Giới thiệu “Việt Nam trong thế giới của thập kỷ thứ hai thế kỷ XXI” của Nguyễn Trung

Trên tạp chí Thời đại mới số tháng 3 năm 2010, học giả Nguyễn Trung vừa công bố bài viết Việt Nam trong thế giới của thập kỷ thứ hai thế kỷ XXI. Bài viết là một kiến giải mới của tác giả về con đường tất yếu của Việt Nam trên chặng đường mười năm tới. So với Thời cơ vàng viết cách nay 4 năm, nhiều nhận định của tác giả có sự thay đổi căn bản, do tình hình Việt Nam và thế giới lúc này đã biến chuyển khác trước nhiều. Chỉ xin dẫn chứng một thí dụ, đoạn tác giả nói về vấn đề “diễn biến hòa bình” mà hầu như bất kỳ người đương chức đương quyền nào của Đảng và Nhà nước đến nay vẫn phát ngôn chính thức rằng đó là mối đe dọa hàng đầu của các lực lượng thù địch (hiểu ngầm là Âu Mỹ) đối với nước ta: “Nếu các cường quốc phương Tây lúc này có quốc sách lật đổ hay diễn biến hòa bình để hạ gục nước ta, tại sao một số nước trong các nước phương Tây lại đồng ý nâng quan hệ hợp tác với nước ta lên tầm đối tác chiến lược? Các nước phát triển từ hàng chục năm nay liên tục dành cho nước ta những khoản viện trợ ODA không nhỏ, nguồn vốn tài trợ này góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội nước ta. Hàng năm Chính phủ ta tiếp tục vận động các nước duy trì nguồn tài trợ này.  Hội nghị các nước tài trợ ODA tháng 12-2009 đã quyết định viện trợ ODA cho Việt Nam 8 tỷ USD, mức cao nhất từ trước đến nay – trong lúc bản thân những nước này chưa ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay. Tại hội nghị này các nước nhấn mạnh: muốn phía Việt Nam xử nghiêm khắc vụ Huỳnh Ngọc Sỹ và đẩy mạnh chống tham nhũng nói chung, đình chỉ một số vụ việc mất dân chủ và nhân quyền… Giữa lúc nước ta đang nỗ lực khắc phục khủng hoảng kinh tế, sự giúp đỡ này càng có ý nghĩa. Có thể coi những đòi hỏi này của các nước viện trợ là diễn biến hòa bình chống đối hay lật đổ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam?  Còn chủ trương của trong nước dùng vấn đề “diễn biến hòa bình” để giải quyết những vấn đề trong nội bộ nước ta lại là câu chuyện hoàn toàn khác.

Sự thực có một thứ diễn biến hòa bình khác nhất thiết phải vô hiệu hóa, đó là sự câu kết giữa tham nhũng, tha hóa ở trong nước và bàn tay can thiệp của quyền lực mềm từ bên ngoài. Song cho đến nay chưa được đặt ra yêu cầu chống sự diễn biến nguy hiểm này. Những dự án kinh tế lớn công nghệ lạc hậu có vốn đầu tư nước ngoài được hình thành thông qua những quá trình đấu thầu méo mó, tình trạng buôn lậu, xuất khẩu lậu những khối lượng hàng hóa lớn và nhiều sự việc nghiêm trọng khác đã xảy ra… đòi hỏi phải ngăn ngừa sự lũng đoạn nguy hiểm này”.

Đại loại, ý kiến của người viết đặt ra nhiều vấn đề có sức lay động nhận thức của mỗi chúng ta là như vậy.

Tuy nhiên, bản luận văn của học giả Nguyễn Trung lại có đặc điểm là  rất dài, có lẽ muốn giải quyết hết mọi vấn đề, nhằm phục vụ giới nghiên cứu lý thuyết chính trị học là chính, trong khi mục tiêu của BVN lại nhắm nhiều vào đại chúng và muốn kết hợp lý thuyết với thực tiễn một cách thật sáng, gọn. Vì vậy, chúng tôi đã nhờ TS Nguyễn Quang A viết cho một bài giới thiệu bản luận văn đó để những bạn đọc không có thì giờ đọc hết, vẫn có thể nắm được những điều cốt tủy.

Dưới đây, xin trân trọng giới thiệu bài viết của TS Nguyễn Quang A cùng với 2 chương III và IV trích từ nguyên văn bài Nguyễn Trung. Nếu những ai muốn đọc toàn bài cũng rất dễ dàng, xin cứ bấm vào đường link ở dưới cùng, đã được chuyển đổi sang dạng pdf.

Bauxite Việt Nam

TS Nguyễn Quang A

Ngày 9-1-2006, 100 ngày trước ngày khai mạc đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam, ViệtNamnet rồi sau đó Tuổi trẻ bắt đầu đăng loạt bài “Thời cơ vàng” vang dội của Nguyễn Trung, thành viên Tổ nghiên cứu kinh tế đối ngoại của Thủ tướng (Phan Văn Khải), nguyên Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan, Australia, nguyên trợ lý của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Loạt bài của ông đã nhận được gần 1.000 ý kiến phản hồi của bạn đọc. Người ta gọi ông là ông “thời cơ vàng” một cách kính trọng.

Theo ông, sở dĩ là thời cơ vàng bởi vì:

Lần đầu tiên trong hai thế kỷ nay Việt Nam bây giờ không có kẻ thù chiến lược.

“Lần đầu tiên trong hai thế kỷ nay Việt Nam được công nhận đầy đủ và có quan hệ chính thức với tất cả các cường quốc, với hầu hết quốc gia khác còn lại trên thế giới, Việt Nam đã thật sự trở thành thành viên có vị thế nhất định trong cộng đồng quốc tế.

“Lần đầu tiên trong hai thế kỷ nay Việt Nam trở thành một quốc gia xuất khẩu và trên thực tế là đã có quan hệ kinh tế, thương mại với hầu hết các quốc gia trên thế giới.

“Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam chúng ta có tất cả các cường quốc trên thế giới là đối tác kinh tế quan trọng, là thị trường quan trọng của nước mình! Trên hết cả, lần đầu tiên trong lịch sử của mình, Việt Nam là đối tác với tất cả các cường quốc trên thế giới, đang có khả năng ngày một mở rộng sự hợp tác của mình với tất cả các cường quốc và mọi đối tác khác trên thế giới!…

“Lần đầu tiên trong lịch sử của mình Việt Nam có khả năng thực hiện được ước vọng là giương cao ngọn cờ hữu nghị và hợp tác, vì hòa bình và phát triển của mọi quốc gia trong cộng đồng thế giới.”

Tuy nhiên, ông nhấn mạnh “thời cơ vàng, thời gian vàng sẽ là vô nghĩa, nếu như chúng ta không tự tạo ra được những yếu tố bên trong tốt nhất để nắm bắt lấy”. Theo ông, kẻ thù nguy hiểm nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam là “sự hẫng hụt về trí tuệ và phẩm chất so với đòi hỏi của sứ mệnh Đảng lãnh đạo trong nhiệm vụ dẫn dắt dân tộc ta tiến bước thành công trên con đường chấn hưng đất nước!”. Ông phân tích tình hình thế giới, tình hình 20 năm đổi mới và đưa ra những gợi ý về những việc phải làm, nhất là đối với Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông đặt câu hỏi “Đảng Cộng sản Việt Nam có vượt qua được cái bóng của mình không?” Có nắm lấy thời cơ vàng để chấn hưng đất nước không? Hay để thời cơ vàng biến thành hiểm hoạ đen?

Hơn 5 năm sau, tháng 3-2010, trước Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam gần một năm, không còn làm thành viên của bất kể tổ chức nào nữa (Tổ nghiên cứu kinh tế đối ngoại của Thủ tướng bị giải thể sau thời cơ vàng 9 tháng cùng với Ban nghiên cứu của Thủ tướng, rồi Viện IDS mà ông là thành viên cũng tự giải thể 6 tháng trước đây) ông cho công bố bài viết “Việt Nam trong thế giới của thập kỷ thứ hai thế kỷ XXI” mà ông đã viết từ cuối 2009.

Vẫn đau đáu với vận mệnh dân tộc, đầy nhiệt huyết với công cuộc chấn hưng đất nước như khi viết thời cơ vàng, ông nêu 3 đặc điểm mà Việt Nam phải đối mặt trong thập niên này: thế giới tìm cách ra khỏi khủng hoảng, chuyển sang thời kỳ phát triển mới; sự trỗi dậy của Trung Quốc trên con đường trở thành siêu cường tạo ra những thách thức mới; Việt Nam phải thích nghi với sự thay đổi trong khu vực và thế giới và phải chuyển sang giai đoạn phát triển mới cao hơn.

Ông phân tích kỹ những nét mới trong bối cảnh quốc tế ảnh hưởng mạnh đến Việt Nam mà nét chủ yếu là sự tái cấu trúc quyền lực trên thế giới với sự yếu đi tương đối của Mỹ và Tây Âu, và sự trỗi dậy, mạnh lên tương đối của Trung Quốc, Ấn Độ.

Trên cơ sở đó ông nêu ra một số vấn đề đối ngoại mà Việt Nam phải và nên đối mặt. Theo ông, Việt Nam phải chủ động tham dự vào công việc của cộng đồng thế giới, có cho, có nhận, chứ không chỉ nhận như thời xưa; nâng cao năng lực của chính mình để hợp tác quốc tế thực sự, tránh nhiều thua thiệt như trước kia; cần xóa bỏ ảnh hưởng của ý thức hệ lên công tác ngoại giao và phải đặt lợi ích dân tộc và đất nước lên trên hết; nền ngoại giao phải dựa vào sự nội trị vững mạnh (tức là sức mạnh nội tại về kinh tế, chính trị văn hóa mà chúng ta chưa có và cần phải xây dựng).

Trong quan hệ đối ngoại, ông phân tích rất kỹ về quan hệ Việt-Trung. Ông cho rằng, “cách nghĩ đại Hán [quy sự bành trướng của Trung Quốc cho tư tưởng đại hán], bài Hoa, thần phục Hoa chẳng ích gì. Người Việt Nam ta cũng chẳng có cách gì bê đất nước mình đi chỗ khác để tránh mọi điều phiền toái. Vậy chỉ còn cách đứng tại chỗ, suy nghĩ, làm những việc phải làm: Chịu trở thành bãi phế thải của cái công xưởng thế giới? Hay trở thành đối tác làm ăn được tôn trọng?

Và ông trả lời. chúng ta “hoàn toàn có khả năng trở thành một đối tác làm ăn được Trung Quốc tôn trọng, nếu nước ta là một đối tác tin cậy và được tôn trọng của cả thế giới. Mặt khác, hợp tác được với Trung Quốc với tư cách là một Việt Nam độc lập và là một đối tác được tôn trọng, Việt Nam cũng sẽ hợp tác được với cả thế giới. Thiếu điều căn bản này, nhân nhượng của ta đối với Trung Quốc không thể giúp nước ta yên thân, mà chỉ khuyến khích Trung Quốc lấn tới”.

Ông nhìn lại thực tế quan hệ Việt-Trung hiện nay.  Ông khẳng định, “lịch sử Việt Nam chưa bao giờ có chính sách đối đầu với Trung Quốc. Ngày nay cả thế giới – kể cả Mỹ – không nước nào chọn chính sách đối đầu với Trung Quốc. Việt Nam càng không có lý do để làm việc này”. Nhưng thực tế Việt Nam luôn bị chèn ép và Việt Nam phải nhìn thẳng vào sự thật và tìm ra cách ứng xử thích hợp của mình. Theo ông, chúng ta có thể tìm được giải pháp của mình, dẫu cho “Trung Quốc có thể rất thâm độc, nguy hiểm, rất hung hãn như chúng ta đã từng thấy từ Hội nghị Genève 1954 về Đông Dương, như trong vấn đề chiến tranh Khmer đỏ chống Việt Nam, chiến tranh biên giới tháng 2-1979, các cuộc đánh chiếm cướp các đảo của ta, tiếp tục uy hiếp trên Biển Đông, thâm nhập sâu vào Tây Nguyên…” Nhưng, theo ông, “Trung Quốc sẽ làm được gì nữa nếu cả nước ta trên dưới một lòng và có sự hậu thuẫn của cả thế giới tiến bộ? Trung Quốc sẽ làm được gì nữa, nếu nước ta hiểu rõ bàn cờ thế giới mọi thời đoạn, không tự trói buộc mình vào bất kỳ một ý thức hệ nào ngoài lý tưởng duy nhất và ý chí sắt đá: Phải khôn ngoan đến cùng để thực hiện lợi ích quốc gia trên hết!

Để có thể chung sống hòa bình, hợp tác bình đẳng và được coi trọng trong các quan hệ quốc tế, nhất là trong quan hệ Việt-Trung, theo ông vấn đề sống còn đối với Việt Nam là “phải phấn đấu tự nâng cao mình toàn diện: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, ngoại giao, trước hết là đòi hỏi nâng cao nhân cách, năng lực và bản lĩnh con người Việt Nam thời nay, toàn dân tộc là một ý chí thống nhất mạnh mẽ! Trên hết cả, đòi hỏi này đặt ra trách nhiệm trực tiếp và vô cùng quan trọng cho những người đang nắm giữ vận mệnh quốc gia. Chế độ chính trị của đất nước phải đáp ứng tối đa đòi hỏi này”.

Làm thế nào để đáp ứng được đòi hỏi sống còn đó của dân tộc, của đất nước? Đó là nội dung chính của phần IV, phần cốt lõi của bài viết của ông. Đó là đòi hỏi sống còn phải chuyển sang một giai đoạn phát triển mới. Ông đòi hỏi mọi người Việt Nam, nhất là những người cầm quyền, “phải dũng cảm và nghiêm túc nhìn lại cả chặng đường dân tộc Việt Nam ta đã trải qua từ khi chiến tranh thế giới II kết thúc cho đến nay”. Bởi một lẽ đơn giản: “có dân tộc nào muốn thành công trên con đường trở thành một quốc gia phát triển và văn minh mà không phải nghiêm khắc nhìn lại mình?”

Theo ông, có thể rút ra bốn bài học lịch sử: “(1) Nhìn nhận phiến diện thế giới chúng ta đang sống, (2) sự giác ngộ không đúng tầm lợi ích quốc gia trong bối cảnh quốc tế luôn luôn biến động vô cùng phức tạp, (3) sự nô lệ vào ý thức hệ hoặc các niềm tin mù quáng – phải chăng đấy là ba nguyên nhân khởi thủy kìm hãm sự phát triển của đất nước 35 năm qua? Ngày nay còn phải cộng thêm nguyên nhân (4) là sự tha hóa mới trên nhiều phương diện. Suy cho cùng, trước sau đấy vẫn là những vấn đề của trí tuệ, tầm nhìn và ý chí!

Ông phân tích rằng mô hình phát triển kinh tế theo chiều rộng đã hết thời và phải chuyển sang một mô hình phát triển khác.

Ông cho rằng nền “kinh tế nước ta chỉ có tăng trưởng nhờ thâm dụng lao động rẻ và đầu tư mới, hầu như không có phát triển. Thực tế này giải thích tại sao càng đuổi thiên hạ, khoảng cách tụt hậu của ta cứ xoạc rộng ra mãi”. Đây là một nhận xét chỉ đúng một phần và chưa hoàn toàn hợp với bằng chứng thực tế. Những phân tích hay nhận xét khác của ông về nền kinh tế đôi khi cũng cần dựa nhiều hơn trên  cơ sở số liệu được phân tích kỹ lưỡng. Ông đòi hỏi quá cao đối với chiến lược kinh tế, chính sách công nghiệp. Trình độ dân ta, quan ta nó thế, khó có thể “mơ ước” nhiều hơn thực tế. Một vài dữ liệu ông đưa ra có lẽ là số liệu chưa được cập nhật (tỷ trọng lao động trong nông, lâm và ngư nghiệp đã xuống dưới 50%, nhưng ông cho rằng vẫn trên 60% của lao động cả nước). Những vấn đề ông nêu ra đều có thực và đều là những vấn đề nhức nhối, song phải làm gì, làm thế nào để cải thiện từng bước hay để có đột phá thì còn cần bàn cãi và phải tiến hành bàn cãi sớm. Tuy nhiên, những khiếm khuyết đó, không ảnh hưởng nhiều đến những kết luận chung của ông. Những phân tích của ông về công nghiệp hóa, về phát triển nông thôn, và kinh tế nói chung nên được thảo luận tiếp và bổ khuyết, như chính ông yêu cầu ở đầu bài viết của mình.

Điểm nổi bật, hết sức đáng chú ý trong bài viết của ông là đòi hỏi phải có đổi mới chính trị và đánh giá của ông về “dân chủ” là yếu tố nổi bật nhất của 25 năm đổi mới.

Theo, Amartya Sen, thể chế dân chủ là thể chế cai trị bằng thảo luận. Dân chủ hóa là một quá trình. Dân chủ hóa cuối cùng sẽ dẫn đến nền dân chủ chín muồi như ở các nước Âu-Mỹ, nơi thông qua thảo luận, tham dự, người dân thực sự lựa chọn ra những người cai trị và họ có thể hạ bệ những người cầm quyền bằng các thủ tục văn minh, như bầu cử tự do, nơi các quyền tự do và quyền con người được đảm bảo và không ngừng được cải thiện. Các quyền đó người dân phải đấu tranh để dành lấy và phải luôn cảnh giác để bảo vệ và tăng cường.

Theo Nguyễn Trung, cái dân chủ còn rất khiêm tốn ở Việt nam (chủ yếu là trả lại quyền tự do kinh tế cho người dân), chính là thành tựu bậc nhất của 25 đổi mới và nó đã làm thay đổi diện mạo kinh tế của đất nước.

Cần phải tiếp tục dân chủ hóa đời sống chính trị và đấy sẽ là động lực to lớn cho giai đoạn phát triển tiếp theo của đất nước.

Đáng tiếc, theo ông, có người không nhận ra thành tựu  to lớn đó về “dân chủ hóa” của công cuộc đổi mới, mà lại coi nó là “nguy cơ diễn biến hòa bình”.

Không có diễn biến thì không có cuộc sống, không có phát triển. Hay những người sợ “diễn biến hoà bình” thích “diễn biến bạo lực”? Tự diễn biến, tự thay đổi và thích ứng một cách có ý thức là loại diễn  biến cao nhất, đáng mong mỏi nhất. Song những người chỉ chăm chăm cho quyền lực của mình lại rất sợ “diễn biến hòa bình”, sợ “tự diễn biến”, họ chỉ sợ mất quyền lực của mình! Những người cầm quyền thông minh muốn nắm giữ quyền lực chính trị, kinh tế, văn hóa của mình một cách lâu dài, thì phải bỏ độc quyền của mình đi, còn nếu khư khư bám lấy độc quyền thì sẽ bị lịch sử đào thải.

Nguyễn Trung đề cao ngọn cờ “dân tộc dân chủ”. Nhu cầu cải cách chính trị là đòi hỏi bức bách của dân tộc. Ông không nói thật rõ cần cải cách chính trị là gì, nhưng ẩn ý sau các dòng chữ của ông thì không hề mơ hồ, ông viết:

Bao trùm lên tất cả là còn phải duy dưỡng và xây dựng những giá trị văn hóa nào làm nền tảng đạo đức, tinh thần và tâm hồn của con người với tính cách như thế – con người của hành động theo tư duy của tự do và sáng tạo, chứ không phải là con người công cụ”…. “phải sẵn sàng và chấp nhận triệt để nhiều thay đổi căn bản trong thể chế chính trị và trong hệ thống quản lý đất nước, trong tư duy cũng như trong tìm tòi và thiết kế các chính sách phát triển đất nước, trong việc tuyên chiến với mọi cái hủ bại, trong  việc duy dưỡng và xây dựng những giá trị tốt đẹp, đặc biệt là đổi mới và phát triển nền giáo dục nước nhà”… “Chỉ một khi người dân cảm nhận được chế độ chính trị này là của mình, vì mình, là lực hậu thuẫn vô song cho sự phấn đấu của mình, là người gắn kết toàn dân tộc và khơi dậy mọi tinh hoa gìn giữ và làm rạng rỡ giang sơn gấm vóc, là người đưa đất nước dấn thân vào trào lưu tiến bộ chung của nhân loại, là niềm tự hào vì nó mà mình phấn đấu, là điều thiêng liêng vì nó mà mình sẵn sàng xả thân gìn giữ, là niềm tự hào của nước Việt Nam… – chỉ khi xây dựng được một chế độ chính trị làm nên những giá trị như thế nó mới hòa nhập được vào làm một với tổ quốc, nó mới được người dân cảm nhận gần như đồng nghĩa với Tổ quốc. Một quốc gia có chế độ chính trị và Tổ quốc là một, quốc gia ấy là vô địch! Không một chủ nghĩa nào có thể thay thế được sức sống của sự hòa nhập làm một như vậy của chế độ chính trị và Tổ quốc! Một chế độ chính trị như thế sẽ giải phóng mạnh mẽ nhất trí tuệ và nghị lực Việt Nam. Một chế độ chính trị như thế – đến lượt nó – sẽ nâng lên giá trị và sự thiêng liêng của Tổ quốc, nâng lên vị thế của quốc gia trong cộng đồng thế giới. Hơn lúc nào hết dân tộc Việt Nam ta cần có sức sống này!”

