Hai bài viết ngắn về Võ Nguyên Giáp

Võ Nguyên Giáp – người chiến thắng

Khuôn mặt ngời sáng tinh anh, đôi mắt lá trúc quân tử tuyệt đẹp, phong thái ung dung, tự tại cộng với tài năng quá thể đã tạo nên một Võ Nguyên Giáp – người chiến thắng – đối với bất cứ địch thủ nào, dù là công khai hay âm thầm trong bóng tối.

Lẽ dĩ nhiên, giữa địch thủ công khai và kẻ thù giấu mặt thì kẻ thù giấu mặt bao giờ cũng nguy hiểm hơn. Đừng tưởng: “Ta cứ nghĩ đồng chí rồi thì không còn ai xấu nữa. Trong hàng ngũ ta chỉ có chỗ yêu thương”.

Song trước hết, hãy nói về địch thủ công khai của ông Giáp. Lịch sử VN đã đặt lên vai ông sứ mệnh thành lập, chỉ huy một đội quân chân đất, từ chỗ không có gì, đã vụt lớn lên, rồi đánh thắng hai đạo quân hùng mạnh nhất trên thế giới. Ngay từ hai trận đầu tiên – Phai Khắt và Nà Ngần, ông Giáp đã tỏ rõ tài thao lược của mình và ông là người giành chiến thắng. Một tài năng thiên bẩm của ông là khả năng chọn cách đánh thích hợp. Với cách đánh “kỳ tập”, quân Pháp tại hai đồn Phai Khắt và Nà Ngần đành chịu bó tay. Dẫu sao, người Pháp bấy giờ chưa chịu thừa nhận tài năng của ông và họ vẫn còn nhiều thời gian để đối đấu với ông. Cuộc chiến còn lâu mới kết thúc.

Ngày 19.12.1946, cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất bùng nổ. Người Pháp muốn tốc chiến, tốc thắng. Họ nghi ngờ khả năng quân sự của ông cựu Giáo sư Sử học trường Thăng Long. Ông ta chưa có gì trong tay, làm sao đương đầu nổi với máy bay, xe tăng và bộ binh Pháp? Chỉ cần chụp bắt được cơ quan đầu não Việt Minh, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, đánh quỵ quân chủ lực là có thể kết thúc chiến tranh. Người Pháp thực lòng nghĩ vậy và không phải họ không có lý. Với hai vạn quân, Pháp bất thần tung ra cuộc tấn công lên Việt Bắc, “đánh thẳng vào tim kẻ thù”, mở đầu bằng việc cho quân nhảy dù xuống Bắc Cạn, nơi mà họ nghĩ là thủ đô kháng chiến. Tác giả của cuộc hành binh này là Valuy. Ông Giáp đối phó lại bằng “đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung”, ra lệnh tích cực đánh địch cả trước mặt và sau lưng địch; đồng thời mở ba mặt trận: Mặt trận Đường số 3, Mặt trận Đường số 4 và Mặt trận Sông Lô. Tin chiến thắng tới tấp bay về. Cuộc tấn công lớn, đầy tham vọng của quân Pháp, mặc dù phá hủy được một số kho tàng, thu được 10 triệu bạc VN nhưng rốt cuộc đã phải chịu thất bại cay đắng.

Và Võ Nguyên Giáp thực sự là người chiến thắng!

Người Pháp đành quay về chính sách thực dân, lập đồn bốt ở khắp khu vực tạm chiếm. Chiến lược này dường như có hiệu quả. Trong khi đó, ông Giáp tiếp tục âm thầm xây dựng lực lượng. Đến năm 1949, ông đã có khoảng 300 ngàn quân và sẵn sàng tiến công. Trước hết, ông Giáp chọn những đồn cô lập, tập trung quân số, hạ từng đồn, buộc người Pháp lâm vào thế phòng ngự. Ông Giáp đã phân tích rất sâu sắc mâu thuẫn giữa việc tập trung quân và việc chiếm đóng đất đai của Pháp. Cái gọi là “cuộc chiến tranh đồn bốt” đã làm quân Pháp thiệt hại đáng kể.

