hiểu rằng từ lâu nay máy điện thoại của tôi không còn thuộc về quyền tự do cá nhân. Tỉ lệ người thể hiện chính kiến qua điện thoại như thế chiếm đến 50% những người liên hệ với tôi. Còn trước đây, tỉ lệ chia sẻ với tôi qua phương tiện điện thoại chỉ chiếm khoảng 20-30%, còn lại là qua email và nhắn tin – là những phương tiện có vẻ “an toàn” hơn và cũng dễ dàng “xóa dấu vết” hơn.

Một chi tiết đáng lưu tâm không kém trong phân tích là có đến 80% số người liên hệ với tôi để lại tên họ và địa chỉ rõ ràng, trong khi trước đây tỉ lệ này chỉ khoảng 40%. Sự phân tích cơ cấu này sẽ có ý nghĩa nếu liên hệ với việc trong số gần 200 người liên hệ trực tiếp với tôi, có đến 80% là người trong nước, trong đó có cả một số đảng viên hưu trí, đảng viên đương chức.

Những thống kê sơ bộ mới mẻ này cho thấy ít nhất, không khí dư luận chung đang có chiều hướng thoát dần giới hạn e ngại và sợ sệt. Nếu trường hợp của tôi luôn bị coi là “rất nhạy cảm” thì sự chia sẻ của những người đồng cảm dành cho những người như tôi lại càng đáng quý. So với hồi đầu tháng 11/2013, số người bày tỏ chính kiến với tôi qua điện thoại đã tăng gấp đôi, cho thấy mọi người không còn mấy lo sợ về việc bị ghi âm và bị cho vào “sổ đen”. Gần như trái ngược, trong họ đang phát triển tâm thế muốn chia sẻ và nhu cầu tự do ngôn luận.

Nhưng tất nhiên tôi cũng chờ đợi những phản ứng không đồng tình. Song cho tới nay, tôi thật sự ngạc nhiên là trong gần 200 người liên lạc với tôi, không có bất cứ một cuộc điện thoại hoặc tin nhắn nào mang tính chửi bới hoặc đe dọa, và chỉ có một phản ứng không đồng tình với việc tôi từ bỏ đảng. Tôi có hỏi anh Nguyễn Đắc Diên và được biết anh Diên cũng chỉ nhận duy nhất một cuộc điện thoại nặc danh, la lối và chửi bới hành động bỏ Đảng của anh. Nhưng tất cả phản ứng trái chiều cũng chỉ có thế.

Một phản ứng đặc trưng khác luôn cần được nghiên cứu và phân tích là các chiến dịch công kích, chỉ trích của báo Đảng. Tuy nhiên khác với hơn hai chục bài viết công kích anh Lê Hiếu Đằng vào tháng 8/2013 khi anh Đằng nêu đề xuất thành lập đảng Dân chủ Xã hội, cho tới nay chỉ có hai tờ báo Quân Đội Nhân Dân và Hà Nội Mới đả kích chuyện từ bỏ Đảng.

Hai thể tài phản ứng của báo Đảng và giới dư luận viên về chuyện bỏ Đảng đã gián tiếp cho thấy giới lãnh đạo Đảng đang rất lúng túng, khi tính chính danh của họ đang bị xói mòn nghiêm trọng bởi tình cảnh gần như biến mất của tính chính nghĩa. Mà đã quá thiếu hoặc không còn chính nghĩa thì làm sao có thể phản ứng mạnh mẽ và minh bạch được?

Một cuộc «điều tra xã hội học mini»

Anh có thể cho biết rõ hơn về thành phần xã hội của những người đã chia sẻ với anh và về nội dung của các cuộc trao đổi được không?

Có nhiều tầng lớp chia sẻ với tôi như trí thức, cán bộ hưu trí, cựu chiến binh, doanh nhân, tiểu thương, nông dân, dân oan đất đai, nạn nhân môi trường, công nhân, sinh viên và học sinh, người Việt ở nước ngoài, kể cả một số người đang là sĩ quan quân đội, quan chức nhà nước.

Trong đó, đông nhất vẫn là những người thuộc giới trí thức ở khu vực Hà Nội. Tôi cho rằng yếu tố phản hồi theo vùng như vậy cũng hợp lý, vì Hà Nội chính là trung tâm điểm tập trung đông đảo nhất tiềm lực trí thức, trí tuệ và cũng là nơi dễ phát sinh phản ứng đối với tư tưởng, thái độ và hành vi của đảng cầm quyền.

