Về sự ra đời của Bản tuyên ngôn phổ quát về quyền làm người (10-12-1948)

Hoàn cảnh đòi hỏi

Đại chiến II sắp kết thúc, phe Trục sắp đầu hàng, do vậy các nước chủ chốt thuộc phe Đồng Minh là Anh, Mỹ, Nga đã dự kiến xây dựng một nền hòa bình lâu dài cho nhân loại. Muốn vậy, mọi người phải sống trong một thế giới có tổ chức. Đó là cơ sở để năm 1945 Liên Hiệp Quốc được thành lập và Hiến Chương của nó ra đời.

Để vĩnh viễn loại trừ thảm họa chiến tranh, điều tiên quyết là phải tôn trọng phẩm giá từng con người, đồng nghĩa với phải bảo vệ và mở rộng QUYỀN LÀM NGƯỜI (human rights) của mỗi cá nhân.

Rốt cuộc phải có một Bản Tuyên Ngôn phổ quát về QUYỀN LÀM NGƯỜI.

Dưới đây xin gọi tắt là Bản Tuyên Ngôn

– Chúng ta thường dịch Human Rights là “nhân quyền” hoặc “quyền con người”. Chẳng qua chỉ là chuyện chọn từ ngữ. Tôi mạn phép dùng “quyền làm người” do tình hình thực thi các quyền này trên thực tế.

– Từ ngữ cũng quan trọng, nhưng quan trọng nhất là quan niệm: Đây là các quyền bẩm sinh của mỗi con người (đó là quyền tự do, khiến một con người khác một con vật), chứ không phải quyền của toàn khối dân tộc này không chịu phụ thuộc vào dân tộc khác (tức quyền độc lập).

– Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ 1946 đã phân biệt rất rõ điều này, với câu nói đến nay nhắc lại, vẫn thấy tính thời sự: Nước độc lập mà dân chưa tự do thì độc lập cũng không có ý nghĩa.

Ngay thời đó, các quốc gia trong Liên Hợp Quốc đã thống nhất quan điểm: Bản Tuyên Ngôn về QUYỀN LÀM NGƯỜI khi được công bố phải chiếm một vị trí cao cả, phải có giá trị vĩnh hằng và phổ quát; nội dung phải tương xứng với thiên chức của nó: Là minh triết của nhân loại.

Do những đòi hỏi trên, Liên Hợp Quốc ở buổi sơ khai đã tốn gần 4 năm bàn bạc, xây dựng, để có thể công bố văn kiện lịch sử này vào khuya ngày 10-12-1948. Và đến nay nó đã được chính thức dịch ra 360 ngôn ngữ để bất cứ dân tộc nào, dù hết sức thiểu số, cũng có thể tiếp cận – trừ khi bị cố ý che dấu.

Quan niệm, triết lý và tính phổ quát

Tập thể 50 luật gia hàng đầu thế giới sẽ mãi mãi tự hào vì đã đóng góp trí tuệ uyên thâm để soạn thảo ra văn bản ban đầu. Để nó thật sự mang tính phổ quát (universal), các quyền trong Bản Tuyên Ngôn phải được mỗi cá nhân trong số 2 tỷ người (hồi đó) thừa nhận rằng: 1) Đây là các quyền tối thiểu để một con người xứng đáng là một NGƯỜI; 2) Đây là quyền bẩm sinh: Nếu đã sinh ra là kiếp người, đương nhiên phải có các quyền này; 3) Chúng đều khả thi ở mọi nước dân chủ; 4) Một chính quyền tự nhận là dân chủ có nghĩa vụ thực thi các quyền này như con cái tỏ lòng biết ơn với các đấng sinh thành ra mình.

Với đòi hỏi như trên, tập thể luật gia phải tham khảo đầy đủ các triết lý, cả phương Đông lẫn phương Tây, vì dự kiến sẽ có những thế lực nại ra sự khác biệt để không (hoặc hạn chế) thực thi Bản Tuyên Ngôn. Thật may mắn và đáng kinh ngạc, có hai câu châm ngôn của hai phương trời, vừa tỏ ra trường tồn nhất, phổ quát nhất, lại vừa có nội hàm và ý nghĩa trùng khớp đến tuyệt đối. Chúng xứng đáng được coi là kim chỉ nam trong cả quá trình soạn thảo.

