Nhân 59 năm ngày Quốc tế Nhân Quyền 10/12

Trần Hiền Thảo, Hà Thị Đông Xuân và nhóm sinh viên


“… Tại sao trong ngần ấy năm, chưa lần nào nhân dân ta được đọc nguyên văn Bản Tuyên Ngôn này trên báo chí trong nước?…”

Thưa các bạn sinh viên tham gia và tham quan diễn đàn

Thế giới sắp kỷ niệm 59 năm ngày ra đời của bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền: 10-12-1948 – 10-12-2007, nhóm chúng tôi xin trình các bạn một số nhận thức liên quan nhờ tự tìm hiểu. Những chế độ phi nhân quyền dù chai lì đến đâu cũng phải lo lắng đối phó với lễ kỷ niệm 60 năm ngày này của nhân loại vào năm tới.

Con người khác con vật, dù phương Tây hay phương Đông

Tuyên Ngôn Nhân Quyền là văn bản quan trọng bậc nhất của Liên Hợp Quốc đã được dịch ra mọi thứ tiếng trên thế giới với mong mỏi nó được phổ cập rộng rãi.

Nhân quyền hay Quyền con người đều là chuyển ngữ từ Human Rights mà ra. Phải hiểu “quyền con người” là những quyền cụ thể của từng con người riêng lẻ, chớ không phải là quyền tự quyết và quyền độc lập của cả một dân tộc – như người ta muốn đánh tráo khái niệm. Nhiều nước đã độc lập nhưng dân nước đó chưa được hưởng nhân quyền. Ở nước Việt Nam chúng ta hiện nay, điều này nhắc lại mãi vẫn không thừa.

Đã là con người, thử hỏi có ai lại không quan tâm tới những quyền đương nhiên của mình để phân biệt mình với con vật?

Câu hỏi đơn giản không thể thoái thác trả lời

Bởi vì, càng lần lữa trả lời càng lộ bản chất và càng bất lợi cho chính mình.

Nhà Nước Việt Nam do đảng Cộng Sản Việt Nam lập ra đã đặt bút ký cam kết thực hiện bản tuyên ngôn này từ năm 1982, đến nay đã là 25 năm. Như vậy, ngay từ khi chúng ta chưa sinh ra, đảng CS và nhà nước Việt Nam đã có nghĩa vụ thực hiện các quyền con người cho chính nhân dân nước mình. Không lúc nào nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam không nhấn mạnh là nhà nước của dân, do dân, vì dân.

Do vậy, câu hỏi chúng tôi đặt ra cho ĐCS và nhà nước Việt Nam là: Tại sao trong ngần ấy năm, chưa lần nào nhân dân ta được đọc nguyên văn Bản Tuyên ngôn này trên báo chí trong nước? Học lý luận Mác-Lênin thì được biết CNXH dân chủ gấp triệu lần, nhưng chưa lần nào các thầy nói đến bản Tuyên ngôn Nhân quyền. Tại sao chúng ta, những sinh viên, muốn đọc bản Tuyên ngôn Nhân quyền – mà nhà nước ta đã nghiêm trang cam kết thực hiện – lại phải vượt tường lửa do chính nhà nước ta dựng lên?

Chúng tôi đòi hỏi và kiên nhẫn chờ đợi bác Mạnh, bác Triết, bác Trọng, bác Dũng, và nhưng người kế nhiệm các bác, hãy thay mặt nhà nước CHXHCNVN trả lời câu hỏi này trong thời gian từ nay cho tới lần thế giới kỷ niệm 60 năm ngày ra đời của bản tuyên ngôn. Cách trả lời đơn giản nhất, dễ nhất, là các bác hãy cho phép một tờ báo đăng nguyên văn bản Tuyên ngôn nhân quyền vào bất kỳ thời điểm nào trước ngày 10-12-2008.

Dựa vào đó, chúng ta sẽ cân nhắc thêm để “chọn con đường”.

Hãy tự tìm hiểu những gì bị cố ý che giấu

Vào hộp search của Yahoo hay Google, hay Wikipedia, và gõ hai chữ “nhân quyền” (trong ngoặc kép), chúng ta có thể tiếp cận vô số tư liệu xác thực và quý giá về nhân quyền, kể cả bản tiếng Tuyên ngôn đã được dịch sang tiếng Việt dưới dạng PDF để không ai có thể tự ý sửa chữa và xuyên tạc.