Đa số các phản hồi bày tỏ nỗi trằn trọc và quá đỗi bức xúc trước hiện tình hỗn loạn của đất nước, chỉ trích nặng nề đối với sự bảo thủ của giới lãnh đạo Đảng và năng lực điều hành quá kém của chính quyền. Họ tâm sự với tôi về đủ thứ, từ đạo đức xã hội xuống cấp thê thảm đến mặt bằng đạo đức của giới quan chức chính quyền trung ương và các chính quyền địa phương đã xuống đến vùng đáy, về các nhóm lợi ích và nhóm thân hữu “được Đảng dung dưỡng” đang ăn trên đầu trên cổ người dân không còn chừa thứ gì…

Một nông dân ở Ban Mê Thuột vừa khóc vừa kể cho tôi nghe là gia đình anh ấy đang bị cướp đất đến tán gia bại sản, trong khi một người bà con của anh ấy ở Đắc Lắc bị chết trong đợt xả lũ thủy điện vào tháng 9 vừa qua nhưng chẳng hề có cấp chính quyền và doanh nghiệp nào đoái hoài, thậm chí một đồng bồi thường cho nạn nhân cũng không có.

Và đây chỉ là một ít trong số rất nhiều ý kiến mà tôi nhận được (*):

V.T.T.: Tôi bỗng nhớ đến việc tôi cương quyết từ chối không làm “Đơn xin gia nhập ĐCSVN” năm 1987 và việc chồng tôi đã lặng lẽ cất bộ “Hồ sơ Đảng tịch” để lưu niệm, sau khi nhận huy hiệu 40 năm tuổi Đảng (năm 2001) và tôi tự thấy có trách nhiệm gửi cho anh đôi dòng chia sẻ.

T.T.: Tôi là một Việt kiều Úc đã xa quê hương VN hơn 32 năm. Hôm nay tôi đọc bài Tâm thư bỏ Đảng của anh, tôi thật sự rất là ngạc nhiên vì anh đã từng là đảng viên ĐCS và lại đã từng làm việc trong ngành an ninh. Anh đã làm một việc cần thiết và đúng lúc cho đất nước.

D.N.T.M.: Tôi mới đọc thông tin anh từ bỏ Đảng CS, tôi – một phụ nữ bình thường chỉ làm nghề buôn bán – hoan nghênh và ngưỡng mộ tinh thần đấu tranh giành lẽ phải cho 87 (tám mươi bảy) triệu công dân Việt Nam, vì còn lại là 3 (ba) triệu đảng viên, mà trong số 3 triệu này có MỘT BỘ PHẬN KHÔNG NHỎ đảng viên hủ nát – tham lam – ác tâm – vô trách nhiệm với dân tộc – giả nhân giả nghĩa…

D.N.: Tôi tin rằng, rất nhiều và rất nhiều đảng viên cũng bâng khuâng và trăn trở như ông, nhưng còn đang lưỡng lự, hy vọng họ sẽ mạnh dạn và can đảm hơn cùng làm một cuộc cách mạng “từ bỏ Đảng” kịp thời cứu nguy dân tộc.

Sau tất cả những ý kiến như thế, tôi lại tự hỏi đất nước này sẽ đi về đâu? Đi về đâu với một thứ hạng tham nhũng thuộc nhóm đáng lên án nhất thế giới, một nền kinh tế bị tàn phá đến cạn kiệt, một gánh nặng nợ xấu và nợ công sẽ trùm lên đầu lớp con cháu trong ít nhất hai thế hệ tới, một nền đạo lý bị băng hoại đến khó tưởng tượng và còn chưa phải là đáy?

Không ít ý kiến đã chia sẻ với tôi về tư thế độc quyền của Đảng Cộng sản hiện nay chính là tác nhân khủng khiếp gây nên nạn độc quyền kinh tế, tham nhũng và các nhóm lợi ích, khiến cho toàn bộ xã hội điêu đứng. Họ đòi hỏi phải có sự thay đổi, một sự thay đổi lớn lao và có thể gần như là một cuộc “thay máu” trong Đảng để gìn giữ những giá trị còn lại của Tổ quốc. Họ đã trắng xóa hy vọng đối với tầng lớp đảng viên đặc quyền đặc lợi hiện thời.