– Phương Đông có câu “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” của đạo Khổng. Nghĩa: Điều gì mình không muốn thì chớ thi hành cho người khác.

– Phương Tây từ cổ xưa có câu rất phổ cập “Ne fais pas à un autre ce que tu ne veux pas qu’il soit te fait”. Nghĩa: Anh chớ làm cho người khác cái điều mà anh không muốn người đó làm cho mình.

Đây chính là nền tảng triết lý của Bản Tuyên Ngôn phổ quát Đông-Tây.

Nay, sau 60 năm, đọc lại Bản Tuyên Ngôn, chúng ta phải thừa nhận tập thể soạn thảo đã hết sức trung thành với triết lý rất nhân bản này. Quả thật, đó là triết lý ứng xử không bao giờ cũ giữa người với người, kể từ khi con người biết chung sống trong xã hội. Có lẽ, chúng ta sẽ ứng xử như vậy với “người” của hành tinh khác.

Quá trình soạn thảo và thông qua

Văn bản ban đầu đã rất nhiều lần được trao đổi tại LHQ để sửa chữa, bổ sung toàn diện, trong suốt mấy năm trời. Cuối cùng, tới giữa năm 1946, nó được giao cho một Ủy ban đặc biệt gồm 9 vị, do LHQ cử ra, xem xét tiếp. Đây là các thành viên thuộc nhiều quốc tịch (Mỹ, Âu, Á, Trung đông…) với nhiều dị biệt về văn hóa. Dẫu vậy, còn có cả sự đóng góp của nhiều tổ chức phi chính phủ, rồi của những nhân vật xuất chúng, như: giáo sư luật khoa René Cassin (Pháp), tiến sĩ Giáo Dục học – rất am hiểu về Khổng học – P.C. Chang (Trung Quốc), bà quả phụ E. Roosevelt (phu nhân cố Tổng thống FD Roosevelt), giáo sư Triết học Charles H. Malik (Liban) v.v…

clip_image001

Bà E. Roosevelt và bản Tuyên ngôn Nhân quyền

Tóm lại, sau khi dung hòa và tổng hợp, văn bản được coi là đã mang tính phổ quát, có thể công bổ phổ quát. Nó đáp ứng được câu hỏi: Nếu bỏ đi một quyền, thì liệu một con người có còn là “con người trọn nghĩa” hay không (?).

Khi văn bản được Ủy ban soạn thảo trình ra trước Liên Hiệp Quốc, vẫn còn có nhiều cuộc họp với sự thảo luận sôi nổi, để các quốc gia đối chiếu rộng rãi với nhiều quan điểm triết học, chính tri, văn hóa giữa các dân tộc, giữa phương Đông và phương Tây. Buổi họp cuối cùng kéo dài tới gần nửa đêm 10-12-1948, để Đại Hội Đồng bỏ phiếu. Đó là phiên họp toàn thể lần thứ 183 tại cung điện Chaillot ở thủ đô nước Pháp. Chỉ có 2 quốc gia vắng mặt nên không bỏ phiếu; còn lại 48 quốc gia, thì không có một phiếu chống nào, mà chỉ có 8 phiếu trắng. Tóm lại, Bản Tuyên Ngôn về Quyền Làm Người được thông qua với 100% phiếu “thuận”.

Sự kiện này đánh dấu thời đại dân chủ toàn cầu của nhân loại. Vấn đề toàn cầu nổi lên là mỗi nước khi đã có độc lập, sẽ thực thi Quyền Làm Người cho mỗi người dân nước mình như thế nào.

Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quyền con người

Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh đã khẳng định những giá trị vượt thời đại của Tuyên ngôn nhân quyền thế giới, ra đời ngày 10/12/1948. Đó là 30 Điều, Khoản của Tuyên ngôn đã xác lập một cách toàn diện những giá trị quyền con người phổ biến, trong đó có quyền bình đẳng và không bị phân biệt đối xử vì bất cứ lý do gì.

