Kỳ 1
Phẩm giá con người là bất biến, tất cả các cơ quan công quyền phải tôn trọng và bảo vệ quyền cơ bản này. Nhân dân Đức công nhận mọi người đều có các quyền bất khả xâm phạm và bất khả nhượng vì đó là nền tảng của xã hội, góp phần duy trì hòa bình và công lý trên thế giới.
(Điều 1, Luật cơ bản Đức, ngày 23 tháng 5 năm 1949)
Quyền con người là quyền tự nhiên gắn liền với mỗi người từ khi sinh ra đến khi chết. Quyền con người có giá trị cao hơn các nguyên tắc tổ chức Nhà nước và tồn tại trước khi Nhà nước xuất hiện. Vì vậy Nhà nước cần tôn trọng con người bằng cách đảm bảo tốt nhất các quyền cơ bản như quyền được sống, quyền được tôn trọng về nhân phẩm, danh dự, quyền tự do ngôn luận, quyền sở hữu… Quyền con người được Hiến pháp và luật pháp bảo vệ. Các văn bản quan trọng về quyền con người như Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1774, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền Pháp năm 1789, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948, Công ước bảo vệ quyền con người của Hội đồng Châu Âu năm 1950 đều khẳng định tôn trọng nhân quyền là trách nhiệm của tất cả các nước thành viên.
Các quyền cơ bản để chỉ các quyền quan trọng nhất mà Nhà nước đặc biệt quan tâm, Nhà nước không thể đưa ra các lý do để vi phạm các quyền đó, trừ khi giới hạn các quyền cơ bản được quy định trong một hoàn cảnh cụ thể với mục đích bảo vệ tốt hơn các quyền đó. Các quyền cơ bản được các văn bản luật ở Đức công nhận từ khá sớm. Hiến pháp Weimar, Hiến pháp của Giáo hội Saint-Paul năm 1848 ở Đức đã công nhận các quyền cơ bản của con người. Văn bản này cũng dự báo cần có một tòa án đặc biệt để bảo vệ quyền con người được Hiến pháp công nhận. Khái niệm “các quyền cơ bản” là một sáng tạo của người Đức.
Trong thế kỷ XX, nước Đức phát động hai cuộc chiến tranh thế giới, khiến hơn 60 triệu người chết. Các quyền cơ bản của con người đều bị vi phạm. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, nhiệm vụ bảo vệ quyền con người trở thành điều kiện tiên quyết ở Đức. Luật cơ bản Đức được biên soạn dưới sự giám sát của các nước đồng minh, được Nghị viện thông qua ngày 23 tháng 5 năm 1949, đã trở thành văn bản quan trọng thể hiện sự quyết tâm của người Đức trong việc bảo vệ các quyền cơ bản. Luật cơ bản Đức lúc đầu chỉ được áp dụng cho Cộng Hòa liên bang Đức, sau khi đất nước thống nhất, bản Hiến pháp dân chủ này được áp dụng cho 5 vùng của Cộng hòa dân chủ Đức. Kể từ khi kết thúc chiến tranh, với chặng đường xây dựng đất nước và thiết lập nền dân chủ nghị viện từ 64 năm qua, luật cơ bản Đức đã đóng góp tích cực vào sự nghiệp bảo vệ quyền con người và xây dựng Nhà nước pháp quyền. Bản Hiến pháp này có ảnh hưởng rộng khắp Châu Âu. Các nước Đông Âu và Trung Âu đã lựa chọn thể chế chính trị của Pháp và Đức (7 nước Đông Âu đã lựa chọn mô hình chính trị của nước Đức), các quốc gia này cũng dựa theo Luật cơ bản Đức để biên soạn các bản Hiến pháp dân chủ.
Từ đống hoang tàn đổ nát do chiến tranh gây ra, người Đức đã xây dựng lại đất nước giàu đẹp văn minh. Nước Đức trở thành nền kinh tế hùng mạnh nhất Châu Âu và đứng thứ 4 thế giới, từ những đau thương của chiến tranh, người Đức thấu hiểu hơn các giá trị quý giá về nhân quyền, vì vậy, nước Đức đi tiên phong trong việc bảo vệ và đề cao quyền con người, bằng những cố gắng trong việc bảo vệ các quyền tự do dân chủ, nước Đức thường xuyên được bầu vào Hội đồng nhân quyền của Liên hiệp Quốc. Tất cả những cố gắng đó đã khiến nước Đức trở thành một nước lớn, có nhiều ảnh hưởng ở Châu Âu và trên thế giới.