Hoàn cảnh ra đời

Ngay trước 1945, các nước phe Đồng Minh là Anh, Mỹ, Nga (khi biết sẽ thắng phe phát xít gây chiến) liền có dự định xây dựng một nền hoà bình lâu dài cho một thế giới có tổ chức. Hiến chương Liên Hiệp Quốc được chuẩn bị hình thành.

Muốn hết hẳn họa chiến tranh, một trong những điều phải thực hiện là tôn trọng phẩm giá của con người và do đó cần phải bảo vệ và phát huy nhân quyền. Do đó đã nảy sinh nhu cầu có một bản tuyên ngôn phổ quát về nhân quyền.

Vấn đề được đặt ra khi đó là bản Tuyên ngôn này phải có một chỗ đứng cao cả và trưởng tồn trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc và hình thức của nó phải xứng với thiên chức. Cộng đồng quốc tế thời hậu chiến do còn non trẻ đã mất tới ba năm (đầu 1945 đến cuối 1948) để khai sinh ra văn kiện lịch sử này mà hàng năm, vào ngày 10-12, nhân loại đã long trọng kỷ niệm việc công bố.

Thực tế cho thấy, những nước càng có thành tích nhân quyền, càng hào hứng và sôi nổi với ngày kỷ niệm. Mỗi người dân nước đó có cơ sở để tin rằng quyền con người của mình sẽ ngày càng được đảm bảo và mở rộng. Ngược lại, có những nước chỉ miễn cưỡng nhắc tới ngày này, thậm chí có nước còn lờ đi.

Quá trình soạn thảo và thông qua

Một tập hợp gồm 50 luật gia giỏi nhất khi soạn thảo ra văn bản đầu tiên này đã phải tham khảo kỹ càng và sâu sắc triết lý Đông và Tây, coi thử có chỗ nào gần gũi nhau nhất. Họ đã chọn được hai câu châm ngôn phổ biến nhất, lâu đời và rất đồng nhất của cả phương Đông lẫn phương Tây để làm kim chỉ nam. Đó là:

1) «Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân» của đạo Khổng ở phương Đông; và

2) «Ne fais pas à un autre ce que tu ne veux pas qu’il soit te fait» rất phổ cập từ cổ xưa tới nay ở phương Tây.

Điều thú vị là hai câu châm ngôn về ứng xử của hai phương trời xa nhau nhưng vẫn có cùng một ý: Điều gì mình không muốn thì chớ làm cho người khác. Không muốn ai tước đoạt quyền của mình thì chớ tước đoạt quyền của người khác.

Đó phải là nền tảng triết lý của bản Tuyên ngôn trong tương lai. Và quả là nó đã thể hiện rất sâu sắc và trung thành điều đó. Xin các bạn hãy đọc và suy ngẫm nội dung của bản Tuyên ngôn có giá trị vĩnh hằng này.

Rõ ràng, những người chủ trương bảo vệ Nhân quyền muốn bản Tuyên Ngôn phải có giá trị phổ quát. Dường như họ biết trước sẽ có những người viện ra sự «khác biệt» văn hoá Đông – Tây để thoái thác thi hành các quyền con người. Thật quái đản. Chả lẽ chỉ có người dân phương Tây mới cần có tự do ngôn luận, còn người dân phương Đông thì thích câm lặng?

Văn bản ban đầu của nhóm soạn thảo đã được trao đổi không chính thức tại LHQ nhiều lần, về mọi mặt, trong hàng năm trời, cuối cùng (giữa 1946) được giao cho một uỷ ban đặc biệt 9 thành viên do LHQ cử ra xem xét tiếp.

Chín vị thành viên này thuộc nhiều quốc tịch (Mỹ, Pháp, Trung Hoa, Ấn Độ, Liban v.v…) với nhiều dị biệt văn hóa, và cộng với với sự đóng góp độc đáo và xuất sắc của nhiều nhân vật xuất chúng như bà quả phụ Eleanor Roosevelt (phu nhân của cố Tổng thống Mỹ FD Roosevelt), giáo sư đại học luật khoa người Pháp René Cassin, tiến sĩ giáo dục học người Trung Hoa P.C. Chang rất am hiểu về Khổng học, giáo sư triết học người Liban Charles H. Malik v.v…) đồng thời đã tiếp thu nhiều ý kiến của các tổ chức phi chính phủ để dung hòa và tổng hợp thành một văn bản khiến mọi người đều dễ chấp nhận.