Ông cho biết, việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người luôn được Nhà nước Việt Nam xác định là trọng tâm của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Điều này được thể hiện trong các bản Hiến pháp từ năm 1946 đến năm 1992 cũng như hàng loạt văn bản chính sách pháp luật khác.

Tính ràng buộc: Không quá chặt chẽ, nhưng…

Thế giới sau 1945: chế độ phong kiến đã lùi sâu vào quá khứ; nền dân chủ đã được xác lập ở hầu hết các nước, dù nước này có thể khoe dân chủ của mình gấp triệu lần nước khác – nhưng đều là dân chủ.

Tuy vậy, không phải hễ một Nhà Nước dân chủ gia nhập Liên Hợp Quốc thì nó buộc phải ký ngay cam kết thực hiện Bản Tuyên Ngôn này. Gia nhập là một bước, nhưng có thể không đồng thời với bước thừa nhận và cam kết thực thi nhân quyền. Tuy nhiên, nếu không ký sẽ ngày càng khó lý giải với dân nước mình. Nếu còn liêm sỉ, hẳn ít nhiều phải ngượng khi kể lể công ơn với dân – là người sinh ra và nuôi mình.

Và khi đã ký, cũng không nhất thiết phải thực hiện đầy đủ ngay mọi điều khoản của nó, trừ điều khoản cuối cùng (thứ 30). Thời nay, đây là điều dự phòng không thừa.

Dù chưa thể thực hiện trên thực tế, nhưng một khi đã ký, Nhà Nước vẫn phải thể hiện sự thành tâm, thật thà và tôn trọng chữ ký: Công bố rộng rãi cho quốc dân biết rõ việc ký kết, công bố rộng rãi nội dung Bản Tuyên Ngôn, giúp cho thế hệ trẻ học tập đầy đủ… Tiếp đó, các luật của đất nước không được trái với tinh thần và nội dung ghi trong Bản Tuyên Ngôn. Cuối cùng, vấn đề là tình trạng thực hiện Quyền Con Người phải được cải thiện sau từng thời gian, theo một lộ trình cụ thể, được công bố công khai như tờ giấy nợ, có hẹn những thời điểm trả nợ.

Không phải vô cớ mà người ta đánh giá một nghị viện là “bù nhìn” nhiều hay ít căn cứ vào thái độ đòi giới cai trị thực thi nhân quyền, trước hết là quyền ghi trong hiến pháp.

Dẫu sao, Bản Tuyên Ngôn đã phát huy ảnh hưởng. Chỉ sau 1-2 thập niên kể từ khi nó ra đời, hầu hết các nước thuộc địa đã được trao trả độc lập trong hoà bình, muộn nhất là từ 50 năm trước. Nhiều nước quanh ta đã độc lập sớm hơn ta.

Hôm nay, hầu như rất hiếm còn Nhà Nước nào vô duyên tới mức vin vào thành tích giành độc lập (từ nửa thế kỷ trước) để che dấu khiếm khuyết về thực thi nhân quyền ở thế kỷ XXI này.

Đến nay, không một hiến pháp nước nào dám lờ các quyền tự do. Tuy vậy, chuyện thực thi lại dựa vào những văn bản “có thể trí trá” dưới luật. Kinh nghiệm đã có đủ, nhưng chẳng cần kinh nghiệm cũng suy được rằng chính quyền của dân rất ham thực hiện nhân quyền, vì sự thực hiện này giúp chính quyền thêm bền vững. Và ngược lại, nếu thực hiện nhân quyền khiến nó mất địa vị cai trị.

Sẽ càng chặt chẽ

Do sự tiến triển của trào lưu dân chủ đòi hỏi phải thế.

Hiện nay, lần lượt cứ 4 năm một lần, mỗi nước phải báo cáo tình hình nhân quyền nước mình và văn bản phải được các nước góp ý, sau đó tình hình phải được “chốt lại” – gọi là “thông qua” – coi là thực trạng nhân quyền hiện tại của nước đó. Để 4 năm sau coi thử nó tiến triển ra sao.

Việt Nam đã báo cáo về nhân quyền tại Liên hợp quốc. Báo cáo của nước ta đã được một nhóm chuyên viên của cơ quan Nhân Quyền LHQ thông qua vào tháng 5-2009. Hy vọng sẽ có tiến bộ lớn khi nước ta lại đến lượt báo cáo vào năm 2013.