Nước Đức là quê hương của nhiều nhà tư tưởng lớn, nhiều trường phái triết học, nhưng cỗ máy chiến tranh hủy diệt cũng được khởi động từ đây. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan đã được truyền bá và hoàn thiện qua nhiều thế kỷ, đây chính là nguyên nhân gây ra chiến tranh. François Mitterand đã từng nhận xét: “Chủ nghĩa dân tộc là chiến tranh” (le nationalisme, c’est la guerre). Hitler chính là người biến những tư tưởng đó thành hiện thực.
Bài viết này sẽ đề cập đến nguồn gốc hình thành chủ nghĩa dân tộc cực đoan ở Đức và sự nghiệp bảo về quyền con người. (I) Những bài học đắt giá của dân tộc Đức đã khiến nước này quan tâm đặc biệt đến quyền con người (II).
I. Từ những bài học đắt giá đến nỗ lực bảo vệ quyền con người
Chủ nghĩa dân tộc là động lực giúp nước Đức tiến đến thống nhất thành một quốc gia lớn mạnh trong thế kỷ XIX, nhưng khi tinh thần dân tộc được đưa lên vị trí độc tôn và bị biến thái theo hướng cực đoan, các giá trị đạo đức và và các giá trị về nhân quyền sẽ bị coi thường (A). Nước Đức quốc xã muốn lập ra một đế chế cho dân tộc Đức, Nhà nước này phá hủy nền dân chủ và triệt tiêu quyền con người (B).
A. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan tiêu diệt các giá trị đạo đức và quyền con người
Hitler viết trong tác phẩm tự chuyện của mình, Mein Kampf, Cuộc đấu tranh của tôi: “Tất cả các sự kiện lịch sử đều phản ánh bản năng bảo tồn của chủng tộc, theo nghĩa tốt và nghĩa xấu, vấn đề chủng tộc là chủ đề cốt lõi của lịch sử”. Hitler và các nhà lãnh đạo Đức quốc xã không phải là những người khởi xướng tinh thần dân tộc cực đoan ở Đức, họ là những người thực hiện tư tưởng đó.
Những biểu hiện đầu tiên về tinh thần dân tộc phản ánh ý chí thống nhất và đoàn kết của các tộc người Germain đã xuất hiện từ năm 1000, các tộc người này có ý thức tập hợp lại, để chống lại sự xâm lấn của các nhóm dân tộc khác. Họ mong muốn bảo tồn ngôn ngữ thuần túy, không bị pha lẫn với các nhóm ngôn ngữ khác.
Vào thế kỷ XV, đã xuất hiện quan điểm cho rằng, người Đức là những những chiến binh đặc biệt, họ không phải là những người man rợ, các dân tộc Germain đang bị các nhóm người La Mã lấn át. Tư tưởng thống nhất các tộc người Germain để xây dựng một quốc gia rộng lớn đã xuất hiện vào giữa thế kỷ XV. Luther là người truyền bá tư tưởng này (le pangermanisme), ông mơ ước về một nước Đức thống nhất, dân tộc Đức có một vị thế cao hơn các dân tộc khác, vì những người Đức có đức tin thực sự, tổ tiên của họ là những người theo đạo Thiên chúa thuần túy. Chính những người La Mã mới là những người có đức tin sai lệch. Tư tưởng dân tộc cực đoan đã có mầm mống ngay từ thời phong kiến.
Thế kỷ XVI và XVII, văn hóa Pháp có ảnh hưởng lớn ở Châu Âu, các tầng lớp ưu tú trong xã hội đều sử dụng tiếng pháp. Ở Đức khi đó nhiều nhà trí thức cổ vũ phong trào tìm về bản sắc văn hóa của nước Đức. Các nhà trí thức cho rằng tâm hồn và trí tuệ của người Đức được lưu giữ ở vùng quê, cần phải giữ gìn bản sắc văn hóa và tâm hồn của dân tộc để chống lại sự lấn át về văn hóa và ngôn ngữ của người Pháp.