Nhưng cũng có một ít người vẫn còn đôi chút kỳ vọng là trong Đảng sẽ xuất hiện những nhân tố mới nào đó mà có thể phục hồi phần nào niềm tin của dân chúng, mang lại một sự thay đổi chính trị đủ lớn để sự chuyển đổi ở Việt Nam có thể gần tương tự với trường hợp Myanmar, nghĩa là sẽ êm dịu, dân chủ hơn và không đổ máu – một kịch bản mà ngay cả những nhóm lợi ích tàn nhẫn nhất cũng phải tạm hài lòng khi khó còn sự lựa chọn nào khác, nếu không muốn bị người dân “hồi tố” trong giai đoạn hậu sự.

Lại có người nói như hét vào điện thoại, chỉ trích cực kỳ nặng nề Đảng Cộng sản bằng những từ mà tôi xin không mô tả lại, và đòi phải dùng “bạo lực cách mạng” để lật đổ thể chế thối nát này… Người khác thì còn hỏi thẳng: “Sao các ông 72 (nhóm Kiến nghị 72) không lập luôn đảng mới đi? Bọn tôi sẵn sàng đi theo!”.

Tôi lắng nghe tất cả và cũng ghi nhận tất cả, với tư cách một nhà báo độc lập.

Nhưng với tư cách một công dân và với nhạy cảm riêng, tôi cho rằng không phải ngay bây giờ mà sau ba năm nữa, tôi có thể hy vọng. Nhưng chỉ là hy vọng đôi chút, vào một vài gương mặt mang sắc diện cải cách trong Đảng. Đó sẽ là những đảng viên cao cấp muốn nhắm đến mục tiêu chuyển đổi thể chế chính trị một cách ôn hòa và hợp lòng dân, đồng thời có được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Nếu họ có đôi chút thực tâm vì dân tộc, chúng tôi có thể giúp họ.

Tâm trạng khủng hoảng niềm tin của đảng viên có thể dẫn tới những nhận định nào về vấn đề mà anh gọi là «xã hội học đảng viên» ngày nay?

Những ý kiến trao đổi với tôi cũng làm cho tôi có thêm xác nhận về một kết quả sơ bộ trong nghiên cứu gần đây về cơ cấu tư tưởng trong hàng ngũ đảng viên. Hiện thời có khoảng 30% đảng viên là những người không hoặc ít gắn bó với quyền lợi liên quan đến chức vụ, là những người có tư tưởng cải cách và một số là tiến bộ, mong muốn một sự thay đổi đủ mạnh và chấp nhận đa nguyên chính trị để cứu vãn đất nước.

Khoảng 50% số đảng viên khác là những người có gắn bó ở mức độ nào đấy với quyền lực và quyền lợi, theo quan điểm trung dung và phần nào mang tính xu thời. Những người này thường có tư tưởng phản ứng đối với quan điểm giáo điều và bảo thủ trong Đảng và sự yếu kém trong hệ thống điều hành của chính quyền, nhưng vì nhiều lý do đã không thể hiện sự bức xúc của mình và cũng chưa sẵn sàng cho một tiến trình cải cách.

Còn lại là khoảng 20% đảng viên – đa phần là đảng viên giữ chức vụ cao cấp trong Đảng và hệ thống chính quyền, gắn bó mật thiết với quyền lực và quyền lợi – là những người không muốn có bất kỳ một thay đổi nào, thậm chí còn làm nhiều cách để ngăn chặn, ngăn cấm sự thay đổi và các cải cách.

Tâm sự của một số đảng viên hưu trí với tôi cũng cho thấy xu hướng thoái Đảng, không sinh hoạt hoặc bỏ sinh hoạt Đảng ở nhiều địa phương hiện nay là rộng khắp và đang đi vào chiều sâu. Vào năm 2012, đã có một đánh giá của một cơ quan Đảng cho biết có đến 30-40% đảng viên hưu trí không sinh hoạt Đảng, hay nói cách khác là sâu đậm tư tưởng thoái Đảng. Trong thực tế, phản ánh của nhiều người trong giới đảng viên hưu trí cho thấy tỷ lệ thoái Đảng ở giới này còn cao hơn, có thể lên đến 50%. Trong số đó, đã có một số trường hợp làm đơn xin ra Đảng và thực tế đã âm thầm ra khỏi Đảng.