Người chiến thắng vẫn là Võ Nguyên Giáp!

Cả Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp đều nhận thấy, không thể chiến thắng quân Pháp chỉ bằng những trận đánh nhỏ. Những trận đánh lớn, điều tất yếu phải đến đã đến – chiến dịch Biên giới năm 1950. Trong chiến dịch này, Võ Nguyên Giáp trực tiếp làm Chỉ huy trưởng (Tư lệnh) và Hồ Chí Minh cũng ra trận vì tầm quan trọng của nó. Tài năng quân sự xuất chúng của ông Giáp, từ việc thay đổi điểm đột phá từ Cao Bằng chuyển sang Đông Khê, đến việc phán đoán ý đồ quân Pháp, đi những nước cờ táo bạo mà chính xác vây hãm và tiến công quân Pháp được thể hiện thật rực rỡ. Chiến dịch Biên giới đại thắng và tác giả của nó – không ai khác hơn chính là Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp!

Cecil B. Curey, trong tác phẩm Chiến thắng bằng mọi giá cho rằng, với tâm trạng lạc quan, đầu năm 1951, có phần chịu ảnh hưởng của cố vấn TQ, Võ Nguyên Giáp tưởng rằng con đường về Hà Nội đã rộng mở. Trận Vĩnh Yên cách Hà Nội 48 km về phía Tây Bắc nhằm kéo quân Pháp ra khỏi các vị trí kiên cố, mở đường cho quân Việt Minh về Hà Nội đã diễn ra. Tuy nhiên, De Lattre tập trung lực lượng đối phó rất kiên quyết. Bom na-pan là tác nhân chính gây thiệt hại khá lớn cho quân VN. Bốn năm qua, đây là thất bại đầu tiên của ông Giáp. Ông nhận thấy đây là một sai lầm, sự quá tin tưởng vào cố vấn TQ đã đưa ông vào một chiến dịch bất lợi.

Không nản lòng, ông hạ lệnh cho ba sư đoàn tiến về Hải Phòng bẻ gẫy hệ thống phòng thủ phía Đông. Sau đó, ông nhanh chóng và kiên quyết đưa cuộc tấn công sang rìa phía Tây đồng bằng Bắc Bộ nhằm buộc quân Pháp ra khỏi khu vực phía Nam đồng bằng. Ông đã chứng tỏ được tài năng chỉ huy đánh vận động chiến và giải quyết hậu cần. Đến chiến dịch Hòa Bình năm 1952, quân Pháp bị tổn thất nặng nề – gần bằng tổn thất tại Điện Biên Phủ sau này, tinh thần quân sỹ lung lay, buộc phải rút lui khỏi Hòa Bình, về thiết lập các vị trí phòng thủ dọc sông Hồng. Các tướng lĩnh Pháp kinh ngạc trước sự tiến bộ vượt bậc của quân VN do Võ Nguyên Giáp chỉ huy. Đến trận Điện Biên Phủ, không còn nghi ngờ gì nữa, các tướng lĩnh Pháp và các nhà phân tích quân sự phương Tây càng thán phục tầm vóc của Võ Nguyên Giáp.

Một nét bút đã chia đôi VN tại vỹ tuyến 17. Sau người Pháp, đến lượt người Mỹ cũng phải ra đi. Họ buộc phải chấp nhận thua trận khi đối đầu với Võ Nguyên Giáp – vị Tổng tư lệnh quân đội nhân dân VN đầu tiên và duy nhất. Cho đến 30.4.1975, nước VN mới hoàn toàn thống nhất.