Qua nhiều lần họp, văn bản đã thảo luận sôi nổi, để đối chiếu rộng rãi nhiều quan điểm triết học, chính tri, văn hóa phương đông lẫn phương tây và cho đến tận khuya ngày 10-12-1948 thì công trình của nó đã được Đại hội ồng Liên Hiệp Quốc thông qua.

Ttrong phiên họp toàn thể lần thứ 183 ngày 10-12-1948 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc tại điện Chaillot ở Paris, chỉ có 2 trong số 50 quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc vắng mặt nên không bỏ phiếu; còn lại không có phiếu chống mà tất cả đều “thuận”, gồm 40 phiếu tán thành và 8 phiếu trắng. Bản Tuyên ngôn nhân quyền ra đời đánh dấu thời đại dân chủ toàn cầu của nhân loại.
I. Ba ý tưởng chủ đạo mang tính nguyên lý trong Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân Quyền đã được nêu minh bạch ngay trong Lời mở đầu:

– Một thế giới lý tưởng là thế giới tự do, công lý và hòa bình. Muốn vậy, nền tảng của thế giới này phải là sự thừa nhận nhân phẩm và quyền bình đẳng của mỗi con người là bẩm sinh.

– Ước vọng cao đẹp nhất của nhân loại là một thế giới ai cũng được tự do ngôn luận, tín ngưỡng và no đủ. Do vậy, thiếu quan tâm, coi rẻ, thậm chí chà đạp những quyền căn bản của con người là hành vi man rợ, ngược với lương tri và lương tâm nhân loại.

– Chức năng của nhà nước là bảo vệ các quyền tự do căn bản của con người, để không ai bị bóc lột, áp bức. Nếu không thế, con người có quyền chống lại độc tài và áp bức.

Vài liên hệ với Việt Nam

– Nếu nhân phẩm và quyền bình đẳng là bẩm sinh của con người – cũng như mỗi con người bẩm sinh đã có sẵn khối óc và trái tim, mà bất cần ai ban cho – thì lý do tồn tại của một nhà nước pháp quyền là bảo vệ nhân phẩm và quyền bình đẳng của từng công dân, chớ không phải tự vỗ ngực coi mình là người ban bố chúng.

Đã đành, không có chuyện nhà nước «ban bố» nhân phẩm và nhân quyền cho dân; mà tuyên bố như bác Nguyễn Minh Triết – nhân danh chủ tịch nước – rằng «chúng tôi không nỡ đối xử không tốt với nhân quyền», cũng là vô lối, đáng xấu hổ về nhận thức cũng như trách nhiệm, nhất là khi nhà nước XHCN Việt Nam đã cam kết thực thi bản Tuyên ngôn Nhân quyền từ 1982, cách đây 25 năm.

– Nếu chứng minh được một nhà nước là độc tài, áp bức, đương nhiên mỗi con người đều có quyền chống lại. Như vậy, phản đối để một nhà nước phải thay đổi theo chiều hướng bảo vệ nhân quyền là quyền đương nhiên của công dân. Cấm đoán công dân làm điều đó là hành vi của một nhà nước vi phạm nhân quyền. Coi đó là tội hình sự thì quả là nhà nước độc tài. Việc nhà nước XHCN Việt Nam ban hành điều 88 trong bộ luật hình sự là điều đáng xấu hổ, thậm chí nhục nhã với thế giới vì đã trâng tráo chống nhân quyền.

– Nếu thật sự tôn trọng chữ ký, nhà nước XHCN Việt Nam không được ban hành hiến pháp và luật pháp trái với Tuyên ngôn Nhân quyền và các công ước về quyền dân sự. Thủ tướng nước ta nói với phái đoàn điều tra tự do tôn giáo Hoa Kỳ (2007) rằng chúng tôi hiểu đầy đủ nội dung các văn bản trên, nhưng Việt Nam có luật pháp riêng… quả là không thể hiểu nổi về sự vi phạm có chủ tâm khi ban hành luật.