Tuy nhiên, lý do vẫn chưa xuất hiện một phong trào bỏ Đảng trên diện rộng là bởi nhiều đảng viên hưu trí vẫn lo ngại về việc bỏ Đảng sẽ làm ảnh hưởng đến gia đình, con cái của họ, và kể cả đến chế độ sổ hưu của họ. Hơn nữa, do cuộc đời họ đã gắn bó quá lâu và phục vụ cho Đảng, họ luôn bị ám ảnh bởi mặc cảm xấu hổ nếu xin ra Đảng, tức mặc nhiên từ bỏ điều mà họ đã tin hoặc đã từng tin. Ngoài ra, cũng có những người thật lòng muốn chia tay với Đảng, nhưng họ không muốn nằm trong số người ra đảng đầu tiên và càng không muốn bị số đông xem là “lạc loài”.

Nhưng thực ra, thực tế ở Việt Nam cho thấy trừ một số trường hợp bị coi là “nhạy cảm về chính trị” khi tuyên bố ra Đảng, đại đa số còn lại đều là trường hợp bình thường, thậm chí rất bình thường nếu làm đơn xin ra Đảng. Với trường hợp này, tất nhiên chi bộ, cấp ủy nơi họ sinh hoạt Đảng sẽ đặt vấn đề về quan điểm cá nhân họ, cho rằng họ “không còn tha thiết với Đảng” hoặc vì những lý do nào đó như “thiếu kiên định”.

Tuy nhiên đối với đại đa số đảng viên hưu trí, sẽ rất khó có thể xảy ra một làn sóng quy chụp chính trị như đối với những nhân vật bất đồng chính kiến. Một số người hưu trí đã ra Đảng cho tôi biết rằng tuy phải mất đến hàng năm trời để cấp ủy xem xét đơn và cố gắng thuyết phục họ ở lại Đảng, nhưng trước thái độ kiên quyết và rõ ràng của họ, cuối cùng cấp ủy cũng cho họ ra Đảng một cách hết sức lặng lẽ. Sau đó gia đình họ cũng không bị ảnh hưởng gì.

Còn vấn đề sổ hưu lại là một chuyện khác hoàn toàn, liên quan đến chính sách hành pháp chứ không dính dáng gì đến việc có ra đảng hay không, tức là chẳng liên quan gì đến phạm trù “Đảng pháp”. Do vậy sự lo ngại của một số người về hưu hiện thời về chuyện ra Đảng sẽ ảnh hưởng xấu đến chế độ hưu trí hoặc bị mất sổ hưu là hoàn toàn không có cơ sở.

Và nếu như chuyện ra Đảng không liên quan hoặc không liên quan mật thiết đến các quyền lợi kinh tế và gia đình, vấn đề còn lại là những người thực tâm muốn chia tay Đảng có vượt qua được chính giới hạn kìm tỏa trong lòng họ hay không. Tôi cho rằng sớm hay muộn, đến một lúc nào đó họ sẽ phải tự quyết định về câu chuyện này.

Bỏ Đảng: Áp lực và tâm tư

Một câu hỏi tế nhị: việc anh quyết định ra khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam có mâu thuẫn với “lời thề” của anh và khiến anh phải chịu áp lực nào về công việc cá nhân và gia đình?

Từ lâu nay, tôi đã nói rõ quan điểm cá nhân với gia đình tôi và với các cấp ủy Đảng là một khi Đảng không còn đại diện cho điều được coi là “giai cấp công nhân và nông dân”, không còn chăm lo cho đời sống của nhân dân, và thực tế một bộ phận lớn trong giới đảng viên cao cấp đã phản bội lại quyền lợi của người nghèo, không có lý do gì để chúng tôi phải tiếp tục trung thành với Đảng. Thay vào đó, chúng tôi sẽ tự tìm cho mình lối thoát theo lời thề “trung với nước, hiếu với dân”.

Tất nhiên sự phủ nhận lời thề cũ để chuyển hóa sang lời thề mới cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tôi và gia đình. Ở nơi em gái tôi làm việc là Đài truyền hình TPHCM, trước đây tôi có nghe việc từng có áp lực và sức ép nào đó đối với em gái tôi về quy hoạch cán bộ và công việc – một hành động kém văn hóa mà tôi đã phải phản ứng thẳng thừng. Tôi đã và sẽ nói rõ rằng em gái tôi và tôi là hai thể nhân độc lập, hoàn toàn không liên quan gì với nhau về công việc và quan hệ xã hội. Nếu ai đó muốn gây sức ép tiêu cực đối với em gái tôi vì chuyện của tôi thì đó là hành động hạ đẳng và chắc chắn tôi sẽ xử lý vấn đề này đến cùng.