Hào quang tỏa ra từ những chiến công của ông, từ con người và nhân cách của ông quá lớn khiến “ai đó” cảm thấy bị lu mờ. Cuộc chiến mới của ông bây giờ mới thật sự khó khăn, vì “đối thủ” của ông hoàn toàn khác. Nó ở những chỗ bất ngờ nhất. Nó từ trên cao. Nó ở phía sau, trong bóng tối. Và nó không từ bất cứ một thủ đoạn nào. Nhưng thời gian và lịch sử đã đứng về phía ông. Lịch sử đã chứng tỏ, Võ Nguyên Giáp – người chiến thắng vĩnh cửu.

(Ngày 5.10.2013 – những ngày tưởng niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp)

Nguồn: http://lemaiblog.wordpress.com/2013/10/05/vo-nguyen-giap-nguoi-chien-thang/

Võ Nguyên Giáp – Hồ Chí Minh – Phạm Văn Đồng

Chọn cách đặt tên bài viết như trên, tôi muốn liên tưởng đến câu chuyện dân gian mà ai cũng đã từng nghe. Ấy là Hồ Chí Minh có hai người trợ thủ đặc biệt thân tín, văn võ song toàn, một bên tả, một bên hữu. Văn thì có “Văn Đồng”; Võ thì có “Võ Giáp”. Thật là một hình ảnh hết sức thú vị, nói lên một sự thật lịch sử, vừa dân gian lại vừa đúng thực tế khiến người dân VN rất đỗi tự hào.

Tháng 5.1940, Hoàng Văn Thụ bố trí để Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp sang TQ gặp Hồ Chí Minh. Đây là lần đầu tiên, ông Giáp gặp Hồ Chí Minh, còn ông Đồng đã gặp Hồ Chí Minh năm 1926 tại Quảng Châu. Cuộc gặp gỡ giữa Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh diễn ra tại Thúy Hồ, Côn Minh, TQ là một cuộc gặp gỡ lịch sử. Hồ Chí Minh nói với ông Đồng, trông chú không có gì khác trước. Còn chú này – Hồ Chí Minh chỉ ông Giáp, đẹp như một cô gái vậy.

Nói đến cái đẹp của Võ Nguyên Giáp – một cái đẹp hoàn hảo từ con người đến nhân cách, tôi chợt nhớ đến chuyến trinh sát Cao Bằng của ông chuẩn bị cho chiến dịch Biên giới mà nhà văn Sơn Tùng đã mô tả rất hay qua tác phẩm Trái tim quả đất. Trên đường đi, một người cất giọng lễ phép:

– Ngày được học với thầy ở trường tư thục Thăng Long, chúng tôi ngồi dưới lớp cứ khen trộm thầy đẹp, da trắng như công chúa cấm cung. Nghe thầy giảng, chúng tôi cứ lịm người đi…

Trong đoàn tùy tùng của Đại tướng còn có nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Nhà văn cố giấu niềm xúc động mỗi khi nhìn Đại tướng trong bộ đồ chàm Nùng, da rám nắng leo dốc, lội suối. Vượt qua những đoạn đường đá dăm sắc cạnh, những  gốc cây nhọn hay đám cỏ tranh như những mũi kim châm, anh em dẫn đường phải đau chảy nước mắt, càng thương Đại tướng có đôi chân đã vạn dặm quan san mà chưa hết lốt gót son học trò.

Tại Thúy Hồ, Võ Nguyên Giáp nhận thấy ở Hồ Chí Minh một sự điềm đạm, bình thản, thân thuộc như đã gặp từ lâu rồi. Trong câu chuyện, thỉnh thoảng Hồ Chí Minh nói xen vào những tiếng địa phương miền Trung làm ông Giáp rất ngạc nhiên, vì Hồ Chí Minh xa nước đã lâu ngày. Ông nghĩ, vĩ nhân bao giờ cũng giản dị.