Cũng như 5 năm trước, khi viết Thời cơ vàng, ông viết cho mọi người Việt Nam, nhưng trước hết cho những đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, cho những người cầm quyền. Nếu họ chủ động, nhanh nhạy thích nghi với thời cuộc, thúc đẩy dân chủ hóa, cải cách nền chính trị, đặt lợi ích của nhân dân và dân tộc lên trên hết bằng việc làm chứ không chỉ bằng lời nói, họ sẽ được nhân dân ủng hộ và đất nước sẽ hưng thịnh. Song, ông cũng nhắc đến một nguy cơ “diễn biến hoà bình” thực sự khiến nước ta rơi vào vòng nô lệ. Ông viết, “thách thức lớn nhất của dân chủ hóa không phải là diễn biến hòa bình, mà là cám dỗ chính trị rất lớn của quyền lực và lợi ích cá nhân”.

Ông nói thẳng thừng “đất nước đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt nam phải tự đổi mới chính mình, giương cao ngọn cờ dân tộc dân chủ lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ đất nước, trừ phi Đảng muốn tự mình vứt bỏ vai trò lãnh đạo của mình để trở thành đảng cai trị!” Và theo ông, đi theo hướng đầu, vượt qua được cái bóng của chính mình là cách hay nhất để giữ quyền lãnh đạo, để chấn hưng đất nước, để thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ công bằng văn minh”, sẽ được nhân dân ủng hộ; còn làm theo cách sau sẽ bị lịch sử đào thải.

Một bài viết rất đáng đọc, suy ngẫm và thảo luận.

NQA

Việt Nam trong thế giới của thập kỷ thứ hai thế kỷ XXI

(Trích chương III và Chương IV)

Nguyễn Trung

Như tựa của nó, bài viết này chỉ nêu lên những vấn đề chính Việt Nam sẽ phải đối mặt trong thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI. Với suy nghĩ cho rằng cần làm rõ được những vấn đề đặt ra trước khi suy nghĩ về các giải pháp, bài này không đề cập tới, mà xin dành việc bàn về các giải pháp cho các dịp khác. Với tất cả tinh thần trách nhiệm của mình, người viết bài đưa ra cách nhìn riêng về một số vấn đề, để ai quan tâm thì tham khảo. Vì hiểu biết và điều kiện làm việc rất giới hạn, những ý kiến trong bài chắc chắn có nhiều thiếu sót, mong được bổ khuyết

Kính dâng Tổ quốc nhân dịp 1000 năm Thăng Long

Chương III.  Một số vấn đề đối ngoại đặt ra cho Việt Nam

Sự suy yếu tiếp tục của Mỹ và mối quan hệ Mỹ – Trung như trình bày trên đây là hai yếu tố mới, nổi bật nhất, trực tiếp nhất kết thúc thời kỳ hậu chiến tranh lạnh, vẽ lại bản đồ chính trị của thế giới: hiện tượng đa siêu cường.

Riêng trên Biển Đông đang hình thành với nhiều diễn biến phức tạp xu thế hai cực Mỹ – Trung với các kịch bản khác nhau. Thực tế này liên quan trực tiếp đến nước ta trong thập kỷ tới trên nhiều phương diện. Mối quan hệ Việt – Trung trở thành vấn đề đối ngoại quan trọng nhất và khó xử lý nhất đối với nước ta trong thập kỷ tới.

1. Vị trí của Việt Nam trong chính sách đối ngoại hiện nay của các nước trên thế giới

Trước khi bàn sâu về quan hệ Việt-Trung, xin có vài nhận xét khái quát về vị thế Việt Nam ngày nay trên trường quốc tế.

Có thể nói hiện nay Việt Nam đạt được vị thế quốc tế cao nhất trong lịch sử của mình với tính cách là một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Việt Nam ngày nay là đối tác chiến lược của nhiều nước, đầu tư nước ngoài và kim ngạch ngoại thương tăng trưởng năng động. Chính sách đối ngoại hòa bình – hợp tác – hữu nghị của Việt Nam cùng với cục diện thế giới hiện nay mang lại cho Việt Nam vị thế này. Sự thiện cảm của nhân dân thế giới dành cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập và thống nhất đất nước của Việt Nam trong thế kỷ trước cũng là yếu tố quan trọng góp phần làm nên vị thế quốc tế ngày nay của đất nước. Toàn bộ thực tế này tạo ra thuận lợi rất quan trọng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, cho thực hiện nghĩa vụ đối với thế giới của Việt Nam với tính cách là một quốc gia thành viên đầy đủ và bình đẳng trong cộng đồng quốc tế.

Tuy nhiên, cần nhận rõ một sự thật khác, đó là vị trí của Việt Nam trong chính sách đối ngoại của nhiều nước đối tác, nhất là các nước đối tác quan trọng, nói chung là tương đối thấp so với khả năng Việt Nam có thể đạt được.  Nguyên nhân chính của sự kiện này không phải vì nước ta nghèo mà chủ yếu vì:

Một là, về một số phương diện nhất định, Việt Nam vẫn chưa bước ra khỏi phong cách đối ngoại thời kháng chiến – phong cách tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng thế giới là chính, mà chưa chủ động và tích cực dấn thân tham gia vào những vấn đề chung của cộng đồng thế giới, trong khi đó cuộc sống lại luôn luôn đòi hỏi có cho nhận chứ không thể một chiều chỉ nhận – nhất là nước ta hiện là một quốc gia thành viên đầy đủ trong các thể chế của cộng đồng quốc tế.

Hai là, tuy ta có thiện chí hợp tác – dù song phương hay đa phương, nhưng do khả năng của ta, trước hết do nhiều vấn đề nội bộ riêng của nước ta chưa một lòng một ý, dẫn tới sự hợp tác của ta chưa đạt được mức tiềm năng cho phép, chưa đúng mức các đối tác mong đợi, thậm chí có lúc ta chịu nhiều thua thiệt. Trong 25 năm qua nhiều lần ta bỏ lỡ cơ hội lớn rất đáng tiếc và không lấy lại được.

Ba là, nền ngoại giao Việt Nam hiện nay do ảnh hưởng của ý thức hệ nên tiếp tục có những hẫng hụt, lạc hậu nhất định trong nhận thức những diễn biến mới trên thế giới, chưa chủ động dấn thân tiến cùng với trào lưu thế giới – đây còn là vấn đề của tri thức, trí tuệ, phẩm chất chính trị và mưu lược -, do đó chưa xác lập được cho mình bản lĩnh mới để khai thác hay chủ động ứng phó với sự vận động của xu thế thế giới. Bản lĩnh ngoại giao ngày nay của nước ta rất yếu so với thời kỳ kháng chiến.

Bốn là, trên hết, ngoại giao Việt Nam đang thiếu một nội trị vững mạnh (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội) và một ý chí thống nhất làm nền tảng. Phải thừa nhận: Nội trị hiện nay của nước ta cản trở đáng kể phát huy vị thế đối ngoại của đất nước.

Những nhược điểm trình bày trên đang hạn chế sức mạnh ngoại giao nước ta và ảnh hưởng đến sức mạnh của nước ta nói chung, nhất là trong việc tập hợp đồng minh để bảo vệ lợi ích quốc gia và để tiếp tục phát huy vị thế mới của đất nước.

Do sự vận động của tình hình thế giới, đặc biệt là do các mối tương quan mới giữa các cường quốc – bao gồm cả hiện tượng Trung Quốc đang trên đường trở thành siêu cường, xuất hiện tại nhiều nước các châu lục khác nhau trên thế giới mối lo Việt Nam có thể rơi vào vòng tay của Trung Quốc.

Đặc biệt là trong bối cảnh quốc tế hiện nay, các cường quốc phương Tây, kể cả Mỹ, đều không muốn có một Việt Nam yếu, chịu lệ thuộc vào Trung Quốc. Những nước này, kể cả Mỹ, hiểu rõ ý thức độc lập tự chủ của Việt Nam và vì thế có lẽ không có ảo tưởng lôi kéo Việt Nam đi vào con đường ngoại giao của những đối trọng. Có thể hiểu, xu thế chính của những nước này muốn có một Việt Nam mạnh đúng với vị thế đang có trong khu vực, giữ vững được độc lập tự chủ của mình – là vì các lý do:

(1) Việt Nam ngày nay không phải là “đối tượng” của những cường quốc này;

(2) Việt Nam ngày nay không có có xung đột lợi ích với họ;

(3)  Một Việt Nam mạnh, độc lập tự chủ và có vị thế như thế khách quan là có lợi nhất cho hòa bình nói chung và cũng sẽ có lợi nhất cho họ trên bàn cờ thế giới hiện tại… [22];

(4)  Một Việt Nam lệ thuộc vào Trung Quốc hoặc để Trung Quốc khống chế là điều nguy hại đối với hòa bình và an ninh khu vực với nhiều hệ quả xấu khác – đây là điều nhiều cường quốc và nhiều nước láng giềng và bè bạn của ta không muốn, chính nhân dân ta cũng không chịu[23];

(5) Vân…vân…

Cần nói rõ như vậy để không cường điệu hóa đến mức nhầm lẫn coi các sự việc “can thiệp vào nội bộ Việt Nam để diễn biến hòa bình dưới chiêu bài dân chủ và nhân quyền” là quốc sách lật đổ của các nước phương Tây đối với nước ta.

Hiển nhiên giữa chế độ chính trị nước ta và chế độ chính trị của các nước phương Tây có nhiều giá trị khác nhau, đặc biệt là về vấn đề dân chủ và nhân quyền.

Các nước phương Tây vì lợi ích của chính mình có chủ trương khai thác các vấn đề như xã hội dân sự, dân chủ và nhân quyền – một xu thế ngày càng trở thành một trào lưu mạnh trên thế giới – để phát huy ảnh hưởng của họ vào các nước khác, kể cả vào Trung Quốc. Có quốc gia nào, nhất là các nước lớn, lại không muốn phát huy ảnh hưởng của mình ra bên ngoài, để tập hợp lực lượng, để khai thác, để tác động vào những điểm yếu của các nước có liên quan, v.v.?

Xin đừng quên cuộc sống và quy luật tiến hóa của xã hội loài người cũng như trong quan hệ giữa các quốc gia trên trái đất này xưa nay và mãi mãi sẽ có “diễn biến”, “diễn biến hòa bình” vào nhau như vậy. Cứ xem Trung Quốc “diễn biến”, “diễn biến hòa bình” vào nước ta như thế nào trong lịch sử 2000 năm quan hệ hai nước cho đến ngày nay cũng sẽ rõ. Trong sự “diễn biến” vào nhau này, quy luật muôn đời vẫn là: Người thắng cuộc luôn luôn là kẻ có khả năng thích nghi và vượt trội cao hơn đối tượng của mình. Yếu tố căn bản để trở thành người thắng cuộc là phải đồng hành với tiến bộ và những giá trị cao đẹp. Chẳng lẽ lịch sử 2000 năm của nước ta không nói lên điều gì trong mối quan hệ qua lại này?

Cũng là chuyện hiển nhiên các tổ chức của một số người Việt ở nước ngoài muốn sử dụng vấn đề dân chủ và nhân quyền để lật đổ nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Họ làm mọi việc và “lobby” mọi người, mọi tổ chức, mọi cơ quan nước họ cư trú, vận động dư luận, để tranh thủ nhân vật này hay lực lượng nọ của nước sở tại hoặc ở những nơi khác cho mục đích lật đổ, chống đối của họ. Vấn đề chống đối hay lật đổ như thế trước hết là vấn đề giữa trong nước và những lực lượng người Việt này ở nước ngoài[24].

Nếu cho câu chuyện chống đối và lật đổ của những người Việt này là quốc sách hay là nằm trong quốc sách của các cường quốc phương Tây, kể cả Mỹ, thì sẽ là sự cường điệu đến mức chệch hướng. Nếu các cường quốc phương Tây lúc này có quốc sách muốn lật đổ hay muốn diễn biến hòa bình để lật đổ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì họ phát triển quan hệ mọi mặt với Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, dành cho Việt Nam không ít sự giúp đỡ để làm gì? Mà Việt Nam đã, đang nhận và sẽ tiếp tục nhận sự giúp đỡ ấy. Thậm chí Việt Nam đang yêu cầu họ thừa nhận nền kinh tế của mình là nền kinh tế thị trường, muốn họ tăng cường giúp đỡ…

Nếu các cường quốc phương Tây lúc này có quốc sách lật đổ hay diễn biến hòa bình để hạ gục nước ta, tại sao một số nước trong các nước phương Tây lại đồng ý nâng quan hệ hợp tác với nước ta lên tầm đối tác chiến lược? Các nước phát triển từ hàng chục năm nay liên tục dành cho nước ta những khoản viện trợ ODA không nhỏ, nguồn vốn tài trợ này góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội nước ta. Hàng năm Chính phủ ta tiếp tục vận động các nước duy trì nguồn tài trợ này.  Hội nghị các nước tài trợ ODA tháng 12-2009 đã quyết định viện trợ ODA cho Việt Nam 8 tỷ USD, mức cao nhất từ trước đến nay – trong lúc bản thân những nước này chưa ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay. Tại hội nghị này các nước nhấn mạnh: muốn phía Việt Nam xử nghiêm khắc vụ Huỳnh Ngọc Sỹ và đẩy mạnh chống tham nhũng nói chung, đình chỉ một số vụ việc mất dân chủ và nhân quyền… Giữa lúc nước ta đang nỗ lực khắc phục khủng hoảng kinh tế, sự giúp đỡ này càng có ý nghĩa. Có thể coi những đòi hỏi này của các nước viện trợ là diễn biến hòa bình chống đối hay lật đổ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam?  Còn chủ trương của trong nước dùng vấn đề “diễn biến hòa bình” để giải quyết những vấn đề trong nội bộ nước ta lại là câu chuyện hoàn toàn khác.

Sự thực có một thứ diễn biến hòa bình khác nhất thiết phải vô hiệu hóa, đó là sự câu kết giữa tham nhũng, tha hóa ở trong nước và bàn tay can thiệp của quyền lực mềm từ bên ngoài. Song cho đến nay chưa được đặt ra yêu cầu chống sự diễn biến nguy hiểm này. Những dự án kinh tế lớn công nghệ lạc hậu có vốn đầu tư nước ngoài được hình thành thông qua những quá trình đấu thầu méo mó, tình trạng buôn lậu, xuất khẩu lậu những khối lượng hàng hóa lớn và nhiều sự việc nghiêm trọng khác đã xảy ra…  đòi hỏi phải ngăn ngừa sự lũng đoạn nguy hiểm này.

Nói thêm về vấn đề làm bạn với người

Cần nhấn mạnh: đường lối ngoại giao muốn làm bạn với người của nước ta là đúng đắn. Tuy nhiên, lẽ đời nghiệt ngã: chỉ có thiện chí “chay” – nghĩa là chẳng có thực lực hay ảnh hưởng gì làm căn bản – thì trước sau “chay” vẫn hoàn “chay”! Vì vậy, không thể bỏ qua một chuỗi câu hỏi tiếp theo và rất nhiều việc phải làm, để cho đường lối đối ngoại làm bạn này trở thành hiện thực:

1. Ta muốn làm bạn với người, nhưng người có muốn làm bạn với ta không?  Đấy là hai chuyện khác nhau.

2. Làm thế nào để ta có thể là bạn được của người? người cũng muốn nhận ta làm bạn? – Còn thứ “làm bạn” do được ban phát thì chẳng hay ho gì – vì đó sẽ là nếu sang thì làm đĩ, nếu kém sang một chút thì làm thằng hầu!

3. Làm thế nào để người cần phải làm bạn với ta?

4. Làm thế nào để người nếu không muốn làm bạn với ta thì cũng không chống được ta?

5. Làm thế nào để người nếu không muốn làm bạn với ta thì cũng phải tôn trọng ta?

6. Làm thế nào để người không thể phản ta hay bán rẻ ta?

7. Làm thế nào để người nếu chưa phải là bạn của ta hoặc chưa muốn thì cũng không chống ta?

8. Làm gì và làm thế nào để nước ta không bị lôi vào trò chơi “đối trọng”, lúc là “cái mộc” cho người này,  lúc là “lá chắn” cho kẻ  khác..?

9. Làm thế nào để ngày càng thêm bạn, bớt thù?

10. Làm thế nào để không ai cô lập được Việt Nam?..

11. Vân… vân..

Tóm lại, muốn làm bạn với người, trước hết phải biết mình là ai, và cần hiểu mình phải (sẽ phải) là ai. Điều này cũng có nghĩa ta phải quyết tâm là chính ta, rồi mới đủ trí tuệ và bản lĩnh tính chuyện làm bạn với người. Đừng quên độc lập tự chủ là một trong những bài học quý, nên được xếp ngang với ý chí Không gì quý hơn độc lập tự do!

Có thể nói ngoại giao Việt Nam vô cùng giàu có những bài học này. Vậy lo câu chuyện làm bạn, trước hết là lo cho mình có lực, có trí tuệ, có tư cách, có tính cách, có ảnh hưởng lan tỏa, có khí phách, có mưu lược và có bản lĩnh thực hiện đường lối đối ngoại làm bạn. Tại hội nghị Thành Đô (1990) ta muốn làm bạn, thậm chí muốn làm đồng chí nữa, nhưng Trung Quốc có chấp nhận đâu! Có thể nói dứt khoát đường lối ngoại giao làm bạn phải bắt nguồn từ nội trị lành mạnh và đầy sức sống của quốc gia, từ sự chủ động dấn thân vào trào lưu chung của thế giới – nếu không, thì đường lối này chỉ đưa nước ta trở thành con đĩ hay thằng hầu. Không có ý thức hệ nào thay đổi được quy luật này trong cuộc sống.

Việt Nam đang có vị thế đối ngoại cao chưa từng có trong lịch sử của mình để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, mở rộng ảnh hưởng của mình đối với thế giới bên ngoài. Song vấn đề hàng đầu của ngoại giao Việt Nam ngày nay vẫn là nhận biết chuẩn xác thế giới và giác ngộ triệt để lợi ích quốc gia, dấn thân với tất cả tinh thần độc lập tự chủ. Trên hết cả vẫn là xây dựng một nội trị vững mạnh cho dân tộc vươn lên làm nền tảng và định hướng cho đối ngoại.

2. Một số suy nghĩ về quan hệ Việt-Trung

2.1.  Đại hán, bài Hoa, thần phục Hoa

Trước hết nên đặt sang một bên những ảnh hưởng di sản lịch sử để lại và tách ra khỏi mọi cách nghĩ bài Hoa hay thần phục Hoa để tỉnh táo nhìn nhận sự việc.

Ví dụ không ít người nghĩ rằng sự bành trướng của Trung Quốc là do tư tưởng đại Hán. Điều này đúng nhưng không đủ. Nghĩ thế hàm nghĩa khi nào Trung Quốc bỏ được đại Hán – một điều không tưởng – thì sẽ hết bành trướng.

Thực ra đòi hỏi về không gian sinh tồn của Trung Quốc trên con đường trở thành siêu cường đặt ra nhiều vấn đề nghiêm trọng hơn so với tư tưởng đại Hán. Nghĩa là dù có hay không tư tưởng đại Hán, vấn đề mở rộng không gian sinh tồn của cái công xưởng thế giới này vẫn là tất yếu – vì “đầu vào” và “đầu ra” của nó là cả thế giới, nhằm vào thế giới. Tự Trung Quốc đã nói lên: Hàng hóa Trung Quốc tới đâu, quyền lực mềm của Trung Quốc tới đó. Điều này cho thấy chẳng có liên minh hay đồng minh nào cùng ý thức hệ, cũng chẳng có tư duy bài Hoa hay thần phục Hoa nào có thể vô hiệu hóa được đòi hỏi mở rộng không gian sinh tồn này[25] của cái công xưởng thế giới. Thực tế này đòi hỏi nước ta phải có một cách tiếp cận khác và cách giải quyết khác những thách thức đặt ra.