Còn với tôi, dù tới nay chưa bị đặt yêu cầu về thay đổi công việc hay bị cho nghỉ việc, tôi vẫn nghĩ nếu người ta có thể dùng thủ thuật khai trừ Đảng thay vì giải quyết cho ra Đảng một cách bình thường, sẽ không có gì bảo đảm cho tương lai của bạn khi phải đối mặt với cả một hệ thống tiểu xảo.

Trường hợp đại tá, nhà văn Phạm Đình Trọng trước đây cũng là một đảng viên hưu trí và bị chèn ép bởi các tiểu xảo, như anh nói. Theo anh, tâm tư của giới đảng viên về hưu hiện thời ra sao?

Đáng tiếc là một số đảng viên kỳ cựu vẫn chưa thừa nhận rằng nguồn cơn sâu xa và cũng là nguồn dẫn trực tiếp cho tất cả cái thực trạng hỗn mang như hiện thời chính là sự thoái hóa biến chất của quá nhiều đảng viên, từ cấp trung ương đến tận cấp cơ sở theo cái cách mà dân gian đã tổng kết “thượng bất chính hạ tắc loạn”. Rõ ràng đã có một sự khác biệt quá xa, không chỉ về thế hệ mà còn cả về cách nhìn nhận thực trạng và lối thoát giữa thế hệ đảng viên kỳ cựu với những người như tôi, và có thể càng xa cách hơn nhiều nếu so với lớp công dân có độ tuổi từ 30 trở xuống.

Một trong những điều tâm sự sâu lắng nhưng cũng dữ dội nhất mà tôi thường bày tỏ với những đảng viên lão thành là “Đảng bây giờ không còn như Đảng ngày trước”. Tôi cho rằng đó cũng là tâm trạng chung của nhiều người như tôi khi cố gắng làm cho lớp đảng viên lão thành cảm thông với khổ nạn mất hoàn toàn lý tưởng của lớp trẻ. Và một khi không còn lý tưởng thì phải làm gì?

Những người như tôi, nếu không thể tìm được xác tín hay cụ thể hơn là niềm tin ở lớp người đi trước, thì chỉ còn biết tự nghĩ ra cách để tự cứu mình. Cứu mình và cũng là giúp đỡ những người xung quanh. Tôi tự hỏi nếu các đảng viên lão thành bị rơi vào hoàn cảnh của những nông dân bị mất đất, bị cướp đất, hay bị nhân viên công lực đối xử thô bạo ngoài đường phố hoặc phải chịu một cái án oan nào đó giữa thanh thiên bạch nhật, hẳn là họ sẽ không thể bằng an mà bàn luận về lý luận chủ nghĩa xã hội hay về “một bộ phận” nào đó đảng viên đang thoái hóa biến chất. Mà họ sẽ có cái nhìn khác hẳn, bởi khi đó những bức xúc tự thân sẽ chi phối và có thể lấn át lý trí.

Chẳng hạn tôi biết một đảng viên cao cấp từng giữ một vị trí cao trong ngành cao su, khi về hưu vẫn thường đi phổ biến nghị quyết Đảng cho các chi bộ. Nhưng khi nhà ông này bị một dự án làm đường của chính quyền địa phương cắt hết một phần ba, ông đã phẫn uất đến nỗi đòi mang xăng đến trước trụ sở Ủy ban Nhân dân thành phố để tự thiêu.

Một làn sóng thoái, bỏ Đảng trong tương lai?

Hiện tại là như thế… Còn có thể có những thách thức nào đối với giới đảng viên hưu trí trong tương lai?

Ở Việt Nam hiện nay, giới hưu trí với rất nhiều đảng viên đang phải đối mặt với cơn đột biến co thắt túi tiền, mà rất có thể sẽ đồng pha với khả năng từ thắt chặt đến vỡ quỹ lương hưu trong một tương lai không quá xa. Bất chấp việc cho đến nay vẫn chưa có bất cứ hạng mục nào được gỡ bỏ trong số 432 loại phí và lệ phí – được hiểu một cách trung thực như núi thuế trút lên đầu dân chúng, ngân sách quốc gia vẫn ngồn ngộn dấu hiệu cạn kiệt.