– Nếu nhân phẩm và nhân quyền được tôn trọng khắp nơi, chúng ta sẽ có một thế giới tự do, công lý và hòa bình; nếu ngược lại, chiến tranh vẫn ấp ủ. Bản chất cuộc nội chiến 1954-1975 ở Việt Nam phải được đánh giá theo tiêu chuẩn nhân quyền có được bên chiến thắng thực thi hay không.

II. Nội dung chính của Tuyên Ngôn Nhân Quyền gồm cả thảy 30 điều.

– Nền tảng tự do, bình đẳng và bác ái của văn bản được nêu ở 2 điều đầu tiên. Nó khẳng định bất cứ con người nào, ở bất cứ nước nào, thời điểm nào, cũng đương nhiên được hưởng mọi quyền ghi trong bản tuyên ngôn này. Đó là cái nền chung cho các điều tiếp theo.

– Quyền và tự do nhân thân là hàng đầu: gồm 9 điều, từ điều 3 đến điều 11.

– Quyền cá nhân trong quan hệ của đời sống xã hội: điều 12 đến điều 17.

– Quyền tự do tinh thần: gói trong 4 điều, từ điều 18 đến điều 21.

– Quyền kinh tế, xã hội và văn hóa: gồm 6 điều, từ điều 22 đến điếu 27.

– Tôn chỉ của Liên Hiệp Quốc và nghĩa vụ của cá nhân đối với cộng đồng: được ghi ở điều 28 và 29.

– Cấm tuỳ tiện giải thích nhằm mục đích không thực hiện nhân quyền: gói trọn trong điều 30. Nó có tầm quan trọng đặc biệt, khi thế giới vẫn còn những chế độ độc tài. Điều này cấm mọi thế lực giải thích tùy tiện về nhân quyền nhằm hạn chế hay huỷ bỏ các quyền con người ghi trong bản Tuyên ngôn này.

Ngược lại, một hiến pháp tuy có ghi nhận các quyền con người nhưng nhà nước cố ý trì hoãn sự luật-hoá chúng để thực thi, thì người dân có quyền tự thi hành chúng theo cách hiểu phổ quát.

Điều 30 rất liên quan tới Việt Nam. Do vậy, xin được nêu nguyên văn:

Điều 30: Không một điều khoản nào trong Tuyên ngôn này có thể giải thích để cho phép một quốc gia, một đoàn thể, hay một cá nhân nào được quyền hoạt động hay làm những hành vi nhằm tiêu hủy những quyền tự do liệt kê trong Tuyên ngôn này.

III. Nguyên văn (bản tiếng Việt):

TUYÊN NGÔN QUỐC TẾ NHÂN QUYỀN (1948)

LỜI MỞ ĐẦU

Xét rằng việc thừa nhận phẩm giá bẩm sinh và những quyền bình đẳng bất khả chuyển nhượng của tất cả các phần tử trong đại gia đình nhân loại là nền tảng của tự do, công lý và hoà bình thế giới,
Xét rằng việc coi thường và khinh miệt nhân quyền đã đưa tới những hành động dã man làm phẫn nộ lương tâm nhân loại, và việc đạt tới một thế giới trong đó mọi người được tự do ngôn luận và tự do tín ngưỡng, được giải thoát khỏi sự sợ hãi và khốn cùng, được tuyên xưng là nguyện vọng cao cả nhất của con người,
Xét rằng điều cốt yếu là nhân quyền phải được một chế độ pháp trị bảo vệ để con người khỏi bị dồn vào thế cùng, phải nổi dậy chống áp bức và bạo quyền,
Xét rằng điều cốt yếu là phải phát triển những tương quan hữu nghị giữa các quốc gia,
Xét rằng, trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, các dân tộc đã tái xác nhận niềm tin vào những nhân quyền căn bản, vào phẩm cách và giá trị của con người, vào quyền bình đẳng nam nữ, cùng quyết tâm thúc đẩy tiến bộ xã hội và nâng cao mức sống trong một môi trường tự do hơn,
Xét rằng các quốc gia hội viên đã cam kết hợp tác với Liên Hiệp Quốc để phát huy sự tôn trọng và thực thi trên toàn cầu những nhân quyền và những quyền tự do căn bản,
Xét rằng một quan niệm chung về tự do và nhân quyền là điều tối quan trọng để thực hiện trọn vẹn cam kết ấy.
Vì vậy,