Trung Quốc trên con đường trở thành siêu cường rất khó mở rộng không gian sinh tồn như thế đi lên hướng Bắc, sang phía Đông hay về phía Tây. Cứ nhìn bản đồ địa dư và bản đồ địa chính trị thì thấy rõ điều này. Trong lịch sử đã có vụ Ussuri với Liên Xô cũ năm 1969, phần trên bài viết này đã nêu ví dụ Timothy Keating từ chối đề nghị của Trung Quốc đầu năm nay về chia đôi Thái Bình Dương, Nhật bản trước sau không chịu chấp nhận đòi hỏi của Trung Quốc về biển đảo, biên giới Ấn – Trung hiện nay đang căng thẳng… Hướng thuận lợi nhất làm bàn đạp cho Trung Quốc mở đường giành vị thế siêu cường chỉ còn lại hướng Nam, Việt Nam trong tình hình này trở thành chướng ngại vật chính! Thực hiện được cái “lưỡi bò” ở Biển Đông, Trung Quốc sẽ khống chế được tuyến đường biển huyết mạch Malacca và từ đó có thể khống chế đáng kể Thái Bình Dương, sẽ có thêm sức nặng mặc cả để nâng cao vị thế của Trung Quốc. Chuyện Biển Đông có thể là đột phá khẩu, là cú hích đẩy Trung Quốc lên vị thế chiến lược toàn cầu cao hơn, chứ không đơn thuần là Trung Quốc chỉ tranh chấp lãnh hải và tài nguyên. Xin đừng quên điều này.

Hơn nữa, trong thập kỷ vừa qua sự đi xuống quá nhanh của phương Tây – trước hết là Mỹ, sự đi lên quá nóng của Trung Quốc trên thực tế đã dẫn đến tình hình Lý Quang Diệu mô tả: Đang hình thành khu vực trống (vacuum) trong chính sách của Mỹ khiến cho Trung Quốc tự do hoành hành ở châu Á[26]. Không phải ngẫu nhiên mối quan ngại của hầu hết các nước châu Á về một siêu cường Trung quốc đang gia tăng, nhất là trong bối cảnh quốc tế hiện nay. Sự vận động của cục diện thế giới và sự phát triển tự thân của Trung Quốc tạo nên tình huống như vậy; chẳng có đạo đức, thiện chí, ý thức hệ hay cuồng vọng nào có thể thay đổi được. Sự thật duy nhất Trung Quốc phải tuân thủ là: Cường quốc đang phát triển năng động này tuy thế cũng không thể làm gì vượt quá khả năng và tầm với của nó.

Trong chiến lược toàn cầu của mình, hiện nay Trung Quốc vẫn chủ trương “giấu mình chờ thời”, tiếp tục tranh thủ thời gian để mạnh thêm và để cho các đối thủ chính của mình – trước hết là Mỹ – tiếp tục suy yếu thêm. Đồng thời Trung Quốc sẽ không bỏ lỡ bất kỳ cơ hội nào có các “bước đi nóng” (hot performances) trong phạm vi cục bộ, nhất là đối với Việt Nam – như chúng ta đã thấy từ hơn nửa thế kỷ nay: trong cuộc chiến tranh biên giới chống Việt Nam 2-1979, trong đàm phán biên giới trên bộ, trong đánh chiếm các đảo của ta ở Biển Đông, các hoạt động uy hiếp khác trên biển, vân vân… Thế giới về cơ bản vẫn là cục diện hòa bình, song một nửa thế kỷ qua Đông Nam Á luôn có những sự cố như vậy. Đây là điểm khác nhau quan trọng giữa cục diện quốc tế nói chung và tình hình khu vực nước ta đang sống nói riêng. Giới hạn hay yêu cầu Trung Quốc đặt ra cho những “bước đi nóng” này là về đại cục miễn sao không cản trở, mà phải thúc đẩy nhanh hơn mục tiêu chiến lược là sớm trở thành siêu cường của Trung Quốc[27].

Cũng không phải ngẫu nhiên, các Đại hội của Đảng Cộng sản Trung Quốc từ năm 1949 đến nay không lúc nào không tìm cách xoa dịu mối lo của thế giới, luôn luôn giương cao ngọn cờ chống bá quyền, thực chất là để thanh minh cho chính mình. Gần đây nhất Trung Quốc bỏ cả cách nói trỗi dậy hòa bình, và ngày càng nói nhiều đến win-win. Trong khi đó phương tiện truyền thông nội địa Trung Quốc gần như không có thời kỳ nào, kể cả hiện tại, ngớt nói công khai suy nghĩ của Trung Quốc về không gian sinh tồn, điển hình có lẽ là bài nói của tướng Trì Hạo Điền – nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng,  tại Hội nghị các tướng lĩnh Trung Quốc bàn về chiến lược chiến tranh tương lai, tổ chức năm 2005 (được công bố trên Tạp chí Các vấn đề chiến lược, Ấn Độ, 15/4/2009) và các bài nói về thời cơ đang đến cho Trung Quốc giải quyết dứt điểm vấn đề Biển Đông[28].

Như vậy cách nghĩ đại Hán, bài Hoa, thần phục Hoa chẳng ích gì. Người Việt Nam ta cũng chẳng có cách gì bê đất nước mình đi chỗ khác để tránh mọi điều phiền toái. Vậy chỉ còn cách đứng tại chỗ, suy nghĩ, làm những việc phải làm: Chịu trở thành bãi phế thải của cái công xưởng thế giới? Hay trở thành đối tác làm ăn được tôn trọng?

Hoàn toàn có khả năng trở thành một đối tác làm ăn được Trung Quốc tôn trọng, nếu nước ta là một đối tác tin cậy và được tôn trọng của cả thế giới. Mặt khác, hợp tác được với Trung Quốc với tư cách là một Việt Nam độc lập và là một đối tác được tôn trọng, Việt Nam cũng sẽ hợp tác được với cả thế giới. Thiếu điều căn bản này, nhân nhượng của ta đối với Trung Quốc không thể giúp nước ta yên thân, mà chỉ khuyến khích Trung Quốc lấn tới. Hơn nữa, cần nhìn vào chính sách của Trung Quốc đối với từng nước ASEAN riêng rẽ để thấy rõ thực tế trần trụi này. Làm thế nào để cả dân tộc một lòng một dạ đem hết trí tuệ và nghị lực của mình làm bằng được điều căn bản này, đấy là chìa khóa để giải quyết vấn đề. Cần nói thẳng thắn: Hiện nay chưa làm được như vậy! Hiện nay con đường làm như vậy thậm chí có những sự việc tự ngăn chặn!

2.2. Thực tế quan hệ Việt-Trung hiện nay

Hội nghị cấp cao Việt-Trung tại Thành Đô năm 1990 tuy còn nhiều vấn đề phải bàn cãi,[29] song đã mở đầu thời kỳ quan hệ bình thường Việt-Trung hiện nay. Đến nay đã được 2 thập kỷ, xen kẽ những đoạn đường lúc hợp tác, lúc căng thẳng, nơi này nơi khác vẫn còn đổ máu – lúc ở biên giới trên bộ, lúc trên biển.

Đáng chú ý, sau khi hoàn tất cắm mốc biên giới trên bộ đầu năm 2009, với tất cả những nhượng bộ và thiện chí phía Việt Nam có thể làm, tình hình lại rộ lên vấn đề Biển Đông, lúc này lúc khác ngư dân nước ta bị giết hoặc ngược đãi dã man, “cái lưỡi bò” vẫn được mưu toan triển khai, kể cả kịch bản dùng vũ lực cũng được báo chí Trung Quốc đề cập tới… Giống như chim phải đạn, trong ký ức, một không khí lạnh buốt năm 1946 phảng phất lại “…ta càng nhân nhượng, địch càng lấn tới!..” Người Việt Nam ai quên được khoảnh khắc ngày xưa ấy?!.. Tuy nhiên thời thế đã xoay vần…

Mới đây, đúng một ngày sau khi Thủ tướng Nguyến Tấn Dũng đi thăm Tứ Xuyên, Hội nghề cá nước ta phải ra tuyên bố ngày 16-10-2009 phản đối Trung Quốc ngược đãi và cướp bóc 200 ngư dân ta vào lánh nạn cơn bão Ketsana 26-09-2009 tại đảo Trụ Cẩu – Hoàng Sa thuộc ta, ngày 21-10-2009 người phát ngôn Bộ ngoại giao ta phải trao tiếp công hàm phản đối cho đại sứ Trung Quốc.

Đặc biệt là những hoạt động ngược lại với 16 chữ như thế của Trung Quốc trong các năm 2008 và 2009 ráo riết hơn và nghiêm trọng hơn so với trước, mặc dù phía Việt Nam hết sức kiềm chế – như người phát ngôn Bộ Ngoại giao ta vẫn nói. Đến nỗi dư luận nước ngoài cho rằng: Trung Quốc nắm thóp được Việt Nam không bao giờ dám ngả vào Mỹ và phương Tây, nên càng làm tới!.. Việt Nam mất cắp mà không dám la làng thì thế giới làm sao bênh được!..[30]

Những hiện tượng  “nóng”/ “lạnh” như thế xen kẽ nhau thường xuyên. Trong khi đó chính giới hai nước không thiếu các chữ vàng lời đẹp nói về quan hệ hai nước! Khoảng cách có thuốc súng và máu giữa thực tế và lời nói như vậy cho thấy điều gì?

Xin lưu ý, trong bối cục của tình hình thế giới những năm 1980 Trung Quốc đã dùng vũ lực thường xuyên uy hiếp Trường Sa, – đặc biệt là cuộc tấn công đẫm máu của hải quân Trung Quốc đánh chiếm thêm các bãi cát ngầm và một số đảo ở Trường Sa ngày 14-03-1988. Ngày nay không thể không đặt ra câu hỏi: Trung Quốc dự định và có thể sẽ làm gì nữa trong bối cảnh thế giới hiện tại?

Trong bài đăng trên Hoàn cầu thời báo,  ngày 18/03/09, tác giả Đới Hy, Đại tá không quân Trung Quốc và nhà bình luận có tiếng, kêu gọi thiết lập căn cứ quân sự tại Trường Sa: “Song song với việc phát triển nguồn tài nguyên Nam Hải (Biển Đông), cần thiết lập căn cứ quân sự trên quần đảo Nam Sa (Trường Sa), với các cơ sở dành cho máy bay, trực thăng và các loại hình tác chiến khác. Hải phận và không phận rộng lớn ở đây sẽ trở thành địa điểm huấn luyện quân sự… không chỉ bảo vệ phát triển kinh tế của toàn Nam Hải (Biển Đông) mà còn thúc đẩy hiện đại hóa quân đội”[31].

Trong quan hệ kinh tế hai nước có rất nhiều vấn đề phức tạp. Không biết phía Trung Quốc lobby thế nào  mà thắng thầu nhiều công trình kinh tế lớn do phía Việt Nam làm chủ đầu tư, kể cả tại nhiều địa điểm có ý nghĩa quan trọng đối với an ninh quốc phòng của ta. Đáng chú ý là nước ta hiện nay đã đạt được trình độ phát triển nhất định, mà hầu như tất cả các công trình do Trung Quốc thực hiện đều dưới dạng chìa khóa trao tay (EPC) – với công nghệ lạc hậu – ví dụ công nghệ cho nhà máy Nhân Cơ sơ chế bô-xít thành alumin ở Tây Nguyên là công nghệ Bayer có từ 100 năm nay! – cùng với thiết bị và vật tư gần như 100% là của Trung Quốc, đưa hàng vạn người Trung Quốc không có tay nghề vào làm việc không có giấy phép. Có nhiều hiện tượng gian lận trong thực hiện các dự án, có nơi đưa vào nước ta từ cái hố xí bệt như báo chí ta đã phanh phui!.. Nếu họ ở lại sinh con đẻ cái thì sẽ làm sao? Xin nhắc lại, đấy là những sự việc thật, không có chuyện bài Hoa ở đây. Vì thế không thể không đặt ra câu hỏi: Trong những dự án đã ký kết, đã thực hiện, và đang thực hiện, có sự thao túng nào không của bàn tay tham nhũng? Chúng luồn lách từ đâu? Đến mức độ  nào?..

Phần lớn đầu tư của Trung Quốc vào ta là khai thác khoáng sản và chuẩn bị địa bàn hoạt động mới ở nước ta cho công nghiệp của Trung Quốc – gần đây nhất là khu công nghiệp An Dương – Hải Phòng do Thâm Quyến xúc tiến. Trong khi đó ngoại thương ta nhập siêu từ Trung Quốc mỗi năm 10 – 13 tỷ USD[32], khoảng 80 – 90% kim ngạch xuất khẩu của ta sang Trung Quốc là nguyên liệu. Buôn bán qua biên giới (biên mậu) là một kênh quan trọng trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc, song không hiếm lúc Trung Quốc đưa ra đủ mọi thứ lý do đơn phương “đóng cửa” với các lý do khác nhau –  mỗi lần xảy ra như thế hàng trăm triệu đồng sản phẩm xuất khẩu của ta bị hủy hoại bên trong biên giới… Tình hình này cộng với nhập lậu ồ ạt hàng Trung Quốc kém chất lượng thực sự gây nguy hiểm cho đất nước. Duy trì tình trạng này trong tương lai, đầu tư của Trung Quốc và kim ngạch ngoại thương hai nước càng lớn, nước ta phải đối mặt với mối nguy và sự lệ thuộc càng lớn. Tăng cường quan hệ kinh tế Việt – Trung có ý nghĩa rất quan trọng đối với nước ta, song mở rộng hợp tác kinh tế với các tỉnh Trung Quốc mà không cải thiện được tình hình nêu trên sẽ càng bất lợi.

Ngoài việc gây sức ép các hãng BP và Exxon phải hủy các hợp đồng thăm dò dầu khí đang làm với ta (nhưng phía ta lại giải thích với báo chí là các hãng này đã làm xong việc và tự rút!), Trung Quốc tiếp tục nêu yêu sách “lưỡi bò” trên Biển Đông, tuyên bố vùng cấm đánh cá từ 16-05-2009 đến 1-08-2009 kinh độ 170 Đông xuống tận vỹ tuyến 12; có lúc đưa tàu quân sự đánh đuổi tàu cá của ta trong vùng biển của ta chỉ cách bờ 65 hải lý… khiến hàng nghìn ngư dân của ta thất nghiệp, khốn đốn…

Còn không ít các vấn đề phức tạp khác nữa của quyền lực mềm…

Toàn bộ thực tế nói trên sẽ chi phối sâu sắc tình hình phát triển và an ninh của nước ta trong thập kỷ 2011-2020. Lịch sử tranh chấp giữa các siêu cường mà nước ta đã nếm trải thời chiến tranh lạnh sẽ không lặp lại. Nhưng mối quan hệ  tay đôi và sự tranh chấp hay tranh giành ảnh hưởng như vậy giữa hai nước lớn này thời nào cũng dễ đẩy các nước nhỏ lâm vào cảnh “trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết”.

Lịch sử Việt Nam chưa bao giờ có chính sách đối đầu với Trung Quốc. Ngày nay cả thế giới – kể cả Mỹ – không nước nào chọn chính sách đối đầu với Trung Quốc. Việt Nam càng không có lý do để làm việc này. Kể từ khi ra đời, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa – ngày nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nước ta đã từng sống trong thời kỳ quan hệ Việt – Trung đúng với tinh thần vừa là đồng chí vừa là anh em, núi liền núi sông liền sông…

Không hoài cổ, nhưng không thể không đặt ra câu hỏi: Cái gì tốt đẹp đã đạt được trong quá khứ, tại sao không đạt được trong tương lai?

Câu trả lời về phía Trung Quốc, để cho Trung Quốc trả lời.

Câu trả lời về phía chúng ta, tự chúng ta phải tìm lấy. Để có câu trả lời ấy, dân tộc Việt Nam ta hôm nay cần bắt đầu từ lòng tự trọng và ý chí thoát ra khỏi tình trạng lạc hậu hiện nay, rồi mới đến các việc phải làm khác. Một nước Việt Nam èo uột không thể làm bạn với Trung Quốc hoặc với bất kỳ nước nào trên thế giới này. Điều chắc chắn là Trung Quốc cần thế giới nếu không hơn thì cũng không kém các cường quốc khác. Có thể sẽ có một Trung Quốc siêu cường, nhưng có lẽ không thể có một đế chế Trung Quốc, một Pax Sinica trong thời đại ngày nay. Thực lực và những giá trị Trung Quốc có, hoặc sẽ có đều khó lòng cho phép Trung Quốc trở thành một đế chế như thế. Tự thân Trung Quốc cũng nói lên điều này. Vì thế, Việt Nam nên có một vai trong cái thế giới mà Trung Quốc cần ấy.

Trung Quốc có thể rất thâm độc,  nguy hiểm, rất hung hãn như chúng ta đã từng thấy từ Hội nghị Genève 1954 về Đông Dương, như trong vấn đề chiến tranh Khmer đỏ chống Việt Nam, chiến tranh biên giới tháng 2-1979, các cuộc đánh chiếm cướp các đảo của ta, tiếp tục uy hiếp trên Biển Đông, thâm nhập sâu vào Tây Nguyên… Nhưng Trung Quốc sẽ làm được gì nữa nếu cả nước ta trên dưới một lòng và có sự hậu thuẫn của cả thế giới tiến bộ? Trung Quốc sẽ làm được gì nữa, nếu nước ta hiểu rõ bàn cờ thế giới mọi thời đoạn, không tự trói buộc mình vào bất kỳ một ý thức hệ nào ngoài lý tưởng duy nhất và ý chí sắt đá: Phải khôn ngoan đến cùng để thực hiện lợi ích quốc gia trên hết!

Mặt khác quan hệ Việt – Trung hai, ba thập kỷ vừa qua phải chăng cho thấy nhân nhượng Trung Quốc bao nhiêu cũng không đủ? hòa hiếu đến thế nào nữa cũng vẫn không được tôn trọng? Thậm chí nhiều lúc Trung Quốc tỏ ra rất hỗn xược – điển hình nhất có lẽ là chuyện nửa đêm gọi Đại sứ ta ở Bắc Kinh để trách cứ chuyện báo chí ta nói nhiều về thực phẩm Trung Quốc xuất vào việt Nam nhiễm hóa chất độc hại, chuyện lãnh đạo Trung Quốc phê phán Việt Nam cải cách quá nhanh! Còn bao nhiêu chuyện đau lòng khác nữa!… Trong khi đó Thượng nghị sỹ Obama lúc tranh cử cũng như sau khi đắc cử tuyên bố thẳng thừng không cho nhập khẩu các đồ chơi của trẻ em có nhiều chất chì sản xuất từ Trung Quốc, phía Trung Quốc hoàn toàn lặng lẽ!

Nhìn chung, từ sau 30-4-1975, đặc biệt từ sau hội nghị Thành Đô (1990), Trung Quốc tiếp tục lấn tới trong quan hệ với Việt Nam, đồng thời Trung Quốc khuyến khích hay để ngỏ cửa cho phát triển những mối quan hệ hợp tác nhẩt định. Với cả hai cánh tay “cứng” – “mềm” như vậy, Trung quốc nhất quán theo đuổi mục đích làm cho Việt Nam ngày càng lệ thuộc hoặc phải nằm trong quỹ đạo của Trung Quốc. Cũng phải nói cho khách quan: Từ xưa đến nay có cường quốc nào không đối xử với các nước nhỏ hơn hay các con mồi của mình như thế? Lịch sử Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến nay có biết bao nhiêu bài học phong phú trong mối quan hệ như vậy với các “người bạn lớn” muốn chi phối vận mệnh nước ta!

Tuy nhiên, trước hết ta cũng phải tự trách mình: Ta có làm sao thì người mới dám xử sự với ta như thế chứ!? Hay là mọi việc xảy ra chưa đủ thức tỉnh lòng tự trọng của dân tộc Việt Nam thời này?! Còn ai muốn hiểu những điều trình bày trên là kích động chống quan hệ hữu nghị hợp tác Việt – Trung  xin cứ phản bác.

