BVN xin giới thiệu đến bạn đọc bài viết của Đoan Trang trên báo Pháp luật thành phố HCM ngày 14-3-2010, đúng ngày kỷ niệm Trận chiến Trường Sa năm 1988. Bài viết cấp cho ta nhiều sự kiện đầy ý nghĩa: một chứng nhân là người lính còn sống sót, một tờ báo chuyên về pháp luật nhưng lại biết chăm lo nâng cao nhận thức và tình cảm yêu nước cho dân, và một cô nhà báo đeo đuổi sự nghiệp báo chí cách mạng bất kể mọi khó khăn do chính những ai đấy từng chạm vào cuộc sống tự do của mình.
Bauxite Việt Nam
Anh là Nguyễn Duy Dương, một người lính hải quân đã may mắn sống sót và trở về an toàn trong trận chiến bảo vệ Trường Sa năm 1988.
Xoa đầu cậu con trai đang xúng xính trong bộ đồng phục học sinh xanh trắng chuẩn bị đến trường, anh cười nheo mắt: “Sắp tới sinh nhật nó rồi đây. Thằng cu này sinh đúng ngày 14 tháng 3 năm 1998, tròn 10 năm ngày bố nó thoát chết ở Trường Sa. Ai cũng bảo tôi khéo chọn ngày sinh cháu”.
“Lính trẻ, già đều trọc tếu”
Đến bây giờ đã 22 năm trôi qua, anh Dương vẫn không nguôi nỗi nhớ về những ngày tháng tuổi trẻ của mình trên những hòn đảo nơi đầu sóng ngọn gió của tổ quốc. Sinh năm 1964, đi bộ đội khi 18 tuổi, tới năm 1985 anh trở thành đội phó Đội Kiểm soát Bộ Tư lệnh vùng 4 ở Cam Ranh. Đầu năm 1987, đúng dịp tết Đinh Mão, anh nhận lệnh vào đoàn quân đi tăng cường cho Trường Sa. Và anh đã ở đó gần hai năm trời trong cái giai đoạn được xem là khó khăn, vất vả nhất cho các chiến sĩ Trường Sa kể từ ngày giải phóng (năm 1975) đến nay.
Anh Dương cũng như nhiều đồng đội của anh sau này đều cho rằng lính Trường Sa thời nào mà chẳng gian lao nhưng càng về sau này càng đỡ cực khổ hơn. Hồi ấy, hải quân ta có ít tàu, một năm chỉ vài ba chuyến tàu ra đảo tiếp tế. Theo Đại tá Đỗ Đình Đề, nguyên Cụm trưởng Cụm 2 đảo Nam Yết, người từng ở Trường Sa từ năm 1996 tới năm 2002 thì: “Trong năm, chỉ giai đoạn từ tháng 2 đến tháng 5 là có thể đi tàu ra, lúc ấy biển cứ gọi là trong vắt như bát nước, nhìn thấu cả đáy. Chỉ từ tháng 6 trở đi là bắt đầu có gió Tây Nam, rồi sang đông là gió Đông Bắc, rồi biển động. Cho nên lính mong ngóng tin đất liền, thấy tàu ra đảo thì mừng rỡ như mẹ đi chợ về, lúc tàu rời đảo về đất liền thì khóc lóc bịn rịn lắm”.
Đi lại khó khăn như thế cho nên người lính Trường Sa thiếu thốn mọi bề mà khổ sở nhất là thiếu nước ngọt, rau xanh. Anh Dương nhớ lại nước ngọt ở đảo thiếu triền miên, mỗi ngày chỉ được dùng tối đa năm lít cho mọi sinh hoạt. Anh em đành phải rửa mặt, tắm bằng nước biển, sang lắm mới tráng lại bằng nước ngọt. Lúc đầu chưa quen, ai nấy nóng rát cả lưng, tóc tai cứng quèo rất khó chịu. Từ chuyện ấy dẫn đến tình trạng “sư cọ mốc” mà nhà thơ Trần Đăng Khoa đã tả lại: “Nước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tóc. Lính trẻ, lính già đều trọc tếu như nhau”. Thiếu nước ngọt thật sự là tình trạng khủng khiếp đối với lính đảo những năm ấy. Mấy tháng tàu mới chở nước ra một lần, bơm thẳng nước từ khoang vào xuồng nhôm rồi anh em đẩy xuồng về lại đảo. Lần nào trước khi ra “đón nước” như thế anh em cũng phải tắm trước cho sạch. Nước mang về đảo được đổ vào những chiếc thùng phuy lớn để dự trữ. Phuy bị nhiễm bẩn, nước đục ngầu, đánh phèn tới bảy, tám lần vẫn không hết bẩn thì cũng phải cố mà dùng. Gạo trữ lâu sinh mốc, hỏng. Thiếu rau quá, người ai cũng bị phù, sưng lên nhưng ấn vào da thịt thì lại lõm cả xuống…
Khí hậu Trường Sa vô cùng khắc nghiệt, nắng nóng cháy da quanh năm suốt tháng. Đây lại là nơi rốn bão, thường xuyên phải hứng chịu bão biển. Đại tá Đỗ Đình Đề bảo: “Nói đến Trường Sa là nói đến bão tố phong ba, đến nắng nóng thiêu đốt, đến san hô nhọn hoắt đâm chảy máu chân, đến thiếu rau xanh, nước ngọt…”.