ĐẠI HỘI ĐỒNG LIÊN HIỆP QUỐC

Công bố bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền này như một tiêu chuẩn thực hiện chung cho tất cả các dân tộc và quốc gia, sao cho mỗi cá nhân và đoàn thể xã hội luôn nhớ tới bản tuyên ngôn này, nỗ lực phát huy sự tôn trọng các quyền tự do này bằng học vấn và giáo dục, và bằng những biện pháp lũy tiến trên bình diện quốc gia và quốc tế, bảo đảm sự thừa nhận và thực thi trên toàn cầu các quyền tự do này cho các dân tộc thuộc các quốc gia hội viên hay thuộc các lãnh thổ bị giám hộ.

Điều 1: Mọi người sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm cách và quyền lợi, có lý trí và lương tri, và phải đối xử với nhau trong tình bác ái.

Điều 2: Ai cũng được hưởng những quyền tự do ghi trong bản Tuyên Ngôn này không phân biệt đối xử vì bất cứ lý do nào, như chủng tộc, màu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay quan niệm, nguồn gốc dân tộc hay xã hội, tài sản, dòng dõi hay bất cứ thân trạng nào khác.

Ngoài ra không được phân biệt về quy chế chính trị, pháp lý hay quốc tế của quốc gia hay lãnh thổ mà người đó trực thuộc, dù là nước độc lập, bị giám hộ, mất chủ quyền hay bị hạn chế chủ quyền.

Điều 3: Ai cũng có quyền được sống, tự do, và an toàn thân thể.

Điều 4: Không ai có thể bị bắt làm nô lệ hay nô dịch; chế độ nô lệ và sự mua bán nô lệ dưới mọi hình thức đều bị cấm chỉ.

Điều 5: Không ai có thể bị tra tấn hay bị những hình phạt hoặc những đối xử tàn ác, vô nhân đạo, làm hạ thấp nhân phẩm.

Điều 6: Ai cũng có quyền được công nhận là con người trước pháp luật bất cứ tại đâu.

Điều 7: Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ bình đẳng không kỳ thị. Mọi người đều được bảo vệ chống lại mọi kỳ thị hay xúi giục kỳ thị trái với Tuyên Ngôn này.

Điều 8: Ai cũng có quyền yêu cầu tòa án quốc gia có thẩm quyền can thiệp chống lại những hành động vi phạm những quyền căn bản được hiến pháp và luật pháp thừa nhận.

Điều 9: Không ai có thể bị bắt giữ, giam cầm hay lưu đầy một cách độc đoán.

Điều 10: Ai cũng có quyền, trên căn bản hoàn toàn bình đẳng, được một tòa án độc lập và vô tư xét xử một cách công khai và công bằng để phán xử về những quyền lợi và nghĩa vụ của mình, hay về những tội trạng hình sự mà mình bị cáo buộc.

Điều 11:

1) Bị cáo về một tội hình sự được suy đoán là vô tội cho đến khi có đủ bằng chứng phạm pháp trong một phiên xử công khai với đầy đủ bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ.

2) Không ai có thể bị kết án về một tội hình sự do những điều mình đã làm hay không làm, nếu những điều ấy không cấu thành tội hình sự chiếu theo luật pháp quốc gia hay luật pháp quốc tế hiện hành; mà cũng không bị tuyên phạt một hình phạt nặng hơn hình phạt được áp dụng trong thời gian phạm pháp.

Điều 12: Không ai có thể bị xâm phạm một cách độc đoán vào đời tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hay bị xúc phạm đến danh dự hay thanh danh. Ai cũng có quyền được luật pháp bảo vệ chống lại những xâm phạm ấy.

Điều 13:

1) Ai cũng có quyền tự do đi lại và cư trú trong quản hạt quốc gia.

2) Ai cũng có quyền rời khỏi bất cứ quốc gia nào, kể cả quốc gia của mình, và có quyền hồi hương.

Điều 14:

1) Khi bị đàn áp, ai cũng có quyền tìm nơi tị nạn và được hưởng quyền tị nạn tại các quốc gia khác.

2) Quyền này không được viện dẫn trong trường hợp sự truy tố thực sự chỉ căn cứ vào những tội trạng không có tính cách chính trị hay vào những hành động trái với mục đích và tôn chỉ của Liên Hiệp Quốc.