Tinh thần dân tộc và ước mơ thống nhất đất nước được khơi dậy nhiều hơn vào đầu thế kỷ XIX, trong thời kỳ chiếm đóng nước Đức của quân đội Pháp, dưới sự chỉ huy của Napoléon. Các trí thức theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan như Fichte, Hegel, Schelling, Engels, Feverbachs cho rằng việc tồn tại các tộc người thượng đẳng, có trí tuệ thông minh hơn các tộc người khác là một thực tế khó phủ nhận. Engels nhận xét người da đen không thể học toán được, năm 1849, ông kêu gọi cần phải loại bỏ một số tộc người Serbia, Breton, Scotland, Basque. Karl Marx tự hỏi làm thế nào để loại bỏ được các tộc người hấp hối (les peuplades moribondes), Karl Marx trong tác phẩm Vấn đề Do Thái gắn chủ nghĩa tư bản với người Do Thái. Fichte khẳng định chủng tộc Aryen là thượng đẳng, dân tộc này phải thuần chủng và không được pha tạp với các chủng tộc khác, các cộng đồng người thuộc nhóm dân tộc này cần tập hợp lại để lập ra một quốc gia rộng lớn, và cần có một nền giáo dục đặc biệt. Bá tước người Pháp Gobineau viết cuốn sách Bàn về vấn đề bất bình đẳng của các chủng tộc, Essai sur l’inégalité des Races humaines. Gobineau kết luận giai cấp quý tộc Pháp vốn thuộc chủng tộc Aryen, chủng tộc này cần được tách biệt với các tộc người khác và tránh lai tạp. Người Đức tiếp thu ý tưởng của Gobineau, quan điểm phản động của Fichte và Gobineau được truyền bá rộng rãi ở Đức. Việc tòa án kết tội Alfred Dreyfus ở Pháp cũng phản ánh phần nào tư tưởng bài Do Thái vì Alfred Dreyfus là người Do Thái và bị coi là có tội.
Các ngành khoa học như sinh học, nhân chủng học đều được sử dụng để tuyên truyền tinh thần dân tộc cực đoan. Chủng tộc Aryen có não bộ lớn hơn các chủng tộc khác, họ có vị trí cao hơn những người Do Thái và họ có vai trò thực thi sứ mệnh đặc biệt. Otto Weiningen ý thức về thân phận thấp kém của người Do Thái và đã tự tử. Việc Jésus là người Do Thái đã khiến nhiều người từ bỏ đạo Thiên chúa. Khi tinh thần dân tộc cực đoan và mù quáng lên ngôi, sẽ không còn bình đẳng giữa các nhóm người trong xã hội, các quyền tự do chỉ còn được đảm bảo cho một số người.
Các nhà địa chính trị Đức như Friedrich Ratzel và Karl Haushofer phát triển lý thuyết bành trướng và mở rộng nước Đức. Nước Đức cần có các thuộc địa rộng lớn và cần sở hữu không gian sống còn để dân tộc Đức có thể sống và phát triển thịnh vượng lâu dài, vì diện tích nước Đức quá nhỏ hẹp, không đáp ứng được những nhu cầu trong tương lai. Không gian sống còn ở đây chính là nước Nga rộng lớn, điều này khẳng định nguyên nhân Hitler quyết định mở mặt trận phía Đông, chiếm lấy không gian sống còn trong kế hoạch quân sự Barbarossa.
Như vậy tư tưởng phân biệt chủng tộc không phải bắt nguồn từ thời kỳ Đức quốc xã, tư tưởng này đã tồn tại từ lâu và được tiếp tay bởi các trí thức lớn. Hitler và các cộng sự là những người biến lý thuyết cực đoan đó thành hiện thực. Chính Hitler cũng khẳng định điều này trong tác phẩm Hitler đã nói với tôi, Hitler m’a dit, của Rausning (một cựu quan chức cao cấp của Đức quốc xã, đã từ bỏ chế độ độc tài và trốn sang Pháp sau đó là Anh). Hitler đã tiếp thu tất cả các tư tưởng đó và đã áp dụng trong một hoàn cảnh thuận lợi: Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nước Đức thua trận và phải gánh chịu các khoản bồi thường chiến tranh khổng lồ. Các điều khoản của Hiệp nghị Versaille là cơn ác mộng đối với người Đức, cảm giác thất vọng và xấu hổ của nhiều người Đức vì thua trận tạo cơ hội cho chủ nghĩa dân tộc cực đoan nảy nở. Người Đức muốn đòi lại sự công bằng và danh dự. Là người theo chủ nghĩa dân tộc Hitler hiểu rõ điều đó.