Không chống Trung Quốc, không bài Hoa, nhưng nhất thiết phải tự ta là ta, nghĩa là phải có bản lĩnh và thực lực để trở thành một đối tác được tôn trọng! Hữu nghị “chay” kết quả sẽ là “âm”. Dân tộc Việt Nam ta chẳng lẽ không có kinh nghiệm gì về tình bằng hữu ăn xin?

Và trên hết cả, hữu nghị thực sự, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, cùng phát triển với cái công xưởng thế giới là điều kiện căn bản cho chung sống hòa bình, hợp tác giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đừng chọn kịch bản để cho Việt Nam trở thành một bãi thải, một lá chắn hay một con đê chắn sóng Trung Quốc, mà cần tìm ra và lựa chọn kịch bản Viêt Nam trở thành cầu nối giữa các bên với Trung Quốc – cho một thế giới của hợp tác hòa bình và phát triển. Đòi hỏi sống còn này đặt ra cho nước ta nhiệm vụ phải phấn đấu tự nâng cao mình toàn diện: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, ngoại giao, trước hết là đòi hỏi nâng cao nhân cách, năng lực và bản lĩnh con người Việt Nam thời nay, toàn dân tộc là một ý chí thống nhất mạnh mẽ! Trên hết cả, đòi hỏi này đặt ra trách nhiệm trực tiếp và vô cùng quan trọng cho những người đang nắm giữ vận mệnh quốc gia. Chế độ chính trị của đất nước phải đáp ứng tối đa đòi hỏi này.

Xin đừng quên lịch sử Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến nay đã hơn một lần đem lại cho nước ta bài học cay đắng: Quyền lợi quốc gia của ta luôn luôn đứng trước nguy cơ bị các nước lớn bán rẻ, tranh giành nhau, hoặc đem ra đổi chác với nhau. Điều gì sẽ xảy ra nếu ở khu vực Đông Nam Á sẽ do thế hai cực Trung – Mỹ với các kịch bản khác nhau chi phối: kịch bản cân bằng, kịch bản giành giật, kịch bản thỏa hiệp – nhất là kịch bản Mỹ vì thế đi xuống và vì lợi ích chiến lược toàn cầu của mình muốn hi sinh, muốn đem lợi ích của Việt Nam đổi chác lấy cái gì đó?.. Làm sao nước ta đứng vững được trong bất kỳ kịch bản nào?

Tất cả xoáy vào câu hỏi: Làm gì để Việt Nam thoát được nghèo hèn như một tật nguyền?

IV.  Việt Nam đứng trước đòi hỏi sống còn
phải chuyển sang một giai đoạn phát triển mới

Bước vào thập kỷ thứ hai của thế kỷ này, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước kể từ khi hoàn thành sự nghiệp giành lại độc lập và thống nhất đất nước vừa tròn 35 năm. Trong suốt thời kỳ 35 năm này, nước ta mất trắng 5 năm đầu tiên với nhiều hy sinh lớn lao cho chiến tranh chống bọn diệt chủng Polpot – Yengsari ở Campuchia và chống cuộc chiến tranh chớp nhoáng của Trung Quốc trên biên giới phía Bắc nước ta, được gọi là cuộc chiến tranh 17-02-1979. Cuộc chiến tranh giúp nhân dân Campuchia chống lại bọn Khmer đỏ diệt chủng còn kéo dài ác liệt thêm nhiều năm nữa sau khi Phnompenh đã được giải phóng. Cuộc chiến tranh biên giới 17-02-1979 biến thành xung đột đẫm máu với Trung Quốc trên biên giới phía Bắc nước ta, kéo dài mãi đến năm 1989 mới thực sự kết thúc. Trong khi đó đất nước lâm vào cảnh khốn khó với biết bao nhiêu chuyện đau lòng – từ những đổ vỡ, hy sinh mất mát mới trong nước phải chịu đựng, đến những tang tóc khôn kể xiết rơi vào những người vượt biển phải bỏ đất nước ra đi…

Điểm lại thực tế lịch sử nêu trên để thấy rõ bối cảnh vô cùng phức tạp đất nước ta phải đối phó khi bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ đất nước trong hòa bình. Người Việt Nam ta dù là ai, trong nước, ngoài nước, bất luận tôn giáo, chính kiến, đẳng cấp nào, nếu còn nặng lòng với đất nước nhất thiết phải cùng nhau nghiêm túc rút ra từ khoảng thời gian lịch sử này những bài học không được phép quên. Vì vậy rồi đây sẽ phải đánh giá chuẩn xác và khách quan 15 năm (1975-1989) bi kịch đầy máu và nước mắt sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã kết thúc – không phải chỉ để làm rõ trách nhiệm trước lịch sử, quan trọng hơn là để không vấp lại sai lầm cũ, để làm rõ con đường phải đi phía trước.

Điểm lại như vậy thực tế lịch sử trước khi nói về kinh tế  chỉ muốn xin lưu ý ngay từ đầu:

Trong thập kỷ tới, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước nhất thiết đòi hỏi phải có tầm nhìn thấu đáo cục diện và xu thế của thế giới – với lý tưởng lợi ích dân tộc và lợi ích quốc gia là duy nhất và trên hết, để có đủ trí tuệ và bản lĩnh tạo ra cho đất nước bên trong là sự đồng thuận không gì phá vỡ được, bên ngoài là một bối cảnh hòa bình tối ưu cho phép – bao gồm những mối quan hệ quốc tế thuận lợi có thể tranh thủ được.

Đương nhiên, mỗi người Việt nam được nói tới ở đây, còn món nợ lớn hơn thế đối với Tổ quốc mình trước sau nhất thiết phải trả. Đó là: Phải dũng cảm và nghiêm túc nhìn lại cả chặng đường dân tộc Việt Nam ta đã trải qua từ khi chiến tranh thế giới II kết thúc cho đến nay. Đơn giản vì lẽ: Có dân tộc nào muốn thành công trên con đường trở thành một quốc gia phát triển và văn minh mà không phải nghiêm khắc nhìn lại mình? Lịch sử không làm lại được và có những khúc quanh có không cưỡng lại được, nhưng bài học thì phải rút ra.  Đặt vấn đề như vậy, phải chăng có thể rút ra:

(1)  Nhìn nhận phiến diện thế giới chúng ta đang sống, (2) sự giác ngộ không đúng tầm lợi ích quốc gia trong bối cảnh quốc tế luôn luôn biến động vô cùng phức tạp, (3) sự nô lệ vào ý thức hệ hoặc các niềm tin mù quáng – phải chăng đấy là ba nguyên nhân khởi thủy kìm hãm sự phát triển của đất nước 35 năm qua? Ngày nay còn phải cộng thêm nguyên nhân (4) là sự tha hóa mới trên nhiều phương diện. Suy cho cùng, trước sau đấy vẫn là những vấn đề của trí tuệ, tầm nhìn và ý chí!

Dưới đây xin tập trung nêu ra một vài vấn đề phát triển kinh tế của đất nước trong thập kỷ tới (2011-2020).

1.  Mô hình phát triển theo chiều rộng của kinh tế nước ta hiện nay đã đi trọn vòng đời

Kể từ khi xóa bỏ cơ chế kinh tế bao cấp và bắt tay tiến hành công cuộc đổi mới năm 1986, nước ta thực sự bắt đầu đi vào thời kỳ phát triển trong thời bình. Tính đến nay, chặng đường này trọn một phần tư thế kỷ (nếu lấy năm họp Đại hội toàn quốc ĐCSVN lần thứ XI làm cột mốc).

Trong 25 năm này kinh tế nước ta vận hành theo mô hình tăng trưởng theo chiều rộng: chủ yếu dựa vào (1) khai thác lợi thế so sánh về giá lao động rẻ (trình độ tay nghề thấp, ít hàm lượng kỹ thuật, thậm chí một bộ phận đáng kể là lao động cơ bắp), (2) khai thác tài nguyên thiên nhiên, (3)đẩy mạnh đầu tư từ các nguồn trong nước và nước ngoài cho phát triển một nền kinh tế sử dụng nhiều lao động giá rẻ và tiêu thụ nhiều tài nguyên thiên nhiên, (4) sử dụng lãng phí đất đai và không thân thiện với môi trường.

Từ 10 năm trở lại đây mô hình phát triển theo chiều rộng cho thấy kinh tế nước ta chỉ có tăng trưởng nhờ thâm dụng lao động rẻ và đầu tư mới, hầu như không có phát triển. Thực tế này giải thích tại sao càng đuổi thiên hạ,  khoảng cách tụt hậu của ta cứ xoạc rộng ra mãi.

Nhìn chung mô hình phát triển như thế cho thời kỳ này là cần thiết, nước ta đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao. Tuy nhiên chất lượng tăng trưởng kinh tế thấp và càng về sau càng thấp so với công sức bỏ ra, hoặc so với những cái giá phải trả. Đại hội X đã phê phán tình trạng yếu kém của mô hình phát triển theo chiều rộng[33].

Mối lo lớn nhất là sau ¼ thế kỷ tăng trưởng và phát triển kể từ khi đổi mới, nước ta cho đến nay vẫn chỉ là người cung cấp lao động rẻ, nông phẩm thô, nguyên liệu thô hoặc sơ chế thấp, sản phẩm gia công, sản phẩm chế tạo với hàm lượng công nghệ thấp, đất đai và thị trường nội địa trở thành nơi thu hút FDI chủ yếu cho công nghiệp có hàm lượng công nghệ thấp, gây nhiều gánh nặng cho môi trường tự nhiên và xã hội… Với chiến lược phát triển dựa vào 4 yếu tố như vậy, thế mạnh lớn nhất và nguồn lực nội tại lớn nhất của đất nước là con người Việt Nam không được phát huy. Trên thực tế nước ta đang đi vào xu thế trở thành một nước đi làm thuê và đất nước cho thuê với cả nghĩa đen và nghĩa bóng[34].

Nước ta có kế hoạch hoàn thành công nghiệp hóa vào năm 2020. Nhưng trong 25 năm qua quá trình công nghiệp hóa chủ yếu vẫn dựa vào 4 yếu tố của phát triển vừa nói trên. Vì thế vẫn chưa làm bộc lộ rõ và chưa xác lập được thế mạnh để nền kinh tế nước ta có thể bứt phá trở thành một nước công nghiệp hóa trong một tương lai gần. Cho đến nay cũng chưa xác định được đâu sẽ là chỗ đứng trong tương lai của nền công nghiệp nước ta trong kinh tế thế giới để vươn tới.

Với GDP tính theo đầu người hiện nay đạt khoảng 1000 USD – tăng khoảng 10 lần so với khi bước vào đổi mới, nước ta mới ra khỏi nhóm nước đang phát triển có thu nhập thấp. Hiện tại nền kinh tế nước ta phát triển ở mức thấp trên các phương diện: trình độ lao động, hàm lượng công nghệ, năng lực kinh doanh, năng lực quản lý đất nước, hiệu quả kinh tế, sự phát triển của con người, của văn hóa, xã hội và của toàn bộ hệ thống chính trị… Nhìn chung sau 25 năm nước ta vẫn còn là một quốc gia lạc hậu, vẫn chưa thấy hình hài của một nền kinh tế công nghiệp hóa, càng chưa thể hình dung một quốc gia công nghiệp Việt Nam trong vòng một hai thập kỷ tới sẽ ra sao. Điều này có nghĩa vào năm 2020 nước ta sẽ vẫn còn đứng cách rất xa các chỉ tiêu của một nước được coi là hoàn thành giai đoạn công nghiệp hóa.

Theo IMF, năm 2008 GDP danh nghĩa (nominal) tính theo đầu người của ta là 1040 USD, của Thái Lan là 4115 USD. Để đạt được mức phát triển trên nhiều phương diện như của Thái Lan hiện nay (kết cấu hạ tầng, nhà nước pháp quyền, thu nhập tính theo đầu người, quyền tự do dân chủ của dân…), ước tính nước ta cần 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Song Thái lan hiện nay vẫn chưa được coi là một NIC và vẫn trong tình trạng cứ vài ba năm lại một cuộc đảo chính quân sự. Từ đó có thể suy ra: Tiếp tục  con đường phát triển hiện nay, nước ta hai ba chục năm nữa vẫn chưa thể trở thành một nước công nghiệp hóa.

Theo cách định nghĩa của UNDP và một số viện nghiên cứu trên thế giới, một nước được coi là nước mới hoàn thành công nghiệp hóa (NIC), đại thể phải có các tiêu chuẩn sau đây:

  • Có những chuyển biến cơ bản từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, tỷ trọng lao động trong nông nghiệp chiếm phần nhỏ nhất trong tổng số lao động cả nước, (theo đánh giá của Hội đồng quy hoạch kinh tế và phát triển Đài Loan, sau 25 năm đầu tiên tiến hành công nghiệp hóa, tỷ trọng lao động nông nghiệp ở Đài Loan còn 18%, ở Hàn Quốc còn 12% lao động cả nước), tỷ trọng nông nghiệp trong GDP chỉ còn rất thấp, công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng chủ yếu trong công nghiệp và đã có các tập đoàn kinh tế tham gia vào các “chuỗi” cung ứng hay sản xuất toàn cầu, trong toàn bộ nền kinh tế khu vực dịch vụ vượt khu vực công nghiệp và khu vực nông nghiệp…
  • Có khả năng lớn trong thu hút FDI.
  • Kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường và trong khung khổ của pháp luật.
  • Quyền công dân và các quyền tự do dân chủ khác trong xã hội ngày càng mở rộng. Nhà nước pháp quyền ngày càng phát triển.
  • Có đội ngũ lãnh đạo mạnh và tinh thông.
  • V… v…

Một quốc gia hoàn thành thời kỳ công nghiệp hóa còn phải được nhìn nhận theo các tiêu chí của một xã hội công nghiệp. Đơn giản là rất khó tồn tại một nước công nghiệp hóa trong một thể chế chính trị – văn hóa – xã hội lạc hậu. Trên phương diện này, phải nói nước ta còn khá lạc hậu so với một nước công nghiệp hóa và so với thế giới chung quanh về nhiều mặt: dân trí, tính công khai minh bạch, xã hội dân sự, năng lực + tính trách nhiệm và tính tin cậy được (accountability) của hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước, đặt Hiến pháp và pháp luật lên trên hết, khả năng đề kháng hay khắc phục những tha hóa mới trong quá trình công nghiệp hóa và hội nhập, đặc biệt nghiêm trọng là tình trạng lạc hậu và đi sai hướng của hệ thống giáo dục[35] với những hệ quả lâu dài và khó lường cho tương lai…

Nói một cách hình ảnh: Đến năm 2010, sau ¼ thế kỷ đổi mới, nước ta có lẽ mới chỉ đi được khoảng 1/3 hay một nửa đầu của toàn bộ chặng đường công nghiệp hóa mà thôi.

Từ nay đến năm 2020 có cách nào “đi” hay “bay” nốt 2/3 hay một nửa chặng đường còn lại không?

Trả lời:  Dứt khoát không! Thậm chí “đi” hay “bay” tiếp tục như mô hình phát triển hiện nay, sẽ rất khó có một nước Việt Nam công nghiệp hóa trong vòng ba bốn thập kỷ tới, hoặc không bao giờ![36]

Những điều vừa trình bày trên cho thấy: Nhìn về bất kỳ phương diện nào, nước ta chắc chắn không thể hoàn tất thời kỳ công nghiệp hóa vào năm 2020.

Tóm lại, sau 25 năm công nghiệp hóa, nước ta có một nền kinh tế phát triển theo chiều rộng và còn mang nặng các đặc tính: manh mún, bóc ngắn cắn dài, tranh thủ được cái gì thì làm cái nấy. Nền kinh tế nước ta ngày càng có những mất cân đối lớn, ngày càng đi sâu vào một cơ cấu kinh tế lạc hậu và ô nhiễm môi trường nặng nề! Hơn nữa tính mất cân đối, tính lạc hậu này và tình trạng ô nhiễm môi trường đã tới ranh giới chịu đựng cuối cùng của đất nước, vượt qua nó sớm muộn sẽ dẫn tới đổ vỡ lớn.

Vài ví dụ:

  • Xuất khẩu than, dầu, gạo và nhiều sản phẩm khác đã tới đỉnh của khả năng cho phép, không thể vượt qua được, thậm chí tiếp tục duy trì những cái “đỉnh” này có thể dẫn tới thảm họa (hiện nay đã trù tính phải nhập than từ năm 2012).
  • Ô nhiễm môi trường và sử dụng đất đai lãng phí đã tới mức nguy hiểm, trong khi dân số tiếp tục tăng, ruộng đất ngày càng khan hiếm.
  • Cơ cấu kinh tế lạc hậu và nhiều chính sách kinh tế – xã hội hiện nay không cho phép tận dụng được mọi cơ may mà “cơ cấu dân số vàng”[37] có thể đem lại cho đất nước. Thậm chí “cơ cấu dân số vàng” này có thể biến thành mối đe dọa lớn vì nạn thất nghiệp và sự xuống cấp của xã hội đang ngày càng nghiêm trọng.
  • Những yếu kém về nhiều mặt trong thu hút FDI khiến nước ta về nhiều mặt thực chất đang là nước đi làm thuê và là đất nước cho thuê.
  • Nhập siêu và thâm hụt ngân sách cứ tiếp tục như hiện này sẽ hứa hẹn những đổ vỡ lớn trong tầm tay.
  • Càng nhiều đô thị hiện đại mọc lên do phát triển không đồng bộ (nhất là quy hoạch, luật pháp, năng lực hành chính, các chính sách kinh tế, các ngành dịch vụ, nguồn nhân lực, các ngành cung ứng…) các thất bại và ách tắc càng lớn…
  • Vân vân… Vân vân…

Xin đừng để những lời khen vàng ngọc của nước ngoài về “tính năng động”, về “triển vọng tốt đẹp” của kinh tế Việt Nam, về “khả năng hấp dẫn” của thị trường Việt Nam, “Việt Nam là nền kinh tế đang lên”, về vân vân… ru ngủ chúng ta. Cứ cho những lời khen ấy là thực bụng, thì cũng đừng quên họ nhìn Việt Nam về nhiều mặt đang là thị trường tốt nhất để đưa tới những thứ họ đang không muốn có hay muốn loại bỏ ở nước họ, hoặc những thứ các nơi đang thừa ế và muốn tống khứ! Vinashin, các dự án thép và xi-măng khổng lồ là những ví dụ tiêu biểu, chưa nói đến hàng trăm sân golf….

Những năm 1994-1995 kinh tế nước ta bước vào cuộc khủng hoảng đầu tiên sau 10 năm đổi mới. Nguyên nhân chính là lực đẩy đầu tiên của đổi mới đã làm xong nhiệm vụ của nó, kinh tế bắt đầu có những mất cân đối mới, đầu tư kém hiệu quả, tăng trưởng và xuất khẩu đều giảm, lạm phát tăng cao. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997 ở châu Á xảy ra chậm hơn và không phải là nguyên nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế 1994-1995 ở nước ta (sự thật là nước ta kém nhạy bén nên không tận dụng được một số cơ hội do cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ năm 1997 đem lại).

Vào quý IV năm 2007, kinh tế nước ta bước vào cuộc khủng hoảng lớn lần thứ 2 kể từ khi tiến hành đổi mới. Năm 2007 lạm phát  nhảy vọt lên 12,6%, trong khi đó tốc độ tăng trưởng của năm là 8%; năm 2008 lạm phát bùng lên 19,89% (22,8% theo WB và IMF), trong khi đó tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 6,2%,[38] năm 2009 lạm phát 6,88% và tăng trưởng GDP đạt 5,32% (nguồn: TCTK và Bộ KH&ĐT). Ngoài những nguyên nhân tương tự như cuộc khủng hoảng 1994-1995, cuộc khủng hoảng hiện nay còn do tác động nghiêm trọng của một số chính sách vỹ mô, trước hết trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bùng nổ tháng 9-2008 (nghĩa là chậm gần một năm so với ở nước ta) làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế của nước ta hiện nay trầm trọng thêm, chứ không phải là nguyên nhân. (Tuy nhiên, giá đầu vào rẻ, nên mặt nào đó cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới cũng giúp cho kinh tế trong nước bớt căng thẳng, hầu hết các sản phẩm xuất khẩu của nước ta vẫn tiếp tục giữ được tăng trưởng về khối lượng và nhìn chung kim ngạch xuất khẩu vẫn tăng trong năm 2008 và 2009).