Tình thế hiểm trở như vậy càng trở nên hiểm nghèo hơn khi vào năm 2012 đã lần đầu tiên manh nha thông tin về khả năng quỹ lương hưu có thể vỡ vào năm 2030. Nhưng đến nửa cuối năm 2013, dù bị giới tuyên giáo trung ương cố gắng ngăn chặn, thông tin từ những cuộc hội thảo của giới chuyên gia và không ít quan chức có trách nhiệm vẫn cho thấy nguy cơ đó đang đến gần, thậm chí rất gần. Không cần phải chờ đến năm 2030, nếu trong ba, bốn năm tới vấn đề thu ngân sách không được cải thiện – tức tiền thuế thu từ dân không đủ để chi cho các công trình xây dựng cơ bản của nhà nước mà thường lãng phí ít nhất vài chục phần trăm và làm giàu thêm cho các nhóm lợi ích – những người về hưu sẽ phải nhìn nhận một thực tế đớn đau là quỹ lương dành cho họ sẽ bị biến thành một trong những nạn nhân đầu tiên của chế độ thẳng tay cắt xén.

Bài học hậu Liên Xô vẫn còn nguyên giá trị. Trong thời kỳ hỗn loạn nhất về kinh tế cùng vô số nhóm lợi ích thi đua trục lợi, giá trị lương mà giới hưu trí và các công thần của chế độ xô viết nhận được chỉ bằng một nửa, thậm chí 1/3 so với giá trị trước đó. Cũng trong bối cảnh đó, các nhóm lợi ích đã mặc sức tăng giá để khoét sâu hơn nữa nỗi khốn quẫn đau đớn của lớp người nghèo khó. Sau đó và khi đã không còn đủ kiên nhẫn trung thành với chế độ, chính những người về hưu đã phải hàng hàng lớp lớp nắm tay nhau tuần hành phản đối ngay trên Quảng trường Đỏ.

Đó chỉ là một minh họa nhỏ cho thấy sự phân hóa xã hội và bất bình đẳng xã hội ở Việt Nam đã gần đạt tới vùng cao trào. Tầng lớp cai trị đã quá xa cách và hầu như chẳng còn đếm xỉa đến thực trạng đen tối của giai tầng dân đen. So với thời điểm gần bốn chục năm trước, Đảng hiện nay chỉ còn mang bóng hình và hơi thở của các nhóm lợi ích. Mà như thế thì những đảng viên còn chút lương tâm làm sao có thể gìn giữ một cách mù quáng lời thề trung thành với Đảng?

Và làm sao mà những người về hưu ở Việt Nam vẫn có thể giữ được vẻ bình thản như giờ đây, nếu như sau ba, bốn năm nữa họ chỉ nhận được tiền hưu bằng một nửa hay một phần ba giá trị hiện thời? Họ sẽ làm gì khi đó?

Tôi cho là không còn cách nào khác, nếu họ thấy tất cả những kiến nghị hay khiếu nại đã không còn tác dụng gì nữa đối với tầng lớp quan chức vô cảm, họ sẽ phải hành động. Một trong những hành động sẽ là biểu thị thái độ không chỉ bằng lời nói, mà là ra đường, là xuống đường. Còn cách biểu đạt khác mang tính phẫn nộ không kém là những người về hưu bức xúc nhất sẽ thẳng thừng chia tay Đảng.

Nhưng thực tế cho đến nay số người tuyên bố công khai bỏ Đảng vẫn còn rất ít. Anh có cho rằng làn sóng thoái – bỏ Đảng sẽ tiếp nối và diễn ra một cách bền vững?

Dù ít người công khai nhưng thực tế nhiều năm qua đã có khá nhiều người âm thầm bỏ Đảng.

Còn những năm tới, vấn đề cơm áo gạo tiền sẽ quyết định tất cả tương lai khủng hoảng hay không khủng hoảng nền kinh tế ở Việt Nam, có hay không một cuộc khủng hoảng chính trị. Đơn giản là nếu nền kinh tế được phục hồi dù chỉ 10% so với mặt bằng hiện nay, sẽ không có con sóng bỏ Đảng nào cả. Khi đó, hệ thống tuyên truyền một chiều sẽ đẩy thành tích 10% ấy lên gấp ba lần. Khi đó, người dân và các đảng viên sẽ tiếp tục chấp nhận tồn tại trong một trạng thái mỏi mòn hy vọng, dù biết rõ hy vọng đó có thể chẳng kéo dài được bao lâu.