Nhà Nước ta ký vào Bản Tuyên Ngôn là chuyện đương nhiên

Ngày 30-4-1975: Giang sơn Việt Nam quy về một mối.

Ngày 25-4-1976: Nhân dân cả nước đã bầu ra Quốc Hội.

Ngày 02-7-1976: Quốc Hội đổi tên nước thành Cộng hoà XHCN Việt Nam.

Ngày 18-12-1980: Quốc Hội thông qua Hiến pháp XHCN đầu tiên. Điều 2 Hiến pháp 1980 của nước ta ghi rõ: Sứ mệnh lịch sử của Nhà nước đó là thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động…

Như vậy, hoàn toàn không muộn, năm 1982 Nhà nước XHCN Việt Nam đã long trọng ký vào Bản Tuyên Ngôn Phổ Quát về Nhân Quyền (The Universal Declaration of Human Rights) – là văn bản quan trọng bậc nhất của của Liên Hợp Quốc kể từ khi nó được thành lập (1945) đến nay.

Trước thế giới, và trước nhân dân ta, đây là sự cam kết danh dự và nghiêm trang của Nhà Nước Việt Nam về thực hiện một văn bản quốc tế xác định các quyền để một con người xứng đáng là CON NGƯỜI; hơn nữa, đó là con người XHCN.

Thật ra, 18 năm trước khi có Tuyên Ngôn Nhân Quyền, Đảng Cộng Sản Việt Nam ngay khi mới thành lập (1930) đã công bố theo đuổi mục tiêu độc lập cho toàn dân tộc và Dân Quyền toàn diện cho mỗi người dân. Điều này cắt nghĩa vì sao dân Việt Nam nô nức hưởng ứng mọi lời kêu gọi của đảng, đặt trọn niềm tin vào đảng.

Việc ký cam kết thực hiện Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Nhà Nước XHCN Việt Nam là việc đương nhiên, tất yếu. Nhà Nước XHCN của ta đương nhiên phải khác Nhà Nước TBCN. Cũng như con người đương nhiên, tất yếu phải khác con vật.

N.N.L.

Nguồn: chungta.com

Phụ lục

TUYÊN NGÔN QUỐC TẾ NHÂN QUYỀN (1948)

LỜI MỞ ĐẦU

Xét rằng việc thừa nhận phẩm giá bẩm sinh và những quyền bình đẳng bất khả chuyển nhượng của tất cả các phần tử trong đại gia đình nhân loại là nền tảng của tự do, công lý và hoà bình thế giới,

Xét rằng việc coi thường và khinh miệt nhân quyền đã đưa tới những hành động dã man làm phẫn nộ lương tâm nhân loại, và việc đạt tới một thế giới trong đó mọi người được tự do ngôn luận và tự do tín ngưỡng, được giải thoát khỏi sự sợ hãi và khốn cùng, được tuyên xưng là nguyện vọng cao cả nhất của con người,

Xét rằng điều cốt yếu là nhân quyền phải được một chế độ pháp trị bảo vệ để con người khỏi bị dồn vào thế cùng, phải nổi dậy chống áp bức và bạo quyền,

Xét rằng điều cốt yếu là phải phát triển những tương quan hữu nghị giữa các quốc gia,

Xét rằng, trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, các dân tộc đã tái xác nhận niềm tin vào những nhân quyền căn bản, vào phẩm cách và giá trị của con người, vào quyền bình đẳng nam nữ, cùng quyết tâm thúc đẩy tiến bộ xã hội và nâng cao mức sống trong một môi trường tự do hơn,

Xét rằng các quốc gia hội viên đã cam kết hợp tác với Liên Hiệp Quốc để phát huy sự tôn trọng và thực thi trên toàn cầu những nhân quyền và những quyền tự do căn bản,

Xét rằng một quan niệm chung về tự do và nhân quyền là điều tối quan trọng để thực hiện trọn vẹn cam kết ấy.