Cùng ý nghĩ đó, trong tác phẩm Hồ Chủ tịch, hình ảnh của dân tộc, Phạm Văn Đồng viết: “Bình sinh, Hồ Chủ tịch là người giản dị, lão thực. Vĩ nhân, thật vĩ nhân bao giờ cũng giản dị, lão thực. Đã cầu kỳ là thiếu bản lĩnh, cố làm trò để đánh lừa thiên hạ và hậu thế”. Có thể nói, Hồ Chủ tịch, hình ảnh của dân tộc là tác phẩm đầu tiên viết về Hồ Chí Minh hay nhất. Không như Tố Hữu, đôi lúc ca ngợi thái quá thành ra thần thánh hóa lãnh tụ, ngòi bút của Phạm Văn Đồng về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh đầy chiều sâu tư tưởng, lay động tâm hồn chúng ta.

Sau này, là một nhà nghiên cứu có uy tín rất lớn về Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng đã viết một loạt tác phẩm: Hồ Chí Minh – một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp; Hồ Chí Minh, quá khứ, hiện tại và tương lai; Hồ Chí Minh và con người Việt Nam trên con đường dân giàu nước mạnh…

Hồ Chí Minh cũng dành cho hai người học trò, hai trợ thủ đặc biệt của mình những tình cảm vô cùng thân thiết. Phạm Văn Đồng kể lại, “một lỗi lầm của tôi có ảnh hưởng không hay đến một việc Bác dự định làm. Mặc dù vậy, Bác chỉ nói với tôi vẻn vẹn một câu: “chú làm hỏng việc”. Chính thái độ này là một bài học mãi mãi ghi sâu trong ký ức tôi”. Hai người cùng sống trong Chủ tịch phủ, thường ăn cơm với nhau, sáng ra đã nhìn thấy nhau. Hồ Chí Minh còn có ý định dành một phòng trong nhà sàn cho Phạm Văn Đồng, vì ông có nỗi đau riêng trong cuộc sống gia đình.

Võ Nguyên Giáp sống tại ngôi biệt thự cổ, số 30 Hoàng Diệu, Hà Nội. Hồ Chí Minh gọi Võ Nguyên Giáp một cách thân thiết, trìu mến mà thâm thúy: chú Văn. Lại nói: “Chú đã có Văn, giờ cách mạng cần có Võ, chú nghiên cứu Võ hơn nữa”.

Nhà văn Sơn Tùng kể lại, một tối, Hồ Chí Minh đến thăm nhà ông Giáp. Giữa câu chuyện, Hồ Chí Minh bỗng quay sang chị Bích Hà cũng đang ngồi đó:

– Có phải không cô Hà, nghe nói chú Văn chịu khó tập đàn? Sao không đánh thử Bác nghe?

Hồ Chí Minh là người am hiểu văn chương, nghệ thuật, là bạn thân của những danh họa Picatso, nhà điện ảnh Giôrít Iven, văn hào Erenbua, Hăngri Bácbuýt… Một dịp quý hiếm biết bao. Ông Giáp ngồi vào trước cây đàn piano, trước hết chơi bản hùng ca quen thuộc: Chiến thắng Điện Biên. Hồ Chí Minh lắng nghe, xúc động. Cây đàn lại ngân tiếp bài Sonatin của Beethoven, Trống cơm, Trẩy hội đêm rằm…

Hồ Chí Minh nghe rất thích thú. Tiếng đàn vừa dứt, Hồ Chí Minh tươi cười:

– Chú đánh hay đấy…nhưng mà…chú đã đánh được bài Kết đoàn chưa?

Một thoáng bối rối, như bị đột kích bất ngờ rồi Đại tướng tươi cười thưa thật với Bác:

– Dạ, chưa.

Hồ Chí Minh còn cười tươi hơn nữa:

– Đánh giặc, chú đã đánh cả trận to lẫn trận nhỏ. Đánh đàn chú phải đánh cả bài khó lẫn bài dễ mới là giỏi. Bài Kết đoàn ai cũng hát, chưa đánh được bài Kết đoàn thì chưa giỏi…

Có ngờ đâu vào buổi tối mùa thu này, ông đành chịu lỗi với Hồ Chí Minh, vì một lẽ đơn giản là chưa có ai viết bài hát nhỏ bé ấy cho đàn piano.