Điều 15:

1) Ai cũng có quyền có quốc tịch.

2) Không ai có thể bị tước quốc tịch hay tước quyền thay đổi quốc tịch một cách độc đoán.

Điều 16:

1) Đến tuổi thành hôn, thanh niên nam nữ có quyền kết hôn và lập gia đình mà không bị ngăn cấm vì lý do chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo. Họ có quyền bình đẳng khi kết hôn, trong thời gian hôn thú cũng như khi ly hôn.

2) Hôn thú chỉ có giá trị nếu có sự thuận tình hoàn toàn tự do của những người kết hôn.

3) Gia đình là đơn vị tự nhiên và căn bản của xã hội, và phải được xã hội và quốc gia bảo vệ.

Điều 17:

1) Ai cũng có quyền sở hữu, hoặc riêng tư hoặc hùn hạp với người khác.

2) Không ai có thể bị tước đoạt tài sản một cách độc đoán.

Điều 18: Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo; quyền này bao gồm cả quyền tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng qua sự giảng dạy, hành đạo, thờ phụng và nghi lễ, hoặc riêng mình hoặc với người khác, tại nơi công cộng hay tại nhà riêng.

Điều 19: Ai cũng có quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia.

Điều 20:

1) Ai cũng có quyền tự do hội họp và lập hội có tính cách hòa bình.

2) Không ai bị bắt buộc phải gia nhập một hội đoàn.

Điều 21:

1) Ai cũng có quyền tham gia chính quyền của quốc gia mình, hoặc trực tiếp hoặc qua các đại biểu do mình tự do lựa chọn.

2) Ai cũng có quyền bình đẳng tham gia công vụ trong nước.

3) Ý nguyện của quốc dân phải được coi là căn bản của mọi quyền lực quốc gia; ý nguyện này phải được biểu lộ qua những cuộc tuyển cử có định kỳ và trung thực, theo phương thức phổ thông đầu phiếu kín, hay theo các thủ tục tuyển cử tự do tương tự.

Điều 22: Với tư cách là một thành viên của xã hội, ai cũng có quyền được hưởng an sinh xã hội, cũng như có quyền đòi được hưởng những quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cần thiết cho nhân phẩm và sự tự do phát huy cá tính của mình, nhờ những nỗ lực quốc gia, sự hợp tác quốc tế, và theo cách tổ chức cùng tài nguyên của quốc gia.

Điều 23:

1) Ai cũng có quyền được làm việc, được tự do lựa chọn việc làm, được hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi và được bảo vệ chống thất nghiệp.

2) Cùng làm việc ngang nhau, mọi người được trả lương ngang nhau, không phân biệt đối xử.

3) Người làm việc được trả lương tương xứng và công bằng, đủ để bảo đảm cho bản thân và gia đình một đời sống xứng đáng với nhân phẩm, và nếu cần, sẽ được bổ sung bằng những biện pháp bảo trợ xã hội khác.

4) Ai cũng có quyền thành lập nghiệp đoàn hay gia nhập nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình.

Điều 24: Ai cũng có quyền nghỉ ngơi và giải trí, được hưởng sự hạn định hợp lý số giờ làm việc và những ngày nghỉ định kỳ có trả lương.

Điều 25:

1) Ai cũng có quyền được hưởng một mức sống khả quan về phương diện sức khỏe và an lạc cho bản thân và gia đình kể cả thức ăn, quần áo, nhà ở, y tế và những dịch vụ cần thiết; ai cũng có quyền được hưởng an sinh xã hội trong trường hợp thất nghiệp, đau ốm, tật nguyền, góa bụa, già yếu, hay thiếu phương kế sinh nhai do những hoàn cảnh ngoài ý muốn.

2) Sản phụ và trẻ em được đặc biệt săn sóc và giúp đỡ. Tất cả các con, dầu là chính thức hay ngoại hôn, đều được hưởng bảo trợ xã hội như nhau.

Điều 26:

1) Ai cũng có quyền được hưởng giáo dục. Giáo dục phải được miễn phí ít nhất ở cấp sơ đẳng và căn bản. Giáo dục sơ đẳng có tính cách cưỡng bách. Giáo dục kỹ thuật và chuyên nghiệp phải được phổ cập. Giáo dục cao đẳng phải được phổ cập cho mọi sinh viên trên căn bản bình đẳng, lấy thành tích làm tiêu chuẩn.