Tình hình phát triển kinh tế 25 năm qua, đặc biệt là những tín hiệu giống nhau của 2 cuộc khủng hoảng nối nhau liên tiếp cho thấy: Mô hình phát triển kinh tế theo chiều rộng  đã đi trọn vòng đời của nó, bắt buộc phải chuyển sang mô hình khác.

2.  Tính hiệu quả và chất lượng của phát triển kinh tế ngày càng thấp.

Hiện tượng này thể hiện tập trung nhất ở chỉ số lạm phát và chỉ số ICOR của nền kinh tế nước ta trong những năm gần đây liên tục tăng cao và thuộc loại cao nhất ở châu Á, đồng thời lạm phát vượt xa mức tăng trưởng. Nói nôm na đấy là hiện tượng: Tiền của công sức bỏ ra ngày càng nhiều, hiệu quả kinh tế thu được có tỷ lệ ngày càng thấp. Kéo dài tình trạng này sẽ kiệt sức.

Biểu 1

Năm Tăng trưởng GDP Tỷ lệ lạm phát Chỉ số ICOR
2006 8,17% 7,7% 5,0 lần
2007 8,48% 12,6% 5,2
2008 6,23% 19,89% (22,87%) 6,9
2009 5,32% 6,88% 8

Nguồn: Thông báo của TCTK cuối tháng 12-2009.

Chú ý: Chỉ số ICOR thời kỳ 2000 – 2006 của nước ta là 5,0. Một số chuyên gia đánh giá chỉ số ICOR của Việt Nam năm 2008 cho toàn bộ nền kinh tế nếu tính đủ là <7, và riêng cho khu vực nhà nước là <8 hoặc 2 con số, trong khi đó của khu vực tư nhân  là 3,2, của khu vực FDI là 5,2.

Các nước trong khu vực Đông Nam Á và Trung quốc chỉ số ICOR của nhiều thập kỷ gần đây, phổ biến là 3 hoặc >3, nghĩa là chỉ số ICOR của nước ta cao gấp rưỡi hoặc gấp đôi so với những nước này.[39]

Theo WB từ tháng 12-2007 đến tháng 6-2008 tài sản thị trường chứng khoán Việt Nam giảm mất 17 tỷ USD – nghĩa là mất một nửa giá trị; lạm phát trong 8 tháng đầu năm 2008 của Việt Nam là 28,3%.

Vân… vân…[40].

Tăng trưởng GDP và ICOR một số quốc gia Đông Á

Quốc Gia Giai đoạn GDP (%) Đầu tư/GDP ICOR
Hàn Quốc 1961-1980 7.9 23.3 3.0
Đài Loan 1961-1980 9.7 26.2 2.7
Indonesia 1981-1995 6.9 25.7 3.7
Thái Lan 1981-1995 8.1 33.3 4.1
Trung Quốc 2001-2006 9.7 38.8 4.0
Việt Nam 2001-2006 7.6 39.1 5.1

Nguồn: World Bank

Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) căn cứ vào 9 tiêu chí chủ yếu là (1) thể chế kinh tế, (2) hệ thống cơ sở hạ tầng, (3) năng lực kinh tế vĩ mô, (4) hệ thống giáo dục và y tế phổ thông, (5) trình độ giáo dục đại học, (6)hiệu quả vận hành của cơ chế thị trường, (7)mức độ sẵn sàng về công nghệ, (8) mức độ hài lòng của doanh nghiệp, và (9) mức độ sáng tạo – để đánh giá năng lực cạnh tranh của các quốc gia.  Đánh giá của WEF cho thấy các năm gần đây nhất là nước ta liên tiếp tụt thứ bậc trong bảng xếp hạng về năng lực cạnh tranh của các quốc gia trên cả 3 phương diện quốc gia, sản phẩm và doanh nghiệp.

Trong số các quốc gia được đem ra so sánh, năm 2006 nước ta xếp hạng thứ 64, năm 2007 xếp hạng  thứ 68, năm 2008 xếp hạng thứ 70; nếu so sánh riêng trong khu vực Đông Á, Việt Nam chỉ đứng trên Philippines và Campuchia (Myanmar chưa được xếp hạng) [41]. Đấy là các tín hiệu rõ nét minh họa thêm tính hiệu quả của nền kinh tế nước ta ngày càng giảm sút.

Hiện nay Việt Nam được liệt vào danh sách các nước đứng đầu thế giới về giá thuê trụ sở văn phòng cho các doanh nghiệp nước ngoài, về chi phí trung gian, về tốn kém thời gian trong xử lí các dịch vụ phục vụ kinh doanh… Bộ Công Thương nước ta cũng thừa nhận tình trạng sử dụng đất đai và tài nguyên ở nước ta rất lãng phí, mức độ tiêu hao năng lượng cho một sản phẩm mới trung bình cao gấp đôi so với Thái Lan, Malaysia…[42].

Các làng ung thư, các dòng sông chết – nhiều vùng kinh tế quan trọng hầu như không còn một con sông nào được coi là không bị ô nhiễm, nạn khan hiếm nước nước và nước sạch cũng như nhiều tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng và đang vượt khỏi khả năng kiểm soát của bộ máy nhà nước. Chất lượng cuộc sống tiếp tục xuống cấp – thể hiện rõ nhất trên lĩnh vực giáo dục và y tế, ách tắc giao thông, ô nhiễm môi trường, tệ nạn quan liêu tham nhũng gia tăng…

3. Càng phát triển, nền kinh tế càng nhiều ách tắc hay mất cân đối mới, thậm chí mất phương hướng phát triển

Những ách tắc này được đặt dưới tên gọi chung là những thắt cổ chai. Đó là những mất cân đối ngày càng gay gắt

  • giữa khả năng đáp ứng của kết cấu hạ tầng và đòi hỏi phát triển của nền kinh tế, giữa sự phát triển yếu kém nguồn nhân lực và đòi hỏi của phát triển kinh tế – xã hội;
  • giữa khả năng quản trị quốc gia và đòi hỏi phát triển của đất nước trong quá trình công nghiệp hóa và hội nhập tình trạng quan liêu và nạn tham nhũng rất nặng nề, khả năng thực thi pháp luật yếu kém..;
  • đặc biệt là tình trạng nhập siêu và tình trạng thâm hụt ngân sách rất nghiêm trọng: Nhập siêu từ năm 2000 ngày càng lớn và được coi là ở mức báo động.  Kể từ năm 1995 đến 2005, nhập siêu của Việt Nam luôn ở mức dưới 5 tỷ USD và ước khoảng 10% GDP;  song đã tăng vọt lên trên 12 tỷ USD vào năm 2007 (gấp 2,4 lần so với năm 2006) và đến hết tháng 9/2008, tổng mức nhập siêu đã lên tới con số 15,8 tỷ USD (ước khoảng trên 20% GDP/năm)…  Nếu phân tích  các quốc gia ta nhập siêu, sẽ thấy bức tranh trầm trọng hơn (chủ yếu từ Trung Quốc và các nước châu Á – là các quốc gia có công nghệ thấp). Thâm hụt ngân sách từ năm 2000 trung bình là 5-6% GDP/năm, riêng năm 2009 dự kiến là 8% GDP/năm (thông báo của TCTK 12-2009 ước là 7%).
  • Mất cân đối  giữa một bên là năng lực và chất lượng thấp trong việc hoạch định chính sách, chiến lược, quy hoạch phát triển.., và một bên là đòi hỏi phát triển mọi mặt đất nước. Tình trạng hiện nay là càng phát triển càng rối và không đồng bộ. Quyết định sáp nhập Hà Tây vào Thủ đô Hà Nội nhưng đến bây giờ chưa có quy hoạch tổng thể thủ đô được mở rộng, quyết định khai thác bauxite ở Tây Nguyên và quy trình triển khai lộn ngược của 2 dự án khai thác bauxite ở Nhân Cơ và Tân Rai là hai ví dụ điển hình của tình trạng rối ren này[43]…Còn nhiều quyết định kinh tế hay dự án khác vội vã,  kém chất lượng với hệ quả khôn lường như vậy. Không thể không đặt câu hỏi: Tại sao những chuyện như thế cứ lặp đi lặp lại qua các năm?
  • vân vân…

Hệ quả lớn nhất của tình trạng này là càng phát triển tích tụ ngày càng nhiều ách tắc và mất cân đối lớn,  phá vỡ mọi chiến lược hay chủ trương phát triển có tính dài hạn.

4.   Một số vấn đề lớn trong quá trình công nghiệp hóa 25 năm qua

4.1. Trên thực tế chưa có một chiến lược công nghiệp hóa?

Đọc lại các văn kiện các Đại hội Đảng VII, VIII, IX và X về công nghiệp hóa – hiện đại hóa, điều đáng chú ý là trong khi các văn kiện này dành nhiều sự chú ý và nêu nhiều yêu cầu cụ thể cho quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa trong công nghiệp hóa, phần bàn về nội dung công nghiệp hóa lại chỉ nêu: không công nghiệp hóa theo  kiểu cũ, cần tận dụng lợi thế so sánh, cần đẩy mạnh hướng về xuất khẩu nhưng chú ý đến thay thế nhập khẩu các sản phẩm tự làm ra có lãi, chú ý thu hút FDI, các chỉ tiêu tăng trưởng của từng kế hoạch 5 năm, và cái đích: vào năm 2020 trở thành một nước công nghiệp hóa (gần đây điều chỉnh là: cơ bản trở thành một nước công nghiệp hóa) theo hướng hiện đại.

Các nghị quyết viết như vậy cho phép rút ra kết luận: Đấy là những chỉ tiêu số lượng cần đạt được của từng kế hoạch 5 năm, một số quan điểm và cái đích mong muốn cho năm 2020, chứ không phải là một chiến lược công nghiệp hóa.

Nhìn lại chặng đường 25 năm công nghiệp hóa, thực tế cho thấy:

(a)  Rất khó nói rằng quá trình công nghiệp hóa của Việt Nam  đã nhất quán đi theo một chiến lược phát triển hay một quan điểm chiến lược rõ rệt nào đã được xác lập, sẽ trở thành một nước công nghiệp hóa ra làm sao? nước Việt Nam công nghiệp hóa sẽ định chiếm chỗ đứng ở đâu trong thị trường kinh tế thế giới? – (thời toàn cầu hóa kinh tế thế giới ngày nay không thể có một quốc gia hay một nền kinh tế công nghiệp hóa mà không trả lời chuẩn xác hai câu hỏi này). Thậm chí có thể nói gần như thiếu hẳn một chiến lược công nghiệp hóa thống nhất và xuyên xuốt các kỳ đại hội Đảng và các nhiệm kỳ với một lộ trình rõ ràng, khiến cho không có được quá trình thực hiện liên tục của một chiến lược, cái đích phải đạt được trở nên mơ hồ, mâu thuẫn, mỗi Đại hội Đảng nói một khác (hiện nay nói là: Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại vào năm 2020![44])

(b) Việt Nam là nước đi sau, có rất nhiều cái bất lợi và cái lợi phải xử lý thỏa đáng – điều này có nghĩa phải tìm ra con đường riêng của mình để không phải lặp lại những sai lầm của các nước đi trước, tránh các nguy cơ trở thành “bải thải công nghiệp” của các nước khác, đồng thời tìm ra cho mình con đường thuận lợi hơn. Thị trường thường chật cứng đối với nước đi sau – vì vậy phải khai thác lợi thế nước đi sau trong việc chiếm lĩnh các thị trường ngách (các “niches”), đi vào các chuỗi cung – ứng trong thị trường thế giới.., mà muốn thế phải có các chính sách giáo dục đào tạo, kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và chính sách đối ngoại… cho phép liên kết, chiếm lĩnh những khâu nào đó trên thị trường thế giới; hiển nhiên 25 năm qua những đòi hỏi này không được đặt ra hoặc không được đặt ra đúng tầm để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa của nước ta[45].

(c) Thiếu hẳn chiến lược, kế hoạch và các quy hoạch cụ thể phát triển kết cấu hạ tầng đi song song hoặc đi trước một bước mở đường cho sự tiến triển của công nghiệp hóa với nội dung khai thác thị trường ngách và chiếm thị trường mới.

(d) Thiếu hẳn chiến lược phát triển nguồn nhân lực mà sự nghiệp công nghiệp hóa / hiện đại hóa đất nước đòi hỏi, thậm chí có thể nói hệ thống giáo dục và chính sách phát triển nguồn nhân lực hiện nay là hoàn toàn bất cập, trực tiếp gia tăng sự tụt hậu của đất nước và để lại nhiều hệ quả lâu dài.[46]

(e) Chỉ đề ra yêu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế với nội dung thay đổi tỷ trọng các khu vực kinh tế (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ), song không kèm theo các chính sách vỹ mô thực hiện thay đổi cơ cấu kinh tế về chất lượng; do đó về cơ bản toàn bộ kinh tế vẫn tăng trưởng theo số lượng, hiệu quả và tính bền vững nhìn chung thấp.  Đại hội Đảng đều phê phán tình trạng cơ cấu kinh tế chuyển đổi chậm, nhưng đến nay chưa có kế sách gì đảo ngược tình hình này.

(f) Do chiến lược công nghiệp hóa không rõ ràng và do cách điều hành kinh tế vỹ mô theo kiểu phân cấp (trên thực tế là phân tán và manh mún), dẫn tới hình thành từ hàng chục năm nay “nền kinh tế GDP tỉnh” với nhiều hệ quả trầm trọng. Trên thực tế  công nghiệp hóa ở nhiều tỉnh được hiểu là thi đua mở các khu công nghiệp, khai thác tài nguyên không tái tạo được, phát triển ồ ạt các sản phẩm thượng nguồn (trong đó phần lớn là nguyên liệu thô). “Nền kinh tế GDP tỉnh” cùng với các tập đoàn kinh tế nhà nước hoạt động theo kiểu độc quyền khiến cho quá trình công nghiệp hóa bị phân khúc hay xé lẻ trên nhiều phương diện, đồng thời đẻ ra nhiều hệ quả chính trị, xã hội, văn hóa rất khó khắc phục.

(g) Đặc biệt nghiêm trọng là các Đại hội đều thừa nhận cải cách chính trị không đi kịp với đòi hỏi của phát triển kinh tế và xã hội, do đó chẳng những không thúc đẩy mạnh mẽ quá trình công nghiệp hóa, không phát huy được cái mạnh và những thuận lợi của đất nước – nhất là nguồn lực con người, thậm chí làm cho quá trình công nghiệp hóa chậm lại và diễn ra trong bối cảnh quan liêu tham nhũng ngày càng nặng nề. Sự lạc hậu của thể chế chính trị đang tiếp tục làm trầm trọng thêm tình trạng lạc hậu của thể chế kinh tế, khiến cho toàn bộ hệ thống chính trị và bộ mày nhà nước ngày càng bất cập trước những đòi hỏi phát triển của một quốc gia trong quá trình công nghiệp hóa, Tình trạng bất cập này và tệ nạn quan liêu tham nhũng ngày nay một mặt trở thành rào cản chính của quá trình công nghiệp hóa đất nước, mặt khác là cha đẻ của các quyết sách làm chệch hướng hay kéo lùi quá trình công nghiệp hóa.[47]

(h) vân… vân…

Tất cả những điều vừa trình bày toát lên một sự thật: Nước ta sau 25 năm trên thực tế vẫn chưa có một chiến lược công nghiệp hóa đúng với cái tên gọi của nó. Quá trình công nghiệp hóa 25 năm qua trên thực tế  chủ yếu do sự lôi kéo, dẫn dắt tự thân của cuộc sống và tác động của đầu tư và dòng vốn từ bên ngoài (nghĩa là mang tính cơ hội rất cao), nhiều hơn là do chủ động thúc đẩy theo một hướng chiến lược được xác lập của thể chế chính trị và do sự giác ngộ với tầm nhìn sắc bén của những người lãnh đạo. Đã thế,  quá trình công nghiệp hóa này lại diễn ra trong tình hình thể chế chính trị không theo kịp. Cần nói ngay, phát triển như thế đang ngày một gây ra ách tắc và rối loạn, dẫn tới sự lệ thuộc ngày càng nguy hiểm. Gạt mọi chuyện lý lẽ sang một bên, điều đặc biệt quan trọng là dù có hay không có chiến lược, mục tiêu hoàn thành công nghiệp hóa vào năm 2020 là không khả thi.

4.2. Hai vấn đề lớn trong xu hướng công nghiệp hóa hiện nay của đất nước

Một là: Vai trò con người trong công nghiệp hóa

Các Đại hội Đảng đều nhấn mạnh đến phát huy nội lực. Song quan điểm đúng đắn này lại được hiểu theo một nghĩa rất hẹp: Cái gì tự làm được thì cố làm bằng vốn liếng, sức lực của chính mình (trên thực tế rất gần với nội dung “tự cung tự túc”). Trong khi đó 25 năm công nghiệp hóa qua chưa đặt ra vấn đề phát huy nội lực trước hết có nghĩa là phát huy lợi thế và nguồn lực lớn nhất của  nước ta là con người Việt Nam.

Quan điểm chiến lược phát huy thế mạnh và nguồn lực lớn nhất của đất nước là con người có ý nghĩa cực kỳ quan trọng và quyết định nội dung cho toàn bộ quá trình công nghiệp hóa của nước ta cho đến khi tới đích hoàn thành công nghiệp hóa và cho các giai đoạn phát triển đất nước sau đó. Quan điểm chiến lược này cho đến nay vẫn chưa hình thành. Chính vì lẽ này, đến nay nước ta vẫn thiếu hẳn một chiến lược phát triển con người và chưa có được một thể chế chính trị – xã hội phù hợp với yêu cầu phát triển con người để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa.

Các Đại hội Đảng nhấn mạnh coi con người là trung tâm, song lại hiểu vấn đề này chủ yếu là đối tượng phục vụ – theo những khía cạnh phát triển giáo dục, văn hóa, xã hội. Ngay quan điểm này cũng chưa làm được bao nhiêu, chưa thể nói con người đã trở thành trung tâm phục vụ của mọi chính sách phát triển kinh tế xã hội. Chưa đặt ra vấn đề phát triển con người thành chủ thể, thành nguồn lực lớn nhất, và là động lực quyết định của quá trình công nghiệp hóa. Càng chưa thể nói là con người với tính cách là công dân của đất nước được phát triển thành người chủ của đất nước, của hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước. Trong khi đó nhiều quyền và quyền lợi của người dân bị vi phạm, nhiều trường hợp bị vi phạm nghiêm trọng.

Xin nhấn mạnh (a) quan điểm coi con người là trung tâm như ghi trong các nghị quyết của Đảng và (b) quan điểm phát huy con người với tính cách là thế mạnh và nguồn lực lớn nhất của đất nước cho sự nghiệp công nghiệp hóa như vừa trình bày trên là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.

Các Đại hội Đảng VII và VIII nhấn mạnh không công nghiệp hóa theo kiểu cũ. Song như đã trình bày trên, trong thực tế công nghiệp hóa diễn ra 25 năm qua chủ yếu dựa trên 4 yếu tố (1) lao động rẻ, (2)khai thác tài nguyên thiên nhiên, (3) đẩy mạnh tăng trưởng nhờ đầu tư, (4) sử dụng đất đai và tiêu hao môi trường – thực chất đấy là công nghiệp hóa theo tư duy cũ và kiểu cũ, bởi lẽ thế mạnh và nguồn lực lớn nhất của đất nước trong thời đại mới ngày nay là con người hầu như không được tính đến thỏa đáng (chỉ mới chú trọng đến lao động dư thừa và giá rẻ). Cũng vì lẽ này tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ đưa vào nền kinh tế nước ta rất chậm, mặc dù nước ta ngày nay đang ở trong thời đại thông tin.

Hai là: Sa đà vào kinh tế thượng nguồn

Càng phát triển, quá trình công nghiệp hóa 25 năm qua có khuynh hướng càng đi sâu vào kinh tế thượng nguồn: khai thác khoáng sản và các tài nguyên thiên nhiên khác, phát triển sản phẩm thô, giá trị gia tăng rất thấp, duy trì công nghệ lạc hậu, cái giá phải trả cho hủy hoại môi trường tự nhiên và môi trường xã hội rất cao… Đặc biệt là trong các “nền kinh tế GDP tỉnh”, hầu như tất cả các tỉnh có khoáng sản và tài nguyên thiên nhiên thì đều coi đấy là thế mạnh của mình và ra sức khai thác bừa bãi; có nơi Thủ tướng đã phải ra lệnh đình chỉ.

Phát triển kinh tế thượng nguồn là điều khó tránh khỏi ban đầu đối với một nước nghèo và lạc hậu. Song sai lầm là ở chỗ muốn lấy phát triển kinh tế thượng nguồn làm cú hích và nguồn tích tụ vốn cho công nghiệp hóa, thậm chí coi kinh tế thượng nguồn là một nội dung quan trọng, là thế mạnh của công nghiệp hóa. Tại nhiều tỉnh trong nước đã và đang xảy ra phát triển kinh tế thượng nguồn với bất kỳ giá nào, thậm chí có nơi chủ yếu là để gây thành tích, phục vụ yêu cầu “giữ ghế” hay “chạy ghế”. Phát triển như vậy còn là hệ quả của tư duy lười biếng, dốt nát, đẽo gọt đất nước – song trên mặt nhiều báo cáo các kỳ đại hội các đảng bộ tỉnh được coi đây là thành tích!

Sai lầm này 25 năm qua rất trầm trọng, vì tại nhiều nơi khoáng sản và các tài nhiên thiên nhiên khác đã được khai thác đến cạn kiệt, hủy hoại môi trường, chỉ để tiêu thụ lao động cơ bắp, có nơi chủ yếu để phục vụ xuất khẩu nguyên liệu hay sản phẩm thô sang Trung Quốc.

Phát triển kinh tế thượng nguồn và các sản phẩm hàm lượng chế biến thấp là điểm nổi bật nhất của mô hình phát triển theo chiều rộng 25 năm qua.

4.3. Sơ bộ đánh giá một số hệ quả

Để thấy rõ triển vọng nguy hiểm của công nghiệp hóa theo mô hình phát triển theo chiều rộng, dưới đây xin nêu ra một số vấn đề:

  • Các xí nghiệp xi-măng, luyện thép đã có, đang xây dựng, hoặc đã được cấp phép xây dựng sẽ dẫn tới tình hình nước ta vào năm 2020 sẽ dư thừa khoảng một chục triệu tấn xi măng/năm và khoảng hai chục triệu tấn thép/năm trong tình trạng đất nước ngày càng thiếu năng lượng gay gắt. Phải chăng mục tiêu công nghiệp hóa của nước ta như vậy là để trở thành cường quốc xi-măng và thép thô trong thế kỷ 21 này? Sắp tới còn xuất hiện công nghiệp bô-xít để sơ chế ra nguyên liệu sơ chế alumin trên Tây Nguyên với nhiều hệ quả trầm trọng, bất chấp sự phản đối sâu rộng của dư luân khắp nơi trong nước. Hoàn thành những dự án đã triển khai hay đã được phê duyệt, đến năm 2020 tình hình hứa hẹn cảnh quan môi trường tự nhiên nhiều vùng của đất nước sẽ bị “mặt trăng hóa”; kinh tế nước ta sẽ đổ vỡ, vì bị chính xi-măng và thép thô kém khả năng cạnh tranh của chúng ta đè bẹp; riêng alumin sẽ đem lại cho đất nước không phải chỉ sự tàn phá Tây Nguyên và các vùng chung quanh mà cả sự lệ thuộc mới...[48] Trong khi  một số ngành quan trọng có hàm lượng công nghệ cao như công nghiệp ô-tô, công nghiệp điện tử… có thể được coi là thất bại, nước ta lại nhập về công nghiệp chế tạo cơ khí nặng như đóng tàu đang thua lỗ… Công nghiệp hóa như vậy nguy cơ trở thành bãi thải công nghiệp rất lớn.
  • Vào năm 2015 trở đi, nước ta sẽ thiếu năng lượng trầm trọng và phải nhập khẩu, trong khi đó xuất khẩu than và dầu của nước ta xuốt 25 năm qua hầu như bỏ qua tương lai của đất nước! Năm 2012 đã tính đến phải nhập than với khối lượng rất lớn. Phát triển thủy điện đã vượt qua cái ngưỡng cho phép và ngày càng gây ra nhiều hệ quả nghiêm trọng.[49] Trong khi đó nhà nước lại thiếu hẳn việc nghiêm khắc rà xoát, đánh giá lại chính sách năng lượng quốc gia hiện nay, thiếu hẳn những nỗ lực xử lý nghiêm khắc và khắc phục tình trạng lãng phí và thất thoát năng lượng quá lớn đang diễn ra hàng chục năm nay. Gần đây trên phương tiện truyền thông rộ lên dự án khai thác than bùn đồng bằng Bắc Bộ thật hãi hùng! Đối mặt với tình trạng thiếu hụt năng lượng ngày càng nghiêm trọng của đất nước, lãnh đạo quyết định xây dựng một lúc hai nhà máy điện hạt nhân gồm 4 lò phản ứng ở Ninh Thuận không phải loại công nghệ tiên tiến nhất (mặc dù nước ta là nước đi sau), với nhiều rủi ro còn đang bàn cãi chưa ngã ngũ[50]. Tình hình cho thấy vấn đề năng lượng của quốc gia không thể giải quyết đối phó tình thế theo kiểu “ngứa đâu gãi nấy!”, “vớ được gì làm nấy!” (nghĩa là chịu tác động của chủ nghĩa cơ hội và các hoạt động lobby)… Trên thực tế cho đến nay vẫn chưa có một chiến lược năng lượng được cân nhắc thấu đáo, nghiêm cẩn.
  • Nếu đánh giá nghiêm túc chi phí/lợi ích (cost/benefit), bao gồm cả những chi phí bắt buộc cho khắc phục những tác động ngoại vi của việc khai thác than, hoàn trả môi trưởng tự nhiên nơi khai thác, sự thất thoát hàng chục triệu tấn than lậu/năm, sự tàn phá môi trường tự nhiên trong vùng, đánh giá cái được và cái mất so với đòi hỏi của chiến lược năng lượng quốc gia, vân… vân… khó có thể coi việc khai thác mỗi năm khối lượng càng lớn than ở Quảng Ninh là môt thành tựu kinh tế. Đúng hơn nên coi đó là một thất bại kinh tế lớn và một sai lầm về chiến lược năng lượng – không phải do chủ trương khai thác than, mà do năng lực quản lý và hiệu quả kinh tế yếu kém; đặc biệt quan trọng là do thiếu hẳn một chiến lược năng lượng quốc gia được xác định với những luận cứ vững chắc làm cơ sở cho việc khai thác. Thậm chí còn có thể coi việc khai thác than Quảng Ninh như vừa qua trong khi đất nước ngày càng khan hiếm năng lượng là ví dụ điển hình nhất trong nhiều ví dụ của tình trạng “bóc ngắn cắn dài” tài nguyên quốc gia, các thế hệ tương lai sẽ phải trả giá![51] Trong cả nước còn có nhiều công trình khai thác titan, khai thác đồng, khai thác các khoáng sản khác… hầu hết chỉ để cho xuất khẩu nguyên liệu, với những hệ quả xấu tương tự.
  • Rừng phòng hộ và rừng tự nhiên ngày càng bị trọc hóa và chỉ còn lại rất ít; đặc biệt là rừng đầu nguồn đã rất ít mà còn đang tiếp tục bị xâm phạm nghiêm trọng. Lũ lụt ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn và khó khắc phục hơn. Đất đai bị xói mòn và sa mạc hóa cùng với tình trạng chất lượng thổ nhưỡng ngày càng xuống cấp với tốc độ rất đáng lo ngại. Riêng cơn bão Ketsana 26-09-2009 vừa qua gây ra lũ lụt lớn nhiều nơi ở Tây Nguyên còn là lời cảnh báo nghiêm khắc đối với việc khai thác bauxite ở Tây Nguyên – nhất là đối với các hồ chứa chất thải bùn đỏ nhiễm hóa chất độc dự kiến sẽ được xây dựng ở vùng này! Xin hãy đến tận nơi các khu khai thác này, dù là titan ở dọc bờ biển miền Trung, dù là những  cánh rừng nham nhở do khai thác quặng sắt ở Lào Cai để xuất khẩu sang Trung Quốc, các vùng khai thác vàng bừa bãi ở Bắc Kạn, Quảng Nam, Bình Thuận… – mà chủ yếu là khai thác lậu, những dòng sông chết, những con sông  bị đổi dòng và đôi bờ sụt lở do bán cát, những cánh đồng hoang do các dự án treo… để nhìn tận mắt đất nước đang bị băm vằm và ô nhiễm như thế nào!
  • Xin hãy đối chiếu thực tế nêu trên với quan điểm ghi trong nghị quyết Đại hội X: “Căn cứ vào nguồn lực và hiệu quả, Nhà nước tập trung đầu tư hoặc hỗ trợ đầu tư để phát triển những sản phẩm quan trọng của nền kinh tế như lọc hóa dầu, khai thác quặng và luyện thép, phân bón, hóa chất, xi-măng, khai thác bô-xít và sản xuất alumin, bột giấy gắn với trồng rừng và một số sản phẩm cơ khí chế tạo” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc khóa X, trang 197-198)
  • Vân… vân…

Nhìn dài hạn đến năm 2020, hoặc 2030.., có thể nói ngay từ bây giờ nếu không có quyết tâm thay đổi hẳn tư duy về phát triển để hướng mạnh vào phát triển bền vững chủ yếu dựa vào phát huy nguồn lực con người, nếu không đảo ngược được xu thế phát triển như đang diễn ra, nếu cứ tiếp tục phát triển theo hướng xâm phạm môi trường tự nhiên, bóc lột các nguồn tài nguyên không tái tạo được một cách không thương tiếc, viễn cảnh của nước ta thật rất đáng lo ngại! Các thế hệ con cháu chúng ta sẽ phải trả giá rất đắt. Trong khi đó tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu ngày một gay gắt, nhất là đối với nước ta.[52]

5.   Vấn đề nông dân trong quá trình công nghiệp hóa hiện nay

Nghị quyết 26 Hội nghị Trung ương 7 khóa X ban hành ngày 05-08-2008 viết:

“Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được thành tựu khá toàn diện và to lớn. Nông nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia; một số mặt hàng xuất khẩu chiếm vị thế cao trên thị trường thế giới. Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề; các hình thức tổ chức sản xuất tiếp tục đổi mới. Kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội được tăng cường; bộ mặt nhiều vùng nông thôn thay đổi. Ðời sống vật chất và tinh thần của dân cư ở hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện. Xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả to lớn. Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng cường. Dân chủ cơ sở được phát huy. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Vị thế chính trị của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao.

Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và chưa đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt nguồn lực cho phát triển sản xuất; nghiên cứu, chuyển giao khoa học – công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ, phân tán; năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng thấp. Công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề phát triển chậm, chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn. Các hình thức tổ chức sản xuất chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh sản xuất hàng hóa. Nông nghiệp và nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội còn yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm; năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn nhiều hạn chế. Ðời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa; chênh lệch giàu, nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc.”

Đấy là bức tranh khái quát trong văn kiện chính thức của Đảng về tình hình nông nghiệp, nông dân và nông thôn nước ta hiện nay (theo cách nói “tam nông”) – đương nhiên vẫn theo cách nhìn so ta bây giờ với ta trước đây và còn bỏ qua nhiều vấn đề hệ trọng khác trong nông thôn.

Trước khi nêu một số vấn đề cụ thể cần đặc biệt quan tâm, xin nhấn mạnh là nông nghiệp nước ta nói chung, đặc biệt là nông dân nước ta nói riêng, đã góp phần cực kỳ quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trên mọi phương diện: đảo ngược tình thế nguy hiểm của đất nước, mở đầu và tạo đà cho toàn bộ công cuộc đổi mới phát triển, bảo đảm an ninh lương thực và an ninh chính trị, tạo ra tiềm lực mới cho đất nước, mở rộng thị trường kinh tế đối ngoại, tăng cường khả năng hội nhập của đất nước trong giai đoạn đất nước còn nghèo và nền kinh tế còn chậm phát triển…

Đặc biệt cần nhấn mạnh sự đóng góp của nông dân có ý nghĩa rất to lớn và vô cùng quan trọng. Chính những thành tựu này cho thấy vai trò của nông dân và nông nghiệp trong quá trình phát triển đất nước – cụ thể ở đây là trong quá trình công nghiệp hóa/hiện đại hóa và trong hội nhập kinh tế thế giới chưa được nhận thức đúng tầm, dẫn đến những yếu kém và tồn tại lớn như đã nêu trong NQTƯ 26 khóa X.

Nông dân là quân chủ lực của các cuộc kháng chiến đầy hy sinh gian khổ, có những đóng góp có ý nghĩa rất to lớn và vô cùng quan trọng trong suốt 25 năm đổi mới vừa qua như trên đã nói,  nhưng hiện nay lại là thành phần xã hội đang chịu nhiều thiệt thòi nhất trong quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá và hội nhập kinh tế thế giới. Một bộ phận nông dân vượt qua được tác động của quá trình này và tìm được con đường sản xuất kinh doanh dẫn tới một cuộc sống khá giả hơn; song bộ phận này chỉ chiếm một tỷ lệ khiêm tốn ở nông thôn.

Các chính sách hiện hành và việc thực thi chúng cho thấy không thể ngăn chặn tình trạng bần cùng hoá vẫn tiếp tục diễn ra đối với bộ phận nông dân bị tác động trực tiếp. Nhìn chung, khoảng cách thu nhập của nông dân – đặc biệt là của của bộ phận nông dân bị tác động trực tiếp của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa – đang gia tăng ngày càng nhanh, dẫn đến nhiều hệ quả khác nhau của phân hóa xã hội. Chất lượng cuộc sống của họ, các quyền lợi về giáo dục, y tế, các phúc lợi xã hội khác của họ trên thực tế ngày càng giảm sút so với sự tăng trưởng và phát triển của kinh tế cả nước. Mặt khác nông dân cũng là nạn nhân chính của thiên tai, dịch bệnh (cho người và cho nông nghiệp), tình trạng môi trường tự nhiên bị tàn phá, nạn lạm phát và nhiều tác động khác của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa cũng như của tình trạng quan liêu tham nhũng nói chung (ở nông thôn rất nặng so với thành thị) [53].

Cần đặc biệt lưu ý là sự biến động của thị trường và giá cả (được mùa rớt giá, được giá mất mùa..; hiện tượng nông dân bị ép mua ép bán <đầu vào – đầu ra>, hiện tượng lúc phải chặt loại cây này, lúc phải bỏ chăn nuôi kia với nhiều tổn thất lớn cho nông dân…) gần như trở thành thách thức thường xuyên đối với nông dân. Họ hầu như không có khả năng gì đáng kể để tự bảo hộ, để tự đối phó với những thách thức này. Có thế nói họ hầu như bị bỏ mặc, trong khi đó sự bảo hộ và những hậu thuẫn từ phía nhà nước và các cơ quan chức năng có thể xem như muối bỏ bể. Một ví dụ trong trăm ngàn ví dụ: Hàng chục năm nay nông dân Nam bộ là chủ lực trong xuất khẩu gạo, song đến nay vẫn chưa có cách gì thỏa đáng giảm thiểu sự thiệt hại khá lớn trong thu hoạch mùa màng, thiếu nghiêm trọng các silo cất giữ lúa, đầu vào và đầu ra cho sản xuất của họ bị tư thương và thậm chí của cả các công ty quốc doanh ép giá… Trong khi đó các hiện tượng như ô nhiễm môi trường, thiên tai dịch bệnh, các hệ quả của biến đổi khí hậu, cường độ canh tác, việc sử dụng ngày càng nhiều hoá chất, sự khan hiếm nước và nguồn nước sạch… ngày càng trầm trọng. Thực tế này khiến cho sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi ngày càng rủi ro, bấp bênh, làm nghiêm trọng thêm tình trạng bần cùng hoá nông dân, cản trở sự phát triển nông nghiệp bền vững.

Cần lưu ý, tình trạng bần cùng hóa nông dân cùng với nhiều thiệt thòi khác của nông thôn (nhìn chung còn rất lạc hậu) tự nó đang xâm hại nghiêm trọng hay tước bỏ nhiều quyền của người nông dân. Đầu tiên phải kể đến: học hành mở mang trí tuệ, tiếp cận với tri thức và công nghệ, quyền thụ hưởng các phúc lợi xã hội khác… nhằm nâng cao đời sống kinh tế cũng như nâng cao quyền năng của chính mình trong xã hội. Đấy là những điều kiện hàng đầu để người nông dân tự bảo vệ được mình và tìm đường thoát khỏi cái nghèo và  lạc hậu. Song những điều kiện hàng đầu này thường xuyên bị cái nghèo và bất công cướp đi, khiến cho cái nghèo và lạc hậu của họ trở thành truyền kiếp. Sự thiếu vắng của xã hội dân sự và nhà nước pháp quyền trong nông thôn làm cho tình trạng này của họ trầm trọng thêm. Tất cả giải thích vì sao sau 25 năm công nghiệp hóa mà nông thôn nước ta nhìn chung vẫn rất lạc hậu, chỉ cần bước chân ra khỏi thành phố là có thể thấy tận mắt. Trong khi đó khoảng 70-80% các vụ khiếu kiện hàng năm trong cả nước trước hết là của nông dân.

Thực tế vừa nói trên đặt ra nhiều thách thức mới trong tương lai – nhất là trong tình hình nước ta ngày càng chật, người ngày càng đông: nước ta có dân số đứng thứ 12 trên thế giới, mật độ dân số nước ta cao gần gấp 5 lần mức của thế giới, gấp 2,5 lần các nước Đông Nam Á, gấp 2 lần Trung Quốc…  Trong khi đó nguy cơ sa mạc hóa trong đất liền, nguy cơ biển lấn đất và nhiễm mặn, các thiên tai khác do hệ quả của hiệu ứng nhà kính và biến đổi khí hậu ngày càng lớn.

Tại nhiều vùng nông nghiệp rộng lớn của nước ta cứ 1 ha đồng ruộng bị chuyển đổi mục đích sử dụng cho công nghiệp hoá và đô thị hoá khiến cho 20 – 30 nông dân mất việc làm và và 3 – 4 hộ mất kế sinh nhai. Trong khi đó tốc độ chuyển dịch ngành nghề cho nông dân diễn ra rất chậm, sau 25 năm đổi mới và tiến hành công nghiệp hoá tỷ trọng lao động nông nghiệp vẫn chiếm trên 60% lao động cả nước. Cho đến nay mới chỉ có 28% lao động cả nước được đào tạo về nghề nghiệp, tỷ lệ này trong nông dân còn thấp hơn nhiều lần. Thực tế này là nguồn gốc nhiều hiện tượng xã hội đau lòng, trước hết là nạn thất nghiệp, các “chợ vợ” cho người nước ngoài, nạn mãi dâm, tình trạng bán cả cơ nghiệp và tài sản tìm đường đi lao động ở nước ngoài với nhiều cơ cực và bị lừa gạt… Tình trạng khiếu kiện đất đai nóng bỏng từ hàng thập kỷ nay, sắp tới sẽ còn quyết liệt hơn khi phải dành một diện tích đáng kể cho phát triển đường xá và các công trình kinh tế khác. Trong khi đó thiếu hẳn một quy hoạch tổng thế cho cả nước có khả năng đón đầu sự phát triển này và giảm bớt những tổn thất.

Nông dân các dân tộc ít người ở các vùng núi còn phải chịu đựng nhiều thiệt thòi hơn, do rừng núi vốn là quê hương lâu đời, không gian sinh tồn và không gian văn hoá của họ đang ngày càng bị lấn chiếm. Nạn phá rừng bừa bãi của các công ty và lâm tặc, việc lấn đất lấn rừng, làm lâm trường, làm kinh tế trang trại… cùng với tình trạng nhập cư ồ ạt đang uy hiếp ngày càng nặng nề sự tồn tại và tương lai các tộc ít người ở nước ta. Còn quá nhiều vấn đề tồn tại trong việc tái định cư và ổn định cuộc sống cho đồng bào các tộc ít người phải di dời đi nơi khác do những công trình thủy điện đã  hoàn thành hoặc đang xây dựng… Nên đến tận nơi các công trình thủy điện chi chít miền Trung để thấy tận mắt cảnh quan và môi trường tự nhiên, những cánh ruộng và đất đai trồng trọt vô cùng quý giá tại đây, môi trường xã hội, quê hương văn hóa bản địa… của đồng bào các tộc ít người ở đây bị tàn phá, bị cướp đi như thế nào!

Nhìn chung, những nỗ lực bỏ ra cho việc cải thiện đời sống kinh tế – văn hoá – xã hội đối với đồng bào các tộc ít người là to lớn so với tình hình đất nước còn nghèo, song không đảo ngược được xu thế nói trên – trong đó nguyên nhân chính lại là sự yếu kém về năng lực và phẩm chất của chính quyền các cấp. Tình hình đang trở nên đặc biệt nghiêm trọng trong việc khai thác bauxite ở Tây Nguyên. Nhà văn Nguyên Ngọc cảnh báo: “Chấp nhận chương trình này (khai thác bauxite Tây Nguyên) là chúng ta chấp nhận không còn Tây Nguyên, không còn cái mái nhà phải giữ cho kỳ được để đảm bảo phát triển bền vững, không chỉ cho Tây Nguyên mà cho cả nước; là chấp nhận phát triển bằng bất cứ giá nào, chấp nhận hy sinh tương lai cho hôm nay. Cũng là không còn coi trọng sự tồn tại của các tộc người bản địa như những thực thể văn hoá xã hội từng là chủ nhân của vùng đất có ý nghĩa sinh tử này của tổ quốc ta.”

Làng nghề (nói cho đúng hơn ở nhiều nơi là nghề riêng của làng) và kinh tế trang trại là hai hình thái kinh tế có khả năng lớn trong việc thu hút lao động ở nông thôn, bao gồm cả việc chuyển đổi nghề nghiệp cho một bộ phận nông dân nhất định.  Hai hình thái kinh tế này trong những năm qua phát triển mạnh, góp phần tích cực thay đổi bộ mặt nông thôn. Song sự phát triển này chủ yếu do sự vận động tự thân của nông thôn tìm đường tự cứu mình và phát triển chính mình, không thể tránh khỏi những hậu quả đặc thù của tình trạng tự phát. Chính sách của nhà nước và những khuyến khích hay hậu thuẫn cần thiết phải có cho hai hình thái kinh tế này tuy đã làm được một số việc rất khiêm tốn, nhưng vẫn còn nhiều bất cập, thậm chí nhiều địa phương còn tồn tại một số rào cản – có nghĩa trên thực tế là không khuyến khích.

Một vấn nạn chưa có giải pháp là tổn thất lớn hàng năm về người và của, về môi trường đất đai do thiên tai gây ra, lặp đi lặp lại trong một số vùng nhất định. Thực tế này cho thấy đang thiếu hẳn một chủ trương chiến lược giảm thiểu dần những tổn thất và hậu quả của thiên tai – bao gồm cả việc di dời hoặc quy định lại những vùng dân cư nhất định mà thiên tai thường xuyên lặp lại, từng bước kiên cố hóa  lâu dài, hay hiện đại hóa một số những công trình nhất định thuộc hệ thống phòng chống thiên tai… Hiện nay vẫn chưa hình thành được những quan điểm hay chủ trương chiến lược dự phòng, các công việc phải triển khai ngay từ bây giờ trở đi cho tình huống vào những năm 2030, 2050…

Nước ta là một nước nông nghiệp, nhưng cho đến nay thực sự đang thiếu hẳn một chiến lược phát triển nông nghiệp bền vững và hài hoà với quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá. Thực tế đang diễn ra một quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá – kể cả hiện tượng xây dựng bừa bãi các sân golf[54] – ngày càng gây ra nhiều gánh nặng mới cho nông dân và nông thôn.

Nông nghiệp bền vững

Dựa vào kinh nghiệm của các nước đi trước, có thể nói:

Nông nghiệp bền vững nhìn về nhiều phương diện thực chất là một cuộc cách mạng nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, là một bộ phận hữu cơ của quá trình công nghiệp hóa.

Là nước đi sau, hướng tới một nền nông nghiệp bền vững là hướng tới việc từng bước đưa vào nông nghiệp những thành tựu mới nhất của tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, những thành tựu mới của văn minh nhân loại – kể cả trong lĩnh vực tổ chức, quản lý việc canh tác, kinh doanh.., – là quy hoạch lại phát triển nông nghiệp, xắp xếp lại nông thôn, tổ chức lại quản lý nông thôn, xây dựng đời sống tinh thần và văn hóa mới trong xã hội nông thôn… -,.., tất cả nhằm tạo ra lợi thế phát triển tối ưu chung cho toàn bộ nền kinh tế của đất nước…

Cốt lõi của phát triển nông nghiệp bền vững là (1)phát triển được nguồn lực con người trong nông nghiệp, (2)tạo ra được nền nông nghiệp có năng xuất và hiệu quả kinh tế cao, (3)nền nông nghiệp có khả năng gìn giữ và tái tạo được độ phì nhiêu của đất đai, (4)nền nông nghiệp có khả năng góp phần quyết định gìn giữ môi trường tự nhiên của quốc gia, (5)nền nông nghiệp có khả năng đóng góp tốt nhất vào phát huy lợi thế so sánh của quốc gia trong nền kinh tế toàn cầu hóa của thế giới…

Một nền nông nghiệp cao như thế, có nhiều hàm lượng khoa học, kỹ thuật và công nghệ như thế, sẽ làm mờ đi ranh giới giữa nông nghiệp và công nghiệp, và vì lẽ này nó trở thành một bộ phận hữu cơ của toàn bộ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Lợi thế về nông nghiệp của nước ta rất lớn, song rất cần một chiến lược phát triển nông nghiệp bền vững như thế để phát huy, để góp phần tăng thêm thế mạnh cho đất nước. Đặt vấn đề như vậy rồi đối chiếu với chính sách hiện hành và các việc đang làm, sẽ thấy nhiều việc phải làm khác đi, nhất là sẽ thấy tính bức xúc của việc xây dựng chiến lược phát triền nông nghiệp bền vững.

Hướng về một nền nông nghiệp bền vững như thế là nhiệm vụ quốc gia phải phấn đấu xuốt cả một thế hệ con người, hoặc thậm chí của vài thế hệ, và hoàn toàn không thể tiếp cận bằng những quan điểm “giai cấp”, “quan hệ sản xuất”, “ý thức hệ”… đang chi phối đường lối chính sách hiện hành đối với phát triển nông nghiệp.

Còn phải chờ xem những chủ trương chính sách mới đề ra gần đây cho về vấn đề “tam nông” (Nghị quyết 26, tháng 08-2008) sẽ được thực hiện ra sao[55], mặc dù như thế là chậm. Cái đúng được đề ra trong nghị quyết 26 là coi giải quyết những vấn đề của nông dân và nông nghiệp là một nhiệm vụ có vị trí chiến lược trong công nghiệp hóa và trong sự nghiệp bảo vệ đất nước, là trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn xã hội. Tuy nhiên, điều quyết định là sẽ có những biện pháp thực hiện cụ thể như thế nào?

Tồn tại lớn nhất là cho đến nay vẫn chưa tìm ra được con đường phát triển một nền nông nghiệp bền vững, hiện đại, gắn liền với việc chuyển dịch một bộ phận ngày càng lớn lao động nông nghiệp sang các ngành nghề khác. Tất cả các Luật và các chính sách hiện hành không đáp ứng được đòi hỏi này. Tất cả những nỗ lực cụ thể loay hoay chung quanh việc cải tiến mô hình hợp tác xã cũng không giải quyết được vấn đề.

Không giải quyết thành công vấn đề nông dân, sẽ không có một nước Việt Nam công nghiệp hóa. Nâng cao dân trí, khả năng tiếp cận công nghệ mới, việc làm, phát triển nông phẩm và thực phẩm sạch và cao cấp, đặc biệt là phát triển nông nghiệp dựa trên công nghệ sinh học và gìn giữ môi trường sinh thái, ngày càng mở rộng thị trường trong nước và bên ngoài cho sản phẩm cao cấp của mình, sự hậu thuẫn và bảo hộ không thể thiếu của nhà nước… đó là những đòi hỏi nóng bỏng của nông dân và của nền nông nghiệp Việt Nam, Nhà nước và toàn xã hội có nghĩa vụ phải đáp ứng tốt nhất.

Rất nên tận dụng lợi thế nước đi sau, tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại  và hội nhập kinh tế thế giới sớm phát triển được một nền nông nghiệp hiện đại, nhất là hướng vào các nông phẩm và thực phẩm cao cấp có giá trị gia tăng cao, có ưu thế lớn tại mọi thị trường trong nước và nước ngoài. Cần coi đây là một nội dung quan trọng trong công nghiệp hóa của nước ta, phát huy tối đa lợi thế so sánh mọi mặt của nước ta.

Như vậy, tư duy về công nghiệp hóa cũng phải thay đổi cho phù hợp với đòi hỏi này.

Chú ý: có lẽ không nên dùng khái niệm “tam nông”, vì có hơi hướng học mót, không sáng tạo. Trên hết cả, khái niệm “tam nông” không nói lên được mọi vấn của vấn đề nông nghiệp trong tổng thể hữu cơ của quá trình công nghiệp hóa. Ngay ở Trung Quốc đã bắt đầu phải nói đến “tứ nông”. Chẳng lẽ rồi đây ta cũng sẽ lại nói theo “tứ nông”? Phát triển nông nghiệp bền vững đòi hỏi phải ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, phải có sự hỗ trợ và kết hợp rất quan trọng của công nghiệp. Vì lẽ này phát triển nông nghiệp bền vững phải là một thành phần chiến lược trong toàn bộ chiến lược công nghiệp hóa. Nói ngắn gọn, muốn phát triển nông nghiệp bền vững phải thay đổi cơ bản quan niệm và quá trình công nghiệp hóa / đô thị  hóa đang diễn ra hiện nay ở nước ta. Không phát triển thành công nông nghiệp bền vững, quá trình công nghiệp hóa ở nước ta có nguy cơ sẽ chỉ mang lại một bãi thải công nghiệp toàn quốc! Chính vì lẽ này, công nghiệp hóa thực sự là một quá trình quy hoạch, xắp xếp lại giang san đất nước.

6.  Chuyển sang giai đoạn phát triển mới –  giai đoạn phát triển theo chiều sâu – trở thành đòi hỏi tất yếu của đất nước

Tất cả những vấn đề đất nước phải đối mặt như đã trình bày trong các điểm từ 1-5 bên trên khẳng định tất yếu này.

Phải nói việc chuyển giai đoạn phát triển một cách có ý thức như vậy là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn và gian khổ. Hơn lúc nào hết phải huy động (a) trí tuệ cả nước, (b)kinh nghiệm của thế giới, (c) sự quyết tâm một lòng một dạ của toàn dân, và (d) sự tận tụy, trung thành tuyệt đối của hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước  đối với lợi ích quốc gia (xin đặc biệt nhấn mạnh yếu tố này), để có thể thực hiện thành công nhiệm vụ sinh tử này với cái giá phải trả thấp nhất. Làm thế nào để Việt Nam hội đủ được 4 điều kiện này? Một lần nữa tình hình cho thấy tầm nhìn của lãnh đạo và chất lượng của hệ thống chính trị trở thành yếu tố quyết định.

Dưới đây xin trình bày một vài gợi ý ban đầu.

(1) Nói chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu, trước hết là nói đến phát triển chủ yếu dựa trên cơ sơ phát huy lợi thế và nguồn lực lớn nhất của đất nước là con người, là phát triển rất chú trọng đến chất lượng.

Đặt vấn đề như vậy, có nghĩa là thay đổi căn bản quan điểm hiện có về chiến lược phát triển.

Con người được nói tới ở đây vừa là chủ của chính bản thân mình, là chủ của đất nước, vừa chính mình trực tiếp là lực lượng sản xuất quyết định nhất. Câu hỏi đặt ra ngay tức khắc là thể chế chính trị, luật pháp nào, hệ thống giáo dục nào, khung khổ xã hội nào, và những chính sách phát triển kinh tế – chính trị – xã hội nào cần phải có để có thể tạo ra được và tiếp tục phát triển được con người như thế. Bao chùm lên tất cả là còn phải duy dưỡng và xây dựng những giá trị văn hóa nào làm nền tảng đạo đức, tinh thần và tâm hồn của con người với tính cách như thế – con người của hành động  theo tư duy của tự do và sáng tạo, chứ không phải là con người công cụ.

Câu trả lời nếu tìm được, trước hết sẽ có nghĩa phải sẵn sàng và chấp nhận triệt để nhiều thay đổi căn bản trong thể chế chính trị và trong hệ thống quản lý đất nước, trong tư duy cũng như trong tìm tòi và thiết kế các chính sách phát triển đất nước, trong việc tuyên chiến với mọi cái hủ bại, trong việc duy dưỡng và xây dựng những giá trị tốt đẹp, đặc biệt là đổi mới và phát triển nền giáo dục nước nhà…

Nói bao nhiêu cũng không xuể về chủ đề con người, song  nhất thiết cần nhấn mạnh chế độ chính trị của đất nước phải như thế nào để người dân gắn kết sống chết với nó bằng tất cả nhiệt huyết yêu nước của mình. Xây dựng một chế độ chính trị được người dân cảm nhận nó gần như đồng nghĩa với tổ quốc là rất khó, song nhất thiết phải hướng tới. Không có điều kiện này, ước mơ trở thành một nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại ganh đua  được với thiên hạ sẽ chỉ là ước mơ, càng khó bảo vệ bờ cõi đất nước. Đơn giản, người dân có thể nói: Tôi không thể hết lòng vì đất nước trong một chế độ tham nhũng!

(2)  Đặt vấn đề như nêu trong điểm (1) là khởi điểm và đồng thời cũng là nền tảng để đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ của thời đại ngày nay trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.

Quan điểm này không mới, chiếm vị trí quan trọng trong rất nhiều nghị quyết và chính sách của Đảng và Nhà nước, nhưng khó trở thành hiện thực vì không có thể chế phát huy được con người. Suốt 25 năm qua không ít công sức và ngân sách bỏ ra cho mục tiêu đưa tiến bộ khọc kỹ thuật và công nghệ vào sự nghiệp phát triển đất nước. Song kết quả cuối là chỉ đạt được hàm lượng khoa học và công nghệ thấp hoặc thậm chí rất thấp trong sản phẩm làm ra, trong chất lượng các chủ trương chính sách, trong luật pháp, trong quy hoạch phát triển, trong các quyết định chiến lược, quyết sách.., cũng như trong bộ máy làm việc của toàn bộ hệ thống chính trị nói chung và của hệ thống nhà nước nói riêng, trong xây dựng và phát triển xã hội mới… Kết quả cuối cùng còn là sự lãng phí rất to lớn về tiền của, công sức, cơ hội và thời gian. Tham nhũng trong đầu tư cho khoa học và công nghệ không thể nói là nhỏ, càng không nhỏ đối với một nước nghèo như nước ta.

Nhiều phê bình trong nước và từ nước ngoài nói khâu “R&D” (“nghiên cứu & triển khai) của nước ta rất kém. Nhận xét này đúng nhưng không đủ, bởi vì nhận xét này không nói lên được nguyên nhân chính của tình trạng này là chưa có con người và thể chế phải có; thậm chí nhận xét này còn bị hiểu thiên lệch là ta làm “R&D” chưa giỏi và vì ta nghèo!

Tình trạng “hàm lượng công nghệ thấp” như vừa nêu trên còn do một nguyên nhân khác rất quan trọng: Đó là chính trị (đúng hơn trong nhiều trường hợp phải nói là ý đồ chính trị) chứ không phải khoa học và chân lý có tiếng nói quyết định.  Sắp tới cần làm sao cho dân chủ và người tài có chỗ đứng phải có trong sự nghiệp phát triển đất nước.

(3)  Chuyển sang giai đoạn phát triển mới nhất thiết phải cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo.

Đòi hỏi phải cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo hầu như được sự nhất trí rộng rãi trong cả nước. Vấn đề còn đang tranh cãi là cải cách theo hướng nào, tiêu chí nào. Đề nghị trực tiếp tham khảo ý kiến các bên hữu quan để có sự đánh giá riêng của mỗi người và cùng nhau tranh luận cho sự lựa chọn phương án tối ưu nhất cho đất nước.

Phương án cải cách định lựa chọn nhất thiết phải tuân thủ mục tiêu đào tạo, đó là: hình thành và phát huy con người hành động theo tư duy của tự do và sáng tạo, không phải là con người công cụ.

Sự nghiệp cải cách này cũng phải tiến hành từng bước và liên tục với một kế hoạch được thiết kế sao cho có thể vừa đáp ứng ngay những đòi hỏi bức xúc của phát triển và vừa phục vụ cho sự phát triển lâu dài và bền vững của đất nước. Cải cách như thế sẽ là sự nghiệp của cả thập kỷ 2020 và sau nữa, phải rất triệt để, nhưng cũng không thể nóng vội được.

Chỉ xin lưu ý, nhiệm vụ này là của cả nước chứ không thể chỉ là của riêng ngành giáo dục và đào tạo, bởi vì tính chất cải cách giáo dục và đào tạo bao gồm và liên quan trực tiếp đến nhiều lĩnh vực khác của toàn bộ đời sống đất nước. Nói một ví dụ đơn giản là không thể tiến hành cải cách này trong tình hình còn đầy rãy những hiện tượng bằng thật không ăn nhằm gì. Hiện nay có quá nhiều trường hợp bằng thật bị thải loại và thua bằng giả. Thực tế tại các quốc gia cũng cho thấy không thể tiến hành cải cách giáo dục một cách đích thực nếu thể chế chính trị và xã hội của quốc gia ấy không nghiêm khắc chống lại những giá trị trái ngược với những mục tiêu một nền giáo dục tiên tiến phải theo đuổi.

Điều xin đặc biệt nhấn mạnh là cải cách giáo dục và đào tạo thành công trong thập kỷ 2011-2020, sẽ quyết định tương lai của đất nước trong thế kỷ 21, chứ không phải sự nghiệp công nghiệp hóa như đang làm. Thậm chí còn phải nói sự nghiệp cải cách giáo dục và đào tạo cần bắt đầu từ một điểm sơ khởi: không nói dối!

(4)  Phải đánh giá lại, quy hoạch và thiết kế lại kết cầu hạ tầng vật chất, kỹ thuật, pháp chế và xã hội; riêng phát triển kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật cần phải đi song song hoặc cố đi trước một bước quá trình phát triển của đất nước; tất cả phải đạt được bước trước chuẩn bị cho bước sau.

Có thể nói các “thắt cổ chai” đã trầm trọng tới mức những năm gần đây bắt đầu đẩy lùi sự phát triển kinh tế – nhất là về chất lượng và tính hiệu quả của nó, nhìn chung là đẩy lùi sự phát triển của đất nước.  Kinh tế, sơn hà xã tắc của một quốc gia nhất thiết phải có một hệ thống kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật và một thể chế luôn luôn được hoàn thiện làm giá đỡ.

Không thể không rùng mình nếu đối chiếu, so sánh đòi hỏi này với thực trạng hiện nay của đất nước. Trong đời sống hàng ngày đầy rãy những hiện tượng từ bất cập[56], tác trách, đến sa đọa… Về một số phương diện nhất định, chính thể và xã hội nước ta thực sự  đang xuống cấp nghiêm trọng!  Ngày càng nhiều hiện tượng tha hóa đến mức đồi bại, đối với bên trong thì làm mất kỷ cương phép nước, lòng dân ly tán; đối với bên ngoài thì không giữ được thể diện quốc gia và làm yếu vị thế đất nước, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia bị xâm phạm.

Trong cuộc sống đất nước năm này qua năm khác có biết bao nhiêu sự việc khác nhau gây bức xúc lớn như thế, dồn nén lại thành câu hỏi: Chế độ Đảng đang xây dựng cho đất nước thực chất là chế độ gì?!

Đảng Cộng sản Việt Nam nắm giữ vai trò lãnh đạo đất nước nhất thiết cũng phải tự hỏi mình như vậy, để nhìn lại tất cả, nhất là để qua đó nhận biết khoảng cách giữa những gì Đảng đã cam kết với đất nước và thực tế đang diễn ra trong cuộc sống.

(5)  Phải đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Đây là một quá trình đau đớn, gian khổ, nhưng tất yếu phải làm.

Chữ nói về câu chuyện này đã mòn, song phải thừa nhận  chưa có chuyển biến. Những vấn đề nêu trong các điểm từ 1 – 4 bên trên đã  nêu ra được một số nguyên nhân, nhưng chắc chắn chưa đủ. Cần nghiên cứu công phu để tìm ra giải pháp.