“Bây giờ mình xem tivi, thấy anh em ngoài đó “đủ tóc” rồi, không còn phải cạo trọc nữa” – anh Nguyễn Duy Dương cười, nói. Anh hiện là phó Ban Liên lạc bộ đội Trường Sa tỉnh Nam Định. Tất cả người lính từng phục vụ ở Trường Sa bao năm qua đều coi nhau là đồng đội và họ cũng dành tình cảm thân thiết quý mến đó cho cả những chiến sĩ trẻ không quen biết đang đóng quân ở Trường Sa ngày nay. “Bây giờ ở ngoài đó lính đỡ cực khổ hơn, không còn quá thiếu thốn. Trồng được rau xanh rồi (đất thịt, chở từ đất liền ra). Có hầm dự trữ nước rồi. Điện thoại di động phủ sóng tới tận đó, có thể gọi vào bờ được. Nhưng mình vẫn thương các em ấy chứ, tất nhiên, đồng đội mà!”.
Nhớ biển
Nửa cuối năm 1987, tình hình ngoài khơi trở nên căng thẳng. Tháng 3-1988, ta quyết định đưa quân ra đảo Cô Lin, Gạc Ma. Và một trận đánh không cân sức đã diễn ra…
Trong trận chiến bảo vệ chủ quyền Trường Sa năm 1988 ấy, Nguyễn Duy Dương may mắn chỉ bị thương nhẹ.
Đã là lính hải quân nơi đầu sóng thì không thể sợ chết. Vết thương bình phục, anh tiếp tục ở lại Trường Sa, bảo vệ mảnh đất thiêng của Tổ quốc, đồng cam cộng khổ cùng những chiến sĩ hải quân khác. Tới tháng 7-1989 anh mới ra quân, làm đủ nghề, từ hàng xay hàng xáo tới đổ kẹo, buôn đế dép, vừa đi làm vừa ôn thi vào Đại học Sư phạm ngành ngữ văn. Năm 1994, anh tốt nghiệp và trở thành một thầy giáo dạy văn ở Nam Định.
Đến giờ vết sẹo vẫn còn trên đầu người thầy giáo dạy văn của Trường THPT Ngô Quyền, cựu binh ở Trường Sa. Sẹo không gây đau đớn, chỉ có những tình cảm của anh đối với những hòn đảo đá khắc nghiệt năm xưa thì cứ thỉnh thoảng lại bùng lên. Anh dồn nó vào những trang viết: Trường Sa – mùa này biển động, Nhớ lắm Trường Sa ơi!, Ký ức Trường Sa…
Anh Dương thổ lộ: “Anh em chúng tôi mong bằng cách nào đó, ta phát triển tiềm lực quân sự chứ chiều dài đất nước hơn 3.200 km bờ biển mà lực lượng mỏng, trang thiết bị cũ kỹ thì nếu chẳng may có sự cố gì sẽ ứng phó rất chậm”.
Giờ đây, cùng với những người lính Trường Sa cũ, anh Dương vẫn theo dõi tình hình Trường Sa hiện nay qua báo đài, tivi và qua những đồng đội đóng ở Cam Ranh hay đang trên đảo. Các anh đều bảo nhớ lắm, nhớ da diết, bồi hồi những ngày tháng Trường Sa năm xưa. Nhớ mùa gió chướng. Nhớ khi biển động “bọt tung trắng bờ”. Nhớ những ngày biển lặng, mặt nước phẳng trong như gương. Nhớ vô vàn kỷ niệm với đồng đội thân thương: trực chiến, tập luyện, đi đâm cá, chơi thể thao, đọc thư nhà, sinh hoạt văn nghệ và chiến đấu. Nhớ những gương mặt đồng đội đến từ mọi miền đất nước, các anh vẫn hay đùa có khi lên tới 19 tỉnh, thành trên một hòn đảo. Ai cũng gắn bó, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau.
Và người thầy giáo dạy văn đã viết một câu rất hình ảnh, rất nên thơ rằng: “Có con sóng nào cứ dập dềnh dâng trong mắt tôi”.
Đón đọc ngày mai:
Những ca khúc nâng tình yêu biển, đảo
Những ca khúc ấy vun đắp thêm tình yêu đất nước. Mỗi khi nghe lời hát, hai từ “chủ quyền” không chỉ là khái niệm pháp lý mà trở nên có linh hồn, trở thành tình cảm sâu nặng, mãnh liệt trong lòng mỗi người dân.
ĐT
Nguồn: http://phapluattp.vn/20100313100456492p0c1013/truong-sa-trong-tim-nguoi-linh-nam-xua.htm