Thế nhưng với rất nhiều dấu hiệu suy thoái đã và đang mở ra đề dẫn cho khủng hoảng kinh tế, lòng người không thể cầm cự được nữa. Thời điểm cuối năm 2013 đang chứng kiến những tín hiệu suy sụp của khối ngân hàng bởi nợ xấu, xu hướng thoái vốn khỏi ngân hàng và cuộc tranh luận quá căng thẳng về thông tư 02 của Ngân hàng Nhà nước liên quan đến trích lập dự phòng rủi ro. Suy sụp lại dễ dẫn đến đổ nát và do vậy sẽ ảnh hưởng hầu như trực tiếp đến quỹ lương hưu.

Không ít đảng viên am hiểu đang đặc biệt lo ngại về cái tương lai không hề xán lạn ấy. Một số người đã nói công khai với tôi về ý định bỏ Đảng của họ, bởi thời gian qua họ đã thoái Đảng.

Chỉ vài ngày sau sự kiện ba đảng viên bỏ Đảng vào tháng 12/2013, một người quen trong giới nghiên cứu cho tôi biết là một giáo viên chính trị có thâm niên và có học vị tiến sĩ cũng muốn công khai bỏ Đảng. Còn một người dân kể cho tôi là người bạn của anh ta đang muốn vào đảng nhưng đã dừng lại nguyện vọng miễn cưỡng ấy.

Chưa kể đến số phản hồi ủng hộ và chia sẻ trên các trang mạng mà bạn bè cho tôi biết, tôi cho rằng chỉ với mối tương tác trực tiếp mà tôi đã nhận được, có thể đánh giá rằng không ít người đang mang tâm tư thoái Đảng và bỏ Đảng, và có thể lấy ngày 4/12/2013 khi anh Lê Hiếu Đằng tuyên bố rời Đảng là một dấu mốc cho một làn sóng thoái Đảng và bỏ Đảng trong những năm tới.

Một khi cơm áo gạo tiền trở thành vấn đề sống còn của con người thì không một kỷ luật hoặc sự đe dọa nào của tổ chức Đảng còn có thể níu giữ hoặc ràng buộc được các đảng viên, đặc biệt đối với khối đông đảo đảng viên không dính dáng đến đặc quyền đặc lợi.

Với câu chuyện ba đảng viên bỏ Đảng vào tháng 12/2013, tôi không cho rằng sự việc này sẽ gây ra một tác động trực tiếp đối với số đảng viên hiện thời. Nhưng đang và sẽ là một tác động tâm lý tiềm ẩn và có chiều sâu hơn. Tác động đó cần có độ trễ, sau khi đã có tiền lệ. Độ trễ như vậy thường mất từ sáu tháng đến một năm.

Vì vậy tôi cho rằng khả năng vào nửa cuối năm 2014, khi những dấu hiệu bất ổn và tan vỡ của nền kinh tế trở nên rõ rệt hơn hiện thời, một bộ phận lớn trong giới đảng viên hưu trí và kéo theo cả một số trong giới đảng viên đương chức sẽ thấy cần phải chọn lựa điều gì là đỡ xấu hơn trong một hoàn cảnh ngày càng tồi tệ. Hoặc nếu chưa thể chọn lựa cái tốt hơn, họ sẽ có thể bày tỏ thái độ chính trị dứt khoát hơn. Khi đó họ sẽ quyết định, và làn sóng bỏ Đảng sẽ có thể khởi động một cách mạnh mẽ hơn, có thể tiến đến cao trào vào hai năm 2017 và 2018.

Đó cũng là hai năm mà có thể xảy ra một biến động chính trị đủ mạnh và có ý nghĩa lớn lao.

Xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Phạm Chí Dũng.

T.M.

(*) Thụy My xin phép viết tắt tên, bỏ dấu tiếng Việt và sửa một ít lỗi chính tả trong nguyên văn các góp ý.

Nguồn: thuymyrfi.blogspot.com

This entry was posted in Lên Tiếng. Bookmark the permalink.