B. Nhà nước Đức quốc xã phá hủy nền dân chủ và triệt tiêu quyền con người
Hitler tham gia chính trị trong bối cảnh nước Đức gặp nhiều khó khăn, do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929. Người Đức cảm thấy thất vọng vì thất nghiệp và lạm phát phi mã, nước Đức phải bồi thường cho phe thắng trận các khoản chi phí lớn, nhiều trí thức lớn như Max Weber tỏ ra rất bất bình về các điều khoản của phe thắng trận cáo buộc cho nước Đức.
Hitler khi đó tham gia đảng cực hữu của những người công nhân Đức, lúc đầu chỉ có 25 thành viên, Hitler trở thành người điều hành chính, đảng này sau đó đổi tên thành đảng Quốc xã đại diện cho những người lao động. Năm 1928, đảng này giành được 800.000 phiếu ủng hộ, năm 1930, đảng cực hữu có 6,5 triệu thành viên; năm 1932, đảng của Hitler giành được 13,7 triệu phiếu ủng hộ. Hindenburg mời Hitler tham gia chính quyền. Hilter mong muốn trở thành quốc trưởng. Một cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức năm 1933, Hitler thu được 89% số phiếu tín nhiệm và trở thành quốc trưởng theo thể thức bầu cử dân chủ hợp pháp. Hiến pháp Weimar khi đó là bản Hiến pháp dân chủ và tiến bộ. Tuy nhiên dưới thời Nhà nước III Reich, nước Đức trở thành một trại lính, một xưởng sản xuất vũ khí và một nhà tù khổng lồ.
Tư tưởng về một nước Đức thống nhất nơi tập hợp của chủng tộc Aryen thượng đẳng được truyền bá rộng rãi, quan điểm bài Do Thái của các trí thức được Hitler áp dụng triệt để. Hitler không hề giấu giếm sự thù ghét của mình với người Do Thái. Sự tôn thờ chủ nghĩa dân tộc cực đoan dẫn đến thái độ phân biệt chủng tộc của người đứng đầu đảng cực hữu nazi được miêu tả khá tỉ mỉ trong Mein Kampf. Hitler nhận xét người Do Thái là dân tộc sống ăn bám các dân tộc khác. Hitler giải tán các đảng phái cánh tả, cấm các hoạt động công đoàn, tự do ngôn luận, tự do hội họp và lập hội được Hiến pháp công nhận đều bị vi phạm. Hitler thành lập lực lượng cảnh sát Gestapo với nhiệm vụ truy lùng những người có quan điểm chống đối. Người Đức Do Thái bị cấm tham gia vào bộ máy công quyền, họ không được kết hôn với những người Đức thuộc chủng tộc Aryen để ngăn chặn chủng tộc này khỏi bị pha trộn. Người Do Thái bị phân biệt đối xử, họ phải đeo một ngôi sao vàng trên ngực để dễ phân biệt với những người khác. Tự do đi lại của người Do Thái bị hạn chế tối đa.
Giấy chứng nhận không thuộc chủng tộc Do Thái, bên trái có đánh dấu xanh với dòng chữ “rất quan trọng, xem ở mặt sau”
Một vụ bắt giữ tại Varsava, Ba Lan, năm 1943, 90 % người Do Thái ở Ba Lan bị tàn sát. Cậu bé giơ tay trong bức ảnh này cũng giống như 800.000 người khác bị lưu đầy và bị chết ngạt trong trại tập trung Treblinka, Ba Lan.
Bức ảnh có dòng chữ “khu vui chơi dành cho trẻ em, cấm người Do Thái”
Một số nhà trí thức tên tuổi, có nhiều ảnh hưởng đối với nền chính trị của Đức quốc xã cũng trở thành nạn nhân của chính sách phân biệt chủng tộc. Ví dụ trường hợp của Karl Haushofer, giáo sư địa chính trị nổi tiếng, ông đã từng gặp Hitler 10 lần, quan điểm địa chính trị của ông được Hitler tiếp thu và đã được trình bày có hệ thống trong Mein Kampf, Cuộc đấu tranh của tôi nhưng chính gia đình ông lại là nạn nhân của chế độ độc tài Đức quốc xã vì vợ ông là người Do Thái, con trai ông bị Gestapo ám sát, chính ông đã có thời gian bị giam ở trại tập trung Dachau.