Tình cảm của ba người thật vô cùng thân thiết. Có thời gian, nghe tin Hồ Chí Minh đã mất trong nhà tù Tưởng Giới Thạch, hai ông hết sức lo lắng, dò hỏi khắp nơi. Cho đến khi nhận được nét bút nhắn tin Hồ Chí Minh gửi về trong một tờ báo, hai ông vô cùng mừng rỡ, khi đó mới thoát khỏi cái cảm giác bơ vơ. Ngày 2.9.1969, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng đều có mặt bên giường cấp cứu Hồ Chí Minh. Người ta thấy, Võ Nguyên Giáp còn nhoài người xoa ngực cho Hồ Chí Minh vào những giây phút cuối cùng…

…Vào tuổi 14, Võ Nguyên Giáp ra Huế học tại Trường Quốc học. Một hôm, Nguyễn Chí Diểu đưa cho Võ Nguyên Giáp tấm chân dung Nguyễn Ái Quốc đội mũ phớt (tôi bỗng nhớ đến hình ảnh ông Giáp đội mũ phớt duyệt đội quân danh dự sau ngày Cách mạng thành công), đôi mắt nhìn xa thăm thẳm. Tâm hồn hoa niên của Võ Nguyên Giáp bừng sáng: Nguyễn Ái Quốc!…Nguyễn Ái Quốc!… Nguyễn Ái Quốc!…Bỏ lại sau lưng tất cả, ông ra đi tìm Nguyễn Ái Quốc, cho đến tháng 5.1940, ông đã gặp Nguyễn Ái Quốc tại Thúy Hồ, Côn Minh như chúng ta đã nói tới. Đây cũng là lần đầu tiên Nguyễn Ái Quốc sử dụng cái tên Hồ Chí Minh cho cả quãng đường sau này.

Tại vùng rừng núi phía Bắc, Hồ Chí Minh chỉ đạo ông Giáp, ông Đồng hoạt động bí mật, xây dựng cơ sở, suy nghĩ về con đường giải phóng. Cuộc sống cực kỳ khó khăn, gian khổ, nguy hiểm. Bằng thiên tài dùng người của mình, Hồ Chí Minh giao cho ông Giáp phụ trách quân sự, ông Đồng phụ trách đối ngoại, hai ông phối hợp rất nhịp nhàng. Tại trận Điên Biên Phủ, trong khi Võ Nguyên Giáp là Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ huy chiến dịch thì Phạm Văn Đồng là Trưởng đoàn VNDCCH tại Hội nghị Genève, khắc khoải chờ tin chiến thắng từ người bạn, người đồng chí của mình. Rồi năm 1975, Phạm Văn Đồng là Chủ tịch Hội đồng chi viện còn Võ Nguyên Giáp là Tổng tư lệnh chỉ đạo toàn bộ giai đoạn sau cùng của cuộc chiến. Hai ông đều am hiểu và ưa thích văn học, nghệ thuật, khoa học kỹ thuật, quan tâm các nhà văn, nhà báo, các nhà khoa học… Và dĩ nhiên, hai ông là bạn thân thiết của nhau.

Năm 2000, khi Phạm Văn Đồng về với Hồ Chí Minh, nhà thơ Việt Phương có viết, anh Tô gặp Bác, chắc Người sẽ nói: trông chú không có gì khác trước.

Giờ đây, Võ Nguyên Giáp lại về với Hồ Chí Minh, chắc Bác lại gọi “chú Văn” một cách trìu mến như xưa.

Và giờ đây, ba nhân vật sáng chói nhất trong lịch sử VN hiện đại chắc đã gặp nhau ở đâu đó trong cõi Phật…

(Ngày 6.10.2013 – những ngày tưởng niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp)

L.M.

Nguồn: http://lemaiblog.wordpress.com/2013/10/06/vo-nguyen-giap-ho-chi-minh-pham-van-dong/

 

 

This entry was posted in Tản Mạn. Bookmark the permalink.