Vì vậy,

ĐẠI HỘI ĐỒNG LIÊN HIỆP QUỐC

Công bố bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền này như một tiêu chuẩn thực hiện chung cho tất cả các dân tộc và quốc gia, sao cho mỗi cá nhân và đoàn thể xã hội luôn nhớ tới bản tuyên ngôn này, nỗ lực phát huy sự tôn trọng các quyền tự do này bằng học vấn và giáo dục, và bằng những biện pháp lũy tiến trên bình diện quốc gia và quốc tế, bảo đảm sự thừa nhận và thực thi trên toàn cầu các quyền tự do này cho các dân tộc thuộc các quốc gia hội viên hay thuộc các lãnh thổ bị giám hộ.

Điều 1: Mọi người sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm cách và quyền lợi, có lý trí và lương tri, và phải đối xử với nhau trong tình bác ái.

Điều 2: Ai cũng được hưởng những quyền tự do ghi trong bản Tuyên Ngôn này không phân biệt đối xử vì bất cứ lý do nào, như chủng tộc, màu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay quan niệm, nguồn gốc dân tộc hay xã hội, tài sản, dòng dõi hay bất cứ thân trạng nào khác.

Ngoài ra không được phân biệt về quy chế chính trị, pháp lý hay quốc tế của quốc gia hay lãnh thổ mà người đó trực thuộc, dù là nước độc lập, bị giám hộ, mất chủ quyền hay bị hạn chế chủ quyền.

Điều 3: Ai cũng có quyền được sống, tự do, và an toàn thân thể.

Điều 4: Không ai có thể bị bắt làm nô lệ hay nô dịch; chế độ nô lệ và sự mua bán nô lệ dưới mọi hình thức đều bị cấm chỉ.

Điều 5: Không ai có thể bị tra tấn hay bị những hình phạt hoặc những đối xử tàn ác, vô nhân đạo, làm hạ thấp nhân phẩm.

Điều 6: Ai cũng có quyền được công nhận là con người trước pháp luật bất cứ tại đâu.

Điều 7: Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ bình đẳng không kỳ thị. Mọi người đều được bảo vệ chống lại mọi kỳ thị hay xúi giục kỳ thị trái với Tuyên Ngôn này.

Điều 8: Ai cũng có quyền yêu cầu tòa án quốc gia có thẩm quyền can thiệp chống lại những hành động vi phạm những quyền căn bản được hiến pháp và luật pháp thừa nhận.

Điều 9: Không ai có thể bị bắt giữ, giam cầm hay lưu đầy một cách độc đoán.

Điều 10: Ai cũng có quyền, trên căn bản hoàn toàn bình đẳng, được một tòa án độc lập và vô tư xét xử một cách công khai và công bằng để phán xử về những quyền lợi và nghĩa vụ của mình, hay về những tội trạng hình sự mà mình bị cáo buộc.

Điều 11:

1) Bị cáo về một tội hình sự được suy đoán là vô tội cho đến khi có đủ bằng chứng phạm pháp trong một phiên xử công khai với đầy đủ bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ.

2) Không ai có thể bị kết án về một tội hình sự do những điều mình đã làm hay không làm, nếu những điều ấy không cấu thành tội hình sự chiếu theo luật pháp quốc gia hay luật pháp quốc tế hiện hành; mà cũng không bị tuyên phạt một hình phạt nặng hơn hình phạt được áp dụng trong thời gian phạm pháp.

Điều 12: Không ai có thể bị xâm phạm một cách độc đoán vào đời tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hay bị xúc phạm đến danh dự hay thanh danh. Ai cũng có quyền được luật pháp bảo vệ chống lại những xâm phạm ấy.

Điều 13:

1) Ai cũng có quyền tự do đi lại và cư trú trong quản hạt quốc gia.

2) Ai cũng có quyền rời khỏi bất cứ quốc gia nào, kể cả quốc gia của mình, và có quyền hồi hương.

Điều 14:

1) Khi bị đàn áp, ai cũng có quyền tìm nơi tị nạn và được hưởng quyền tị nạn tại các quốc gia khác.

2) Quyền này không được viện dẫn trong trường hợp sự truy tố thực sự chỉ căn cứ vào những tội trạng không có tính cách chính trị hay vào những hành động trái với mục đích và tôn chỉ của Liên Hiệp Quốc.

Điều 15:

1) Ai cũng có quyền có quốc tịch.