Không khí khủng bố bao trùm khắp nước Đức, người dân Đức như bị thôi miên với chính sách tuyên truyền bài bản của Joseph Goebbels, cộng sự đắc lực của Hitler. Dân tộc này đã sinh ra những nhà triết học uyên bác, những nhà khoa học làm thay đổi thế giới, nhưng vào thời điểm đó, người Đức không còn lý trí nữa.
Nhà triết học Hannah Arendt, một người Đức Do Thái đã giải thích nguyên nhân vì sao nhiều người Đức lại bị lôi cuốn vào các phong trào cực đoan của đảng nazi, và ủng hộ Hitler. Trong tác phẩm Nguồn gốc của chế độ độc tài, les origines du totalitarisme, bà cho rằng tư tưởng phân biệt chủng tộc và tình trạng quan liêu tập trung sinh ra chế độ độc tài. Thể chế này một quá trình vận động không ngừng, với một bộ máy tuyên truyền khổng lồ, khiến con người sống xa rời thực tế và mất đi khả năng phân tích đúng sai. Con người sống theo một lý tưởng và có những tham vọng thống trị. Chế độ độc tài thống trị mọi mặt cả về suy nghĩ của con người, họ bị áp đặt không có giới hạn bởi một hệ tư tưởng. Sau chiến tranh, nhiều người Đức cũng không hiểu vì sao họ lại ủng hộ các chính sách nguy hại của phe cực hữu, mà người đứng đầu là Hitler.
Le III Reich ban hành các đạo luật phân biệt chủng tộc, triệt tiêu dân chủ và các quyền cơ bản của con người. Các lãnh đạo Đức quốc xã tiêu diệt người Do Thái, người Tsigane, người Rom, người đồng tính và người tàn tật. Các phòng ga được xây dựng bí mật trong các trại tập trung. Một số trung tâm nghiên cứu về nhân bản con người sử dụng các nạn nhân để làm thí nghiệm. Các đoàn tàu dồn dập chở người từ khắp các nước Châu Âu đến các trại tập trung. Người lính Đức ưu tiên các đoàn tàu chở tù nhân được xuất hành trước các tàu chở khí tài quân sự. Trước khi quân đồng minh tiến vào nước Đức, những đoàn tàu cuối cùng vẫn tiếp tục chuyển người đến các trại tập trung. Số lượng người sống sót không quá 10% do thiếu ăn và dịch bệnh. Khi những người lính đồng minh giải phóng các trại tập trung họ khám phá các cảnh tượng kinh hoàng ở Dachau, Auschwitz-Birkenau, Bergen-Belsen, Mauthaussau… Một số lính Mỹ đã đến các làng xung quanh, yêu cầu người dân Đức đến xem, khi nhìn thấy cảnh tượng đó, một số quan chức địa phương đã tự tử.
Các tù nhân chiến tranh cũng bị đối xử thậm tệ, họ chỉ được phát khẩu phần ăn ít ỏi, gần 2 triệu tù binh Liên Xô bị chết, những người lính Liên Xô thề trả thù, nhiều vụ hãm hiếp tập thể đã diễn ra. Quyền được sống, quyền được tôn trọng nhân phẩm không có giá trị gì trong chiến tranh. Nước Đức trải qua một giai đoạn đau thương nhất, đau thương vì người đứng đầu đất nước là một người Áo bị khủng hoảng về tâm lý và theo thuyết phân biệt chủng tộc của các trí thức cực đoan, Hitler đã dẫn dắt người dân Đức vào một cuộc chiến tranh hủy diệt. Nước Đức là thủ phạm chính gây ra chiến tranh thế giới thứ 2 làm 50 triệu người chết (gần 6 triệu người Do Thái chết trong các trại tập trung trong đó có 1,5 triệu trẻ em dưới 15 tuổi). Những người sống sót bị ám ảnh bởi ký ức chiến tranh trong nhiều năm.
Từ những bài học đau thương trong quá khứ, người Đức bắt tay làm lại từ đầu, họ đặc biệt quan tâm đến quyền con người và có quy chế bảo vệ chặt chẽ. Tôn trọng quyền con người để xóa đi những nỗi đau. Xây dựng nền dân chủ và Nhà nước pháp quyền để phát huy trí tuệ của con người trong sự nghiệp kiến thiết lại đất nước từ đống đổ nát, người Đức đã đạt được nhiều thành tích về nhân quyền và trở thành tấm gương cho nhiều nước dân chủ mới ở Đông Âu.
(Còn tiếp)
P.T.Đ.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN