Bình luận nhanh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 sau đúng một năm tiếp thu, chỉnh lý (về Lời nói đầu, Chương I và Chương II).*
Dựa vào trang web duthaoonline.quochoi.vn, chúng tôi tìm hiểu Dự thảo 1 đề ngày 18/12/2012 (DT1) và Dự thảo 4 đề ngày 17/10/2013 (DT4). Sau đây là một số nhận xét nhanh về 02 Dự thảo này:
I/. Về lời nói đầu và Chương I (Chế độ chính trị):
1, Lời nói đầu của DT4 về cơ bản như lời nói đầu của DT1 nhưng đã được rút ngắn bằng khoảng 2/3 so với DT1.
2, Các điều 1 và 2 DT4 về cơ bản được giữ nguyên ý như DT1 (điều 2 có bổ sung thêm đoạn “nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ”).
3, Các điều 3 và 4 về cơ bản được giữ nguyên. Tuy nhiên có 02 lưu lý:
a, Tại điều 3 thêm đoạn “Nhà nước… tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân…”
b, Tại điều 4 DT1 Đảng Cộng sản Việt Nam (“ĐCSVN”) theo Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong khi tại điều 4 DT4, ĐCSVN lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng. Chúng tôi sẽ sớm trở lại bình luận điều 4 DT4.
4, Các điều 5, 6, 7 của DT4 cơ bản vẫn được giữ nguyên ý như DT1, có thay đổi một chút về mặt ngôn từ.
5, Điều 8 của DT4 được rút ngắn so với điều 8 DT1 nhưng về cơ bản không khác ý.
6, Các điều 9, 10 về cơ bản được giữ nguyên ý. Điều 9 DT4 ghi rõ thêm các tổ chức chính trị – xã hội gồm Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam là những thành viên của Mặt trận Tổ quốc.
7, Khoản 1 điều 11 DT4 được giữ nguyên (như DT1). Tuy nhiên khoản 2 của điều 11 DT4 có điều chỉnh đáng lưu ý so với DT1 là bỏ cụm từ xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân ra khỏi nhóm hành vi bị nghiêm trị. Một sự điều chỉnh khó hiểu? (Mời các bạn tìm hiểu thêm và bình luận).
8, Điều 12 của DT 4 về cơ bản được giữ nguyên ý của DT1. Điều 13 của DT4 ghép điều 13 và điều 14 của DT1, về cơ bản như DT1.
Nhận xét chung: Nội dung Lời nói đầu và Chương I (Chế độ chính trị) của DT4 so với nội dung Lời nói đầu và Chương I của DT1 không có khác biệt đáng kể.
II. Về chương II (Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân)
1, Điều 14 của DT4 tương ứng với điều 15 DT1. So với DT1 được bổ sung thêm:
a, Cụm từ “về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội” sau cụm từ “quyền con người, quyền công dân”. Theo chúng tôi, việc ghi rõ thêm các quyền này chưa chắc đã bao quát hết quyền công dân, quyền con người.
b, Bổ sung khoản 2 “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” là đoạn được ghi trong khoản 3 điều 17 DT1.
2, Điều 15 của DT4 tương ứng với điều 16 và điều 20 của DT1. Đáng chú ý khoản 4 DT4 đã sử dụng câu: “Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác” thay câu trong khoản 2 điều 16 của DT1 “Không được lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”. Theo chúng tôi hai câu này đều chưa thích đáng.
3, Các điều 16, 17 và 18 của DT4 về cơ bản giữ nguyên ý của các điều 17, 18 và 19 của DT1. Tuy nhiên khoản 2 của điều 18 DT1 (nói về công dân Việt Nam có quốc tịch nước khác) đã bị loại bỏ khỏi DT4.
4, Điều 19 của DT4 tương ứng với điều 21 của DT1, được điều chỉnh như sau:
Điều 21 DT1:
1. Mọi người đều có quyền sống.
2. Hình phạt tử hình chỉ áp dụng đối với một số ít tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được quy định trong luật.
Điều 19 DT4:
Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng một cách trái luật.
Bình luận: Phải chăng có luật tước đoạt tính mạng?
5, Điều 20 của DT4 tương ứng với điều 22 của DT1, về cơ bản giữ nguyên ý của DT1. Tuy nhiên có thêm hai ý sau:
- Quy định về việc bị bắt (mà DT1 bỏ quên chưa quy định, không rõ lý do gì).
- Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác (sẽ được luật định).
6, Điều 21 của DT4 (về bí mật cá nhân, thư tín) có 02 điều chỉnh nhỏ so với điều 23 của DT1.
a, Đoạn trong khoản 1 điều 21 của DT4: “Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của công dân được bảo đảm an toàn và bí mật” thay thế đoạn trong khoản 1 điều 23 của DT1: “Không được phép thu thập, lưu giữ, sử dụng và phổ biến thông tin về đời sống riêng tư, bí mật gia đình và bí mật cá nhân của người khác nếu không được người đó đồng ý”
b, Đoạn trong khoản 2 điều 21 của DT4: “Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác” thay thế đoạn trong khoản 2 điều 23 của DT1: “Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của công dân do luật định”
7, Điều 22 (về quyền chỗ ở và bất khả xâm phạm về chỗ ở) của DT4 về cơ bản không khác DT1, tương ứng ở các điều 24 và 37 của DT1. Tuy nhiên DT4 bỏ đoạn của khoản 2 điều 37 DT1 “Nhà nước có chính sách tạo điều kiện để công dân có nơi ở”. Điều 23 (về quyền tự do đi lại và cư trú) của DT4 giữ nguyên nội dung của điều 25 DT1.
8, Điều 24 (về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo) của DT4 tương ứng với điều 26 của DT1, nội dung cơ bản không đổi, trừ đoạn “Nơi thờ tự của tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ” của khoản 2 điều 26 DT1 (cũng là nội dung trước đây của điều 70 Hiến pháp 1992) đã bị loại khỏi DT4.
Bình luận: Đây là vấn đề nhạy cảm, chúng tôi không rõ tại sao Ủy ban dự thảo lại loại bỏ nội dung này.
9, Điều 25 của DT4 (về các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình) về cơ bản giữ nguyên ý của điều 27 DT1.
Bình luận: Những quyền này là những quyền chính trị, dân sự rất quan trọng, lẽ ra phải được tách thành những điều riêng, ghi rõ hơn, nhưng có vẻ Ủy ban dự thảo không quan tâm đến những ý kiến của nhiều người về những quyền này.
10, Điều 26 của DT4 (về bình đẳng giới) tương ứng điều 28 DT1, về cơ bản giữ nguyên ý của DT1. Riêng đoạn của khoản 1, điều 28 DT1 “Công dân nữ và nam bình đẳng và có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình” được rút gọn trong khoản 1 của điều 26 DT4 “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt”.
11, Các điều 27, 28, 29 của DT4 (về quyền bầu cử, ứng cử, quyền biểu quyết khi trưng cầu ý dân, quyền tham gia quản lý Nhà nước, xã hội, tham gia thảo luận, kiến nghị) tương ứng với các điều 29, 30, 31 của DT1, về cơ bản không khác nội dung của DT1. Tuy nhiên, DT4 có bổ sung 02 ý :
a, Thêm cụm từ “theo quy định của luật” đối với quyền ứng cử, bầu cử.
b, Thêm điều kiện đủ 18 tuổi trở lên đối với quyền biểu quyết của công dân khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.
Bình luận: Quyền ứng cử, bầu cử của công dân rất quan trọng, nhưng với việc bổ sung cụm từ trên, quyền này có thể không còn là quyền đương nhiên (đặc biệt là quyền ứng cử).
12, Điều 30 của DT4 (về quyền khiếu nại, tố cáo) tương ứng với điều 32 của DT1, có điều chỉnh so với DT1, theo hướng giảm trách nhiệm của cơ quan Nhà nước, công chức, viên chức và cá nhân có thẩm quyền khác khi tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Cụ thể DT4 đã bỏ cụm từ “kịp thời, đúng pháp luật” được DT1 ghi sau cụm từ “tiếp nhận, giải quyết”.
Bình luận: Lẽ ra phải tăng trách nhiệm, trong đó khả năng xử lý những cá nhân có thẩm quyền không tiếp nhận hoặc giải quyết không đúng hạn, đúng pháp luật, DT4 đã tạo điều kiện để những người này tiếp tục phớt lờ nghĩa vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo như bấy lâu nay mà không lo bị truy cứu trách nhiệm. Mặt khác, quyền khởi kiện ra Tòa án là một quyền dân sự, chính trị rất quan trọng cần được bảo đảm đã không được ghi nhận trong DT4 (kể cả trong chương về Tòa án, Viện kiểm sát). Rõ ràng những khiếm khuyết này đã không đảm bảo được những đặc tính của Nhà nước pháp quyền.
13, Điều 31 của DT4 (về quyền của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố, xét xử) tương ứng với điều 33 của DT1, nội dung có điều chỉnh đôi chút, đưa ra khái niệm người bị buộc tội. Theo chúng tôi, văn phong của điều 31 của DT4 kém văn phong của DT1 và chưa khắc phục được sai sót của DT1. Xin đưa ra 02 dẫn chứng:
a, Khoản 1 điều 33 của DT1 “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” bao quát và chính xác hơn khoản 1 điều 31 của DT4 “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Vì thực tế có những người không bị buộc tội (chưa bị khởi tố, truy tố) nhưng vẫn bị nhà chức trách, báo chí xử sự như họ đã có tội.
b, Khoản 3 điều 31 DT4 giữ nguyên đoạn “không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm”của khoản 3 điều 33 DT1. Quy định này không chính xác, lẽ ra phải viết không ai bị kết án hai lần vì một hành vi phạm tội.
Bình luận: Chúng tôi cho rằng việc tước tự do, buộc tội và xét xử cần quy định rất rõ trong Hiến pháp như trong Hiến pháp nhiều nước và trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (Việt Nam gia nhập năm 1982). Công ước quốc tế này có 53 điều, có ít nhất 07 điều điều chỉnh về những vấn đề trên. Đáng tiếc DT4 đã chưa đáp ứng được tầm quan trọng của những vấn đề này. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một bài khác.
14, Các điều 32, 33 của DT4 (về quyền sở hữu, quyền kinh doanh) tương ứng với các điều 34, 35 DT1, có 03 điều chỉnh đáng kể so với DT1:
a, Thêm vào khoản 1 điều 32 DT4 đoạn “đối với đất đai thì theo quy định tại Điều 53 và Điều 54” so với điều 34 DT1.
b, Quy định quyền trưng mua, trưng dụng của Nhà nước (bồi thường theo giá thị trường) thành một khoản của điều 32 DT4 (DT1 quy định về vấn đề này ở điều 57 khoản 3).
c, Bỏ quy định Nhà nước bảo hộ quyền tự do kinh doanh (trong khoản 2 điều 35 DT1) ra khỏi điều 33 DT4.
Bình luận: Những điều chỉnh đáng kể này không có lợi hơn cho công dân (tăng quyền, giảm trách nhiệm cho Nhà nước).
15, Các điều 34 (về an sinh xã hội), điều 35 (về việc làm), điều 36 (về hôn nhân, gia đình), điều 37 (về trẻ em, thanh niên, người cao tuổi) của DT4 được thiết kế để thay thế các điều 36, 38, 39, 40 của DT1. Nói chung, DT4 về những vấn đề này có những điều chỉnh nhất định so với DT1 như thêm quy định trẻ em được tham gia các vấn đề về trẻ em (khoản 1 điều 37 DT4), thanh niên được Nhà nước, gia đình và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động và giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng về đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân, đi đầu trong công cuộc lao động và bảo vệ Tổ quốc (khoản 2 điều 37 DT4), nhưng chuyển quy định như Nhà nước và xã hội có trách nhiệm giúp đỡ người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, người nghèo (khoản 2 điều 36 DT1) sang điều 59 khoản 2 DT4, bỏ quy định Nhà nước có chính sách, pháp luật bảo đảm quyền trẻ em (khoản 2 điều 40 DT1)
16, Các điều 38 (về sức khỏe, y tế), điều 39 (về học tập), điều 40 (về quyền nghiên cứu khoa học, công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật), điều 41 (về quyền hưởng thụ, sử dụng, tiếp cận giá trị văn hóa), điều 42 (về quyền xác định dân tộc, lựa chọn ngôn ngữ), điều 43 (về quyền và nghĩa vụ về môi trường) của DT4 tương ứng với các điều 41, 42, 43, 44, 45, 46 của DT1.
DT4 có một số điều chỉnh không đáng kể so với DT1 về những vấn đề này. Như một số nội dung liên quan đến trách nhiệm, nghĩa vụ của Nhà nước trong các điều khoản trên của DT1 được chuyển sang chương III (kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường) hoặc bỏ quy định “học sinh có năng khiếu được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập để phát triển tài năng”của khoản 2 điều 42 DT1.
17, Các điều 44 (trung thành với Tổ quốc), điều 45 (bảo vệ Tổ quốc), điều 46 (tuân thủ pháp luật), điều 47 (nghĩa vụ nộp thuế) của DT4 tương ứng với các điều 47, 48, 49, 51 của DT1. Có sự điều chỉnh đôi chút trong những quy định này của DT4 so với DT1 như trong DT4 chuyển vị trí điều khoản quy định nghĩa vụ tuân thủ pháp luật (điều 47 DT1) từ trước sang sau những điều khoản về trung thành với Tổ quốc, bảo vệ Tổ quốc (điều 48, 49 DT1), DT4 bỏ quy định của điều 50 DT1 (nghĩa vụ giữ gìn, bảo vệ khối đại đoàn kết, nghĩa vụ cộng đồng) trong chương II này. Riêng quy định về nghĩa vụ nộp thuế của DT4 ghi thêm “theo luật định”.
18, Các điều 48 (về người nước ngoài cư trú ở Việt Nam), điều 49 (về người nước ngoài bị bức hại xin cư trú tại Việt Nam) của DT4 giữ nguyên nội dung của các điều 52, 53 tương ứng của DT1.
Nhận xét chung về chương II của DT4 ( so với DT1):
– Có một số điều chỉnh nhưng không đáng kể, không quan trọng.
– Một số điều chỉnh ảnh hưởng theo hướng không tích cực đối với quyền con người, quyền công dân.
– Nhiều quyền con người, quyền công dân cần quy định rõ hơn theo thông lệ quốc tế (đặc biệt những quyền đã được ghi trong các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia) đã không được đáp ứng trong DT4.
– Một số trách nhiệm từ phía Nhà nước để đảm bảo quyền con người, quyền công dân đã không được tăng lên mà có xu hướng giảm nhẹ.
– Tiếp tục có mâu thuẫn (như DT1) khi xác định hạn chế của quyền con người, quyền công dân chỉ trong những trường hợp nhất định theo quy định của luật (điều 14 của DT4), nhưng ở nhiều điều khoản lại quy định quyền con người, quyền công dân được quy định theo pháp luật, đặc biệt đó là những quyền cơ bản quan trọng như quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền hội họp, lập hội, biểu tình, quyền tự do đi lại, cư trú. Những quy định mâu thuẫn như vậy mở đường hoặc hợp thức hóa cho những văn bản pháp quy dưới luật hạn chế nhiều quyền con người, quyền công dân cơ bản hoặc khiến những quyền đó trở nên không thực hiện được trên thực tế, chỉ tồn tại trên giấy như hiện nay.
Hà Nội, ngày 23/10/2013
T.V.H.
Nguồn: diendanxahoidansu.wordpress.com