2) Không ai có thể bị tước quốc tịch hay tước quyền thay đổi quốc tịch một cách độc đoán.

Điều 16:

1) Đến tuổi thành hôn, thanh niên nam nữ có quyền kết hôn và lập gia đình mà không bị ngăn cấm vì lý do chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo. Họ có quyền bình đẳng khi kết hôn, trong thời gian hôn thú cũng như khi ly hôn.

2) Hôn thú chỉ có giá trị nếu có sự thuận tình hoàn toàn tự do của những người kết hôn.

3) Gia đình là đơn vị tự nhiên và căn bản của xã hội, và phải được xã hội và quốc gia bảo vệ.

Điều 17:

1) Ai cũng có quyền sở hữu, hoặc riêng tư hoặc hùn hạp với người khác.

2) Không ai có thể bị tước đoạt tài sản một cách độc đoán.

Điều 18: Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo; quyền này bao gồm cả quyền tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng qua sự giảng dạy, hành đạo, thờ phụng và nghi lễ, hoặc riêng mình hoặc với người khác, tại nơi công cộng hay tại nhà riêng.

Điều 19: Ai cũng có quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia.

Điều 20:

1) Ai cũng có quyền tự do hội họp và lập hội có tính cách hòa bình.

2) Không ai bị bắt buộc phải gia nhập một hội đoàn.

Điều 21:

1) Ai cũng có quyền tham gia chính quyền của quốc gia mình, hoặc trực tiếp hoặc qua các đại biểu do mình tự do lựa chọn.

2) Ai cũng có quyền bình đẳng tham gia công vụ trong nước.

3) Ý nguyện của quốc dân phải được coi là căn bản của mọi quyền lực quốc gia; ý nguyện này phải được biểu lộ qua những cuộc tuyển cử có định kỳ và trung thực, theo phương thức phổ thông đầu phiếu kín, hay theo các thủ tục tuyển cử tự do tương tự.

Điều 22: Với tư cách là một thành viên của xã hội, ai cũng có quyền được hưởng an sinh xã hội, cũng như có quyền đòi được hưởng những quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cần thiết cho nhân phẩm và sự tự do phát huy cá tính của mình, nhờ những nỗ lực quốc gia, sự hợp tác quốc tế, và theo cách tổ chức cùng tài nguyên của quốc gia.

Điều 23:

1) Ai cũng có quyền được làm việc, được tự do lựa chọn việc làm, được hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi và được bảo vệ chống thất nghiệp.

2) Cùng làm việc ngang nhau, mọi người được trả lương ngang nhau, không phân biệt đối xử.

3) Người làm việc được trả lương tương xứng và công bằng, đủ để bảo đảm cho bản thân và gia đình một đời sống xứng đáng với nhân phẩm, và nếu cần, sẽ được bổ sung bằng những biện pháp bảo trợ xã hội khác.

4) Ai cũng có quyền thành lập nghiệp đoàn hay gia nhập nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình.

Điều 24: Ai cũng có quyền nghỉ ngơi và giải trí, được hưởng sự hạn định hợp lý số giờ làm việc và những ngày nghỉ định kỳ có trả lương.

Điều 25:

1) Ai cũng có quyền được hưởng một mức sống khả quan về phương diện sức khỏe và an lạc cho bản thân và gia đình kể cả thức ăn, quần áo, nhà ở, y tế và những dịch vụ cần thiết; ai cũng có quyền được hưởng an sinh xã hội trong trường hợp thất nghiệp, đau ốm, tật nguyền, góa bụa, già yếu, hay thiếu phương kế sinh nhai do những hoàn cảnh ngoài ý muốn.

2) Sản phụ và trẻ em được đặc biệt săn sóc và giúp đỡ. Tất cả các con, dầu là chính thức hay ngoại hôn, đều được hưởng bảo trợ xã hội như nhau.

Điều 26:

1) Ai cũng có quyền được hưởng giáo dục. Giáo dục phải được miễn phí ít nhất ở cấp sơ đẳng và căn bản. Giáo dục sơ đẳng có tính cách cưỡng bách. Giáo dục kỹ thuật và chuyên nghiệp phải được phổ cập. Giáo dục cao đẳng phải được phổ cập cho mọi sinh viên trên căn bản bình đẳng, lấy thành tích làm tiêu chuẩn.