Trước mắt nên bỏ cách tư duy “kinh tế GDP” tỉnh, tạm thời đặt sang một bên vấn đề tỷ trọng các khu vực kinh tế (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ) trong phạm vi tỉnh để đánh giá tỉnh đó tiến bộ hay thụt lùi, mà nên đo lường bằng kết quả thu nhập của người dân, chất lượng cuộc sống của họ, khả năng cạnh tranh đích thực của các sản phẩm của tỉnh, kết quả cạnh tranh đạt được, chuyển đổi cơ cấu đầu tư theo hướng tập trung vào các sản phẩm tỉnh có lợi thế nhất, chuẩn bị cho những sản phẩm mới tỉnh có lợi thế lớn theo cách nhìn dài hạn… Cấp quốc gia cũng phải làm như vậy.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải ưu tiên nâng cao khả năng cạnh tranh nhằm chiếm lĩnh và mở rộng thị trường nội địa còn rất rộng của nước ta cho sản phẩm của ta, đảo ngược hẳn tình hình thị trường nội địa nước ta hiện đang bị sản phẩm nước ngoài nắm giữ phần lớn. Đòi hỏi này hoàn toàn không có gì liên quan đến tư duy “tự cung tự cấp” hoặc “thay thế nhập khẩu”, bởi lẽ nước ta đã hội nhập kinh tế thế giới và thị trường nước ta là thị trường mở.

Để thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế, có thể tạm thời chấp nhận chỉ số tăng trưởng thấp trong một số năm nhất định, nếu bước đi này đem lại chất lượng tăng trưởng tốt hơn và mở đường cho sự phát triển năng động mới tiếp theo.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta trong thập kỷ 2011-2020 nhất thiết phải tính đến thực tế ngay sát nước ta, tại khu Buong Thatluong liền kề con đường Kaysone Phomvihane ở Vientiane đã manh nha dự án một China Town 1600 ha – (có tin nói nhân dân Lào đang phản đối), ở Campuchia cũng có tình hình tương tự, rồi đến các dự án thủy điện trên sông Mekong – (có tin đồn bao gồm cả mục đích nhằm luyện nhôm cho việc khai thác bô-xít ở Lào)… Ngay trên đất nước ta cũng đang xuất hiện khu công nghiệp 800ha do Thâm Quyến xây dựng tại An Dương – Hải Phòng và bao nhiêu vấn đề khác nữa do cái “công xưởng thế giây ra trực tiếp đối với nước ta, hàng vạn người Trung Quốc dưới dạng lao động đi theo công trình đang thâm nhập khắp nơi vào nước ta, kể cả trên Tây Nguyên…  Giả thiết rằng những dự án này sẽ được thực hiện, kinh tế và an ninh của nước ta sẽ đứng trước những vấn đề gì? Đối sách của nước ta?

Trên hết cả, chuyển dịch cơ cấu kinh tế với mục tiêu mở đường đi vào một giai đoạn phát triển mới trong bối cảnh quốc tế mới cần được xem là xắp xếp lại giang sơn đất nước! Nhiệm vụ này bao gồm nhiều việc hệ trọng phải làm. Chẳng những phải sớm hình thành được ý đồ chiến lược phát triển, mà còn phải quy hoạch được các quá trình phát triển các lĩnh vực, trong đó đặc biệt quan trọng là chiến lược và quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng với chức năng mở đường và làm nền tảng cho sự nghiệp phát triển đất nước. Những lúng túng hiện nay trong quy hoạch phát triển tren các lĩnh vực như giao thông vạn tải, năng lượng… là những ví dụ cho thấy việc quy hoạch phát triển khó và yếu kém như thế nào! Ngay trước mắt, trong vòng 10 – 20 năm tới sẽ phải dành thêm khoảng 15 – 20% đất đai cho phát triển hệ thống giao thông vận tải và giải quyết vấn đề đô thị hóa; công việc này không quy hoạch có luận cứ xác đáng và xúc tiến từ bây giờ, hệ quả sẽ ra sao? Chắc chắn không thể tiến hành theo kiểu xáp nhập Hà Tây vào Hà Nội và tư duy nhiệm kỳ.

Ngay trước mắt là việc cần loại bỏ các tập đoàn và doanh nghiệp thua lỗ. Cơ cấu lại và chỉ cần giữ một số tập đoàn kinh tế nhà nước thiết yếu với nguyên tắc không được kinh doanh trái nghề[57]. Nhà nước manh mẽ hậu thuẫn phát huy thế mạnh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đổi mới cơ cấu kinh tế nhất thiết phải tìm cách vô hiệu hóa sự câu kết giữa quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị, thực hiện công khai minh bạch[58].

Có lẽ không nên bám lấy mục tiêu hoàn thành công nghiệp hóa vào năm 2020 với bất cứ giá nào, vì điều này vừa không hiện  thực, vừa trở nên không quan trọng nữa. Thậm chí làm theo các kế hoạch công nghiệp hóa hiện hành nếu dẫn đến kết cục năm 2020 nước ta sẽ trở thành cường quốc xi-măng, thép thô và bô-xít thì sẽ đồng nghĩa với tự sát. Nhất thiết cần tìm cách đảo ngược xu thế phát triển kinh tế thượng nguồn.

Mục tiêu chiến lược nên chọn là vào năm 2020 sẽ hoàn thành việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu như đã trình bày trên, gắn với đổi mới thể chế chính trị, để từ đó mở ra cho nước ta một giai đoạn phát triển mới.

Nếu trong vòng 10 năm, từ nay đến năm 2020, mà thực hiện được mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế như vậy, thì đó là một thành tựu kì diệu có tính bước ngoặt như đổi mới năm 1986 – vì điều này sẽ chặn đứng khả năng nước ta rơi tiếp vào tình trạng lạc hậu, lệ thuộc, sẽ ngăn chặn nguy cơ đổ vỡ và nô dịch, sẽ mở ra cho đất nước con đường đi vào một giai đoạn phát triển mới.

Thiết nghĩ ngay từ hôm nay, quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước cần nhằm vào mục tiêu lâu dài là từng bước xây dựng nên một nền kinh tế hiện đại dựa trên phát huy lợi thế lớn nhất của đất nước là con người, trí tuệ, bản lĩnh của Việt Nam – nghĩa là xây dựng một nền kinh tế của một quốc gia dựa trên một dân tộc có trí tuệ.

Chú thích phần trích:

[23] Chỉ riêng viện trợ ODA năm 2009 đạt mức cao nhất từ xưa đến nay (8 tỷ USD) trong lúc các nước cấp viện trợ chưa ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay đã nói lên điều này.

[24] Tiếp xúc với nhiều người Việt ở nước ngoài nổi lên một nhận xét khá phổ biến: Khi còn chính quyền Sài Gòn với cả triệu quân đầy vũ khí trong tay mà còn thua cộng sản, mấy tổ chức đảng phái này nọ ngoài này nhằm nhè gì! Đánh võ mồm! Có những người của các đảng phái này chống Hà Nội quyết liệt, song không ít trong số họ vì những động cơ riêng tư hoặc vì những mục đích vụ lợi rõ rệt. Số đông người Việt ở nước ngoài thuộc thế  hệ chiến tranh không muốn dính líu với những đảng phái này, số thế hệ trẻ không biết đến chiến tranh hầu như không quan tâm đến những thứ như thế. Tâm lý số đông người Việt thuộc thế hệ chiến tranh là hận thù cũ nguôi ngoai dần, muốn đất nước yên ổn để gìn giữ quan hệ ruột thịt họ hàng hoặc có điều kiện phát triển công việc làm ăn, ví dụ rõ nhất có lẽ là trường hợp ông Nguyễn Cao Kỳ… Có nhiều trí thức mong muốn đóng góp với đất nước nhưng thấy trong nước còn nhiều điều chưa chấp nhận được. Tâm lý chung là mong muốn đất nước có dân chủ, thượng tôn pháp luật và sớm thoát nghèo, rất lo ngại uy hiếp của Trung Quốc đối với đất nước – một số còn cho rằng nếu làm được như vậy thì ĐCSVN cũng được!

[25] Khái niệm “không gian sinh tồn” nghe rất lạc hậu,  rất thịnh hành thời Đức quốc xã, ngày nay ít người muốn nói tới;  thậm chí ngày nay có người tin rằng vấn đề này ngày nay đã được giải quyết: các quốc gia thời kỳ toàn cầu hóa ngày nay không cần phải mở rộng không gian sinh tồn của mình mà vẫn có thể phát triển – trong chừng mực nhất định ý kiến này là có lý. Song rất tiếc rằng cuộc sống không biến mất hiện tượng mở rộng không gian sinh tồn, mà chỉ phát triển thêm các hình thái “mở rộng” khác nhau mà thôi. Toàn cầu hóa là một hình thái mở rộng như thế. Hình thái “mở rộng” của Trung Quốc hiện nay là đa dạng nhất, bao gồm cả hình thái xâm chiếm lãnh thổ, lãnh hải nước khác và các hoạt động khác như các bài trên thế giới viết về chủ nghĩa thực dân mới Trung Hoa đã phân tích, trong nhiều trường hợp là cách hành xử của Trung Quốc là “mục tiêu biện minh cho biện pháp”  như mọi người đều biết.

[26] Luce (2009)

[27] Nguyễn Trung (2009b)

[28] Tham khảo các bài báo Trung Quốc gần đây liên quan đến Biển Đông đã được nhà Trung Quốc học Dương Danh Dy dịch ra tiếng Việt.

[29] Trần Quang Cơ (2005)

[30] Loại trừ kẻ xấu, dư luận chính đáng trên thế giới không sao hiểu nổi phản ứng nhu nhược hay sự nhẫn nhục cùa Việt Nam trước những sự kiện ngang ngược của Trung Quốc. Luồng dư luận này cho rằng vì ngại sức ép của Trung Quốc, vì lo rằng phong trào phản đối Trung Quốc sẽ dấy lên phong trào dân chủ trong nước, nên ĐCSVN không dám huy động nhân dân đấu tranh, không dám kêu gọi dư luận quốc tế như đã làm thời kháng chiến.

[31] BBC (2009a), Feigenbaum (2004) đề cập đến nguy cơ TQ có thể tiếp tục đánh chiếm một số đảo ở Biển Đông mà Mỹ không làm gì nếu chưa đụng chạm đến lợi ích chiến lược của Mỹ trong toàn vùng. Trong khi đó không ít báo chí Trung Quốc cho rằng hiện nay là thời cơ tốt nhất để Trung Quốc thực hiện đường lưỡi bò.

[32] Ví dụ: Năm 2009 ngoại thương Việt Nam nhập siêu 10 tỷ USD, song riêng nhập siêu từ Trung Quốc khoảng 12 – 13 tỷ USD, nghĩa là toàn bộ xuất siêu của ta không đủ trang trải cho nhập siêu từ Trung Quốc! Kéo dài tình trạng này rất nguy hiểm.

[33] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, trang 163.

[34] Nguyễn Trung (2007b, 2008a)

[35] Nền giáo dục nước ta hiện nay nặng về đào tạo con người công cụ hơn là hướng về đào tạo con người hành động theo tư duy tự do. Đây có lẽ là vấn đề mấu chốt nhất khiến nền giáo dục nước nhà lạc hậu và góp phần kìm hãm tương lai phát triển của đất nước.

[36] Trong kinh tế học, người ta gọi hiện tượng các nước đang phát triển với mọi nỗ lực của nhiều thập kỷ, thậm chí của cả nửa thế kỷ hoặc lâu hơn nữa mà vẫn không thể trở thành một nước công nghiệp là hiện tượng “rơi vào cái bẫy nước có thu nhập trung bình”. Có nhiều nước đang phát triển đã rơi vào cái “bẫy” này. Thái Lan là một ví dụ điển hình của “cái bẫy nước có thu nhập trung bình”. Trong thế kỷ 20, Thái Lan không bị một cuộc chiến tranh nào tàn phá, không là thuộc địa của một đế quốc nào, đã đi được 60 năm trên chặng đường công nghiệp hóa tính từ năm 1949, nhưng ngày nay chưa ai dám nói khi nào Thái Lan sẽ là một NIC!  Đọc thêm Nguyễn Trung (2008b)

[37] Cơ cấu dân số có tỷ lệ người trong tuổi lao động chiếm quá nửa hoặc gần gấp đôi số người sống phụ thuộc.

[38] IMF và EIU đánh giá kinh tế Việt Nam năm 2008 lạm phát là 22,87%, tăng trưởng GDP là 6,23%.

[39] Trần Đức Nguyên (2009)

[40] Trần Đức Nguyên (2009)

[41] Vietnamnet (2008)

[42] Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc năm 2005, tiêu thụ 01 kWh các nước Tây Âu làm ra trên 3 USD, Hàn Quốc: 2,2 USD, Philippines: 1,9 USD, Thái Lan: 1,5 USD, Trung Quốc: 1 USD, Việt Nam chỉ có 0,87 USD.

[43] Đó là tình trạng chưa nghiên cứu đầy đủ các vấn đề theo Luật đòi hỏi; và chưa chuẩn bị xong kết cấu hạ tầng, giao thông vận tải, xử lý bùn đỏ nhiễm hoá chất độc hại..; tóm lại là còn rất nhiều câu hỏi quan trọng chưa được giải đáp thoả đáng về tính khả thi của dự án, tính hiệu quả của dự án, tác động lâu dài đối với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, an ninh quốc gia… mà đã triển khai ngay dự án… – tìm đọc các phản biện rất phong phú về vấn đề này. Xem thêm: Nguyễn Trung (2009a)

[44] Rất khó định nghĩa hay định nghĩa thế nào cũng được  khái niệm cơ bản trở thành  một nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại”. Cụm từ cơ bản trở thành và cụm từ theo hướng hiện đại vừa mơ hồ và co giãn tùy ý, vừa mâu thuẫn nhau. Song quan trọng hơn là toàn bộ khái niệm này thiếu hẳn những tiêu chí và mục tiêu cần đạt được để làm rõ.

[45] Quá trình công nghiệp hóa cho đến nay diễn ra hầu như dưới dạng một chuỗi các kế hoạch 5 năm của cấp trung ương (các ngành) và của cấp các tỉnh cộng lại. Rất khó nói rằng những kế hoạch 5 năm này được thiết kế theo một quan điểm chiến lược công nghiệp hóa xuyên xuốt: (1) Quá trình công nghiệp hóa diễn ra trong thực tế ở cấp trung ương là hoạt động của các tập đoàn kinh tế nhà nước (phần lớn dưới dạng các tổng công ty 90 và 91) gần như với tính cách mỗi tập đoàn là một “vương quốc” riêng lẻ. (2) Quá trình công nghiệp hóa ở cấp tỉnh chủ yếu do “tư tưởng nhiệm kỳ” và quan điểm “nền kinh tế GDP tỉnh” chi phối, tranh thủ làm được gì làm nấy, gặp gì làm nấy, không ít tình trạng chồng chéo, trùng lặp, giẫm đạp lên nhau – tỉnh anh có xi măng lò đứng, tỉnh tôi cũng có; tỉnh anh có nhà máy mía đường, tỉnh tôi không kém tỉnh anh; tỉnh anh có khu công nghiệp, tỉnh tôi cũng không thua…

[46] Xem thêm Nguyễn Trung (2007)

[47] Hiện nay có tới khoảng 6000 thủ tục hành chính cần xem xét, gây lãng phí bao nhiêu thời gian, tiền bạc, của cải; Chính phủ đã cam kết phải bãi bỏ khoảng 30% những thủ tục này trong thời gian ngắn nhất, song trên thực tế quá trình “bãi bỏ” này đang diễn ra rất chậm. Tác động của các tập đoàn và các nhóm lợi ích tiếp tục giữ vai trò quyết định trong việc hình thành các quyết sách kinh tế quan trọng theo chiều hướng cục bộ mạnh ai nấy làm, tranh thủ cái lợi trước mắt và không quan tâm đến sự phát triển vỹ mô của quá trình công nghiệp hóa, biểu hiện rõ nhất là kết cấu hạ tầng quốc gia tụt hậu so với phát triển kinh tế, tiếp tục đi sâu vào kinh tế thượng nguồn và khai thác tài nguyên đất đai, có quá nhiều quyết định hoặc công trình kinh tế chồng chéo, trùng lặp hay phi kinh tế.., vân vân…

[48] Riêng Tây Nguyên và các vùng cao khác, các vùng trung du có ý nghĩa chiến lược đối với sự sống còn và tương lai phát triển đất nước, cần được bảo tồn và phát triển theo hướng thân thiện với môi trường và bền vững – nhất là trước tình hình thiên tai ngày càng đa dạng và khốc liệt, tác động của biến đổi khí hậu ngày càng quyết liệt. Khi diện tính đất đai ngày càng mất đi và tình trạng nhiễm mặn ngày càng rộng do biến đổi khí hậu, các vùng này sẽ trở thành các vùng có ý nghĩa sống còn của đất nước. Là một trong các quốc gia chịu tác động nặng nhất của biến đổi khí hậu toàn cầu, thế hệ hôm nay có trách nhiệm rất lớn chuẩn bị cho các thế hệ mai sau.

[49] Xem thêm Tấn Đức (2009)

[50] Xem, chẳng hạn, Phạm Duy Hiển (2009), Phùng Liên Đoàn (2009), Trần Sơn Lâm (2009)

[51] Xem Nguyễn Thành Sơn (2009)

[52] Hiện nay Chính phủ đang kêu gọi tiến hành các biện pháp tăng cường bảo vệ môi trường và chủ động ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu, thế nhưng lại có quá nhiều quyết định kinh tế của chính phủ đi ngược lại chủ trương này, điển hình là khai thác bô-xít ở Tây Nguyên, phát triển quá nhiều thủy điện, mở rộng khai thác khoáng sản, tiếp tục phát triển các ngành công nghiệp gây ô nhiễm (ví dụ như Huyndai-Vinashin ở Khánh Hòa với công nghệ sử dụng hạt nix…)…

[53] Trên thực tế, tại một số vùng nông thôn người dân cho rằng đang xuất hiện “tầng lớp cường hào mới”.

Các bản án ngày 13/11/2008 của Tòa án Nhân dân TP. Hà Đông (Hà Nội) 33 tháng tù cho 5 người đàn bà nông dân (VietNamet, 2009a) , bị phạt tiền do dám chửi đường xấu ở Cà Mau (Vietnamnet, 2009b)… thực ra không thấm tháp gì so với những hiện tượng nhũng nhiễu, hạch sách, lấn chiếm đất đai, ăn chặn tiền cứu đói, tiền giúp đỡ đồng bào bị lũ lụt… và các khoản đóng góp của dân, v.v., xảy ra trong rất nhiều làng xã…

[54] Cả nước hiện có 166 sân golf, (có tài liệu nói là trên 140 sân!), nhiều gấp 3 lần mức bình quân của thế giới, diện tích trung bình 200 – 300 ha/sân. Không ít dự án xây dựng sân golf trở thành một phần các dự án địa ốc trá hình. Hệ quả của việc nông dân mất đất cho sân golf rất nhiều mặt, và tác động môi trường của sân golf rất lớn.

[55] Tìm đọc và so sánh với Nghị quyết Trung ương số 26 ban hành ngày 05-08-2008 về nông nghiệp, nông dân và nông thôn.

[56] Hiện nay dư luận cả nước đang xôn xao việc xả lũ công trình thủy điện ở miền Trung trong cơn bão số 11 vừa qua, đặt vấn đề: quy hoạch các công trình thủy điện, chất lượng thiết kế hồ trữ nước và việc xả lũ có phải là nguyên nhân làm cho lũ trầm trọng thêm khiến cho nhiều sinh mạng bị cướp đi? Xem Minh Quân (2009), Cẩm Văn Kính (2009)

[57] Vì tập đoàn kinh tế nhà nước được phép dành tới 30% tổng vốn của mình (nghĩa là rất lớn) cho kinh doanh các sản phẩm trái nghề nên không hoàn thành việc thực hiện các sản phẩm chính của tập đoàn, lỗ biến thành lãi, phát sinh nhiều tiêu cực, đồng thời lấn át khu vực kinh tế tư nhân – nhất là các xí nghiệp nhỏ và vừa. Cần bãi bỏ hẳn quy định này.

[58] Mặc dù có sự giải thích, thanh minh.., song dư luận trong nước vẫn vô cùng bức xúc về các vụ CPI, Securency, vụ án Nông trường Sông Hậu, tập đoàn Vinashin…

Nguồn: Nguồn: Thời đại mới tháng 3-2010

HT Mạng Bauxite Việt Nam biên tập

Xem toàn bộ nội dung bài viết dưới dạng PDF:
Viet-Nam-trong-the gioi.pdf

This entry was posted in Đảng CSVN. Bookmark the permalink.