2) Giáo dục phải nhằm phát huy đầy đủ nhân cách, tăng cường sự tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do căn bản; phải đề cao sự thông cảm, bao dung và hữu nghị giữa các quốc gia, các cộng đồng sắc tộc hay tôn giáo, đồng thời yểm trợ những hoạt động của Liên Hiệp Quốc trong việc duy trì hòa bình.

3) Cha mẹ có quyền ưu tiên lựa chọn giáo dục cho các con.

Điều 27:

1) Ai cũng có quyền tự do tham gia vào đời sống văn hoá của cộng đồng, thưởng ngoạn nghệ thuật, được hưởng các tiến bộ khoa học và lợi ích của những tiến bộ ấy.

2) Ai cũng được bảo vệ bởi những quyền lợi tinh thần và vật chất phát sinh từ những sản phẩm khoa học, văn học hay nghệ thuật của mình.

Điều 28: Ai cũng có quyền được hưởng một trật tự xã hội và trật tự quốc tế trong đó những quyền tự do ghi trong bản Tuyên Ngôn này có thể được thực hiện đầy đủ.

Điều 29:

1) Ai cũng có nghĩa vụ đối với cộng đồng trong đó nhân cách của mình có thể được phát triển một cách tự do và đầy đủ.

2) Trong khi hành xử những quyền tự do của mình, ai cũng phải chịu những giới hạn do luật pháp đặt ra ngõ hầu những quyền tự do của người khác cũng được thừa nhận và tôn trọng, những đòi hỏi chính đáng về đạo lý, trật tự công cộng và an lạc chung trong một xã hội dân chủ cũng được thỏa mãn.

3) Trong mọi trường hợp, những quyền tự do này không thể hành xử trái với những mục tiêu và tôn chỉ của Liên Hiệp Quốc.

Điều 30: Không một điều khoản nào trong Tuyên Ngôn này có thể giải thích để cho phép một quốc gia, một đoàn thể, hay một cá nhân nào được quyền hoạt động hay làm những hành vi nhằm tiêu hủy những quyền tự do liệt kê trong Tuyên Ngôn này.

PHỤ ĐÍNH 1:

CÁC ĐIỀU KHOẢN NHÂN QUYỀN TRONG HIẾN CHƯƠNG LIÊN HIỆP QUỐC (1945)

Điều 1: Những mục tiêu của Liên Hiệp Quốc là:

1. Duy trì hòa bình và an ninh thế giới.

2. Phát triển tương quan hữu nghị giữa các quốc gia đặt căn bản trên sự tôn trọng nguyên tắc bình đẳng quyền lợi và quyền dân tộc tự quyết, cùng thi hành mọi biện pháp thích nghi để củng cố hòa bình thế giới.

3. Đạt tới sự hợp tác quốc tế nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa, hay nhân đạo, và phát huy, khuyến khích sự tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do căn bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hay tôn giáo.

Điều 55: Nhằm mục đích đạt được những điều kiện về ổn định và phúc lợi cần thiết cho việc thiết lập những tương quan hòa bình và hữu nghị giữa các quốc gia đặt căn bản trên sự bình đẳng quyền lợi và quyền dân tộc tự quyết, Liên Hiệp Quốc đề xướng thực thi:

a. Một mức sống cao hơn, sự toàn dụng nhân công và tạo những điều kiện tiến bộ và phát triển về kinh tế xã hội.

b. Tìm kiếm những giải pháp cho những vấn đề kinh tế xã hội và văn hóa, thực thi sự hợp tác quốc tế về văn hóa và giáo dục, và.

c. Tôn trọng và thực thi trên toàn cầu những nhân quyền và những quyền tự do căn bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hay tôn giáo.

Điều 56: Các Quốc Gia Hội Viên cam kết, bằng những hành động riêng rẽ hay phối hợp, sẽ cộng tác với Liên Hiệp Quốc trong việc thực hiện những mục tiêu ghi trong điều 55 nói trên.

(Nguồn: Office of the United Nation High Commissioner for Human Right)

Thảo, Xuân và nhóm sinh viên

 

Nguồn: http://my.opera.com/labika/forums/topic.dml?id=258731

This entry was posted in Quốc Tế. Bookmark the permalink.