2) Giáo dục phải nhằm phát huy đầy đủ nhân cách, tăng cường sự tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do căn bản; phải đề cao sự thông cảm, bao dung và hữu nghị giữa các quốc gia, các cộng đồng sắc tộc hay tôn giáo, đồng thời yểm trợ những hoạt động của Liên Hiệp Quốc trong việc duy trì hòa bình.

3) Cha mẹ có quyền ưu tiên lựa chọn giáo dục cho các con.

Điều 27:

1) Ai cũng có quyền tự do tham gia vào đời sống văn hoá của cộng đồng, thưởng ngoạn nghệ thuật, được hưởng các tiến bộ khoa học và lợi ích của những tiến bộ ấy.

2) Ai cũng được bảo vệ bởi những quyền lợi tinh thần và vật chất phát sinh từ những sản phẩm khoa học, văn học hay nghệ thuật của mình.

Điều 28: Ai cũng có quyền được hưởng một trật tự xã hội và trật tự quốc tế trong đó những quyền tự do ghi trong bản Tuyên Ngôn này có thể được thực hiện đầy đủ.

Điều 29:

1) Ai cũng có nghĩa vụ đối với cộng đồng trong đó nhân cách của mình có thể được phát triển một cách tự do và đầy đủ.

2) Trong khi hành xử những quyền tự do của mình, ai cũng phải chịu những giới hạn do luật pháp đặt ra ngõ hầu những quyền tự do của người khác cũng được thừa nhận và tôn trọng, những đòi hỏi chính đáng về đạo lý, trật tự công cộng và an lạc chung trong một xã hội dân chủ cũng được thỏa mãn.

3) Trong mọi trường hợp, những quyền tự do này không thể hành xử trái với những mục tiêu và tôn chỉ của Liên Hiệp Quốc.

Điều 30: Không một điều khoản nào trong Tuyên Ngôn này có thể giải thích để cho phép một quốc gia, một đoàn thể, hay một cá nhân nào được quyền hoạt động hay làm những hành vi nhằm tiêu hủy những quyền tự do liệt kê trong Tuyên Ngôn này.

PHỤ ĐÍNH 1:

CÁC ĐIỀU KHOẢN NHÂN QUYỀN TRONG HIẾN CHƯƠNG LIÊN HIỆP QUỐC (1945)

Điều 1: Những mục tiêu của Liên Hiệp Quốc là:

1. Duy trì hòa bình và an ninh thế giới.

2. Phát triển tương quan hữu nghị giữa các quốc gia đặt căn bản trên sự tôn trọng nguyên tắc bình đẳng quyền lợi và quyền dân tộc tự quyết, cùng thi hành mọi biện pháp thích nghi để củng cố hòa bình thế giới.

3. Đạt tới sự hợp tác quốc tế nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa, hay nhân đạo, và phát huy, khuyến khích sự tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do căn bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hay tôn giáo.

Điều 55: Nhằm mục đích đạt được những điều kiện về ổn định và phúc lợi cần thiết cho việc thiết lập những tương quan hòa bình và hữu nghị giữa các quốc gia đặt căn bản trên sự bình đẳng quyền lợi và quyền dân tộc tự quyết, Liên Hiệp Quốc đề xướng thực thi:

a. Một mức sống cao hơn, sự toàn dụng nhân công và tạo những điều kiện tiến bộ và phát triển về kinh tế xã hội.

b. Tìm kiếm những giải pháp cho những vấn đề kinh tế xã hội và văn hóa, thực thi sự hợp tác quốc tế về văn hóa và giáo dục, và.

c. Tôn trọng và thực thi trên toàn cầu những nhân quyền và những quyền tự do căn bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hay tôn giáo.

Điều 56: Các Quốc Gia Hội Viên cam kết, bằng những hành động riêng rẽ hay phối hợp, sẽ cộng tác với Liên Hiệp Quốc trong việc thực hiện những mục tiêu ghi trong điều 55 nói trên.

This entry was posted in Lên Tiếng. Bookmark the permalink.