Trong những ngày qua tôi đã dành nhiều thời gian để đối thoại với nhiều người, đặc biệt những người không đồng tình với giả định Việt Nam cần có những cải cách thể chế cơ bản. Dù hơi mệt, đến bây giờ tôi chưa nghĩ việc ra sức như thế là mất công hay lãng phí. Vẫn coi nó là một cách đầu tư trong tương lai của Việt Nam. Một cách để kích thích những thảo luận cần có nếu Viêt Nam muốn thoát khỏi tình trạng đối phó hiện nay.
Xin cho các bạn biết, hôm nay tôi đã dự định cho đăng một đối thoại rất dài giữa tôi và một bạn đọc. Trong đối thoại có rất nhiều từ xấu. “Chúng tôi chằng cần một kẻ nước ngoài…” v.v. Thậm chí có người bảo là sẽ gặp tôi “trên chiến trường.” (Muốn đọc mời bạn xêm những bình luận ở đây).
Thay vì cứ tiếp tục tranh cãi với những người này, tôi muốn đề cập 3 lý tưởng quý giá là mọi bạn đọc từ mọi phía ủng hộ, dù chúng ta có các cách hiểu khác nhau về ý nghĩa của chúng. Thế nhưng, chúng ta chưa đồng ý về ý nghĩa của một câu nói rất nổi tiếng: “Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng tự do hạnh phúc thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì.” Thực vậy.
Vì vậy, trong ngày hôm nay và hai ngày tiếp theo tới tôi xin bàn về ý nghĩa của ba lý tưởng, khái niệm này nói chung và đối với Việt Nam nói riêng. Tất nhiên, chưa chắc một Ông Tây như tôi có thể nói cái gì mà có giá trị hoặc chưa được nói đến. (Chắc chắn đã có hàng nghìn bài thảo luận về ba ý tưởng này và ý nghĩa trừu tượng và thực tế của nó). Nhưng tôi sẽ cố gắng và mời các bạn xem thế nào. Cuối cùng, vào ngày 2 tháng 9 tôi sẽ có gắng làm rõ mối quan hệ giữa những lý tưởng này với quan điểm Việt Nam cần có một cuộc cải cách sâu rộng, thậm chí một diễn biến hòa bình do dân và vì dân Viêt Nam.
Độc Lập
Độc lập là một khái niệm khá dễ lẫn khó hiểu. Ai là người Việt Nam đều hiểu trong lòng của họ khái nghiệm này có ý nghĩa tinh thần, thậm chí thiêng liêng. Về nghĩa trừu tượng thì khá đơn giản. Độc lập ở đây có nghĩa là một đất nước có quyền tự quyết định lấy tương lai của mình. Nhưng không đơn giản thế đâu, chính vì một đất nước, một lãnh thổ (chưa kể dân) nói đúng ra, không có quyền tự quyết (theo khái niệm “agency” trong ngành xã hội học).
Trong đất nước, lãnh thổ đó chỉ gồm nghững con người và những tổ chức xã hội có quyền lực. Vậy, độc lập luôn gắn bó với khái nghiêm quyền lực tối cao của một nhà nước trong một đất nước nào đó. Dù chúng ta thấy có thể nói về sự độc lập của một nước nào đó thì trên thực tế ta đang nói về nền độc lập của một nhà nước có uy quyền tối cao trong một lãnh thổ có giới hạn nhất định nào đó. Ở Việt Nam, những tranh cãi về dân chủ chủ yếu xoay quanh vấn đề uy quyền chính đáng.
Về cơ bản, uy quyền tối cao (của một nhà nước trong trường hợp này) phụ thuộc vào sự ưng thuận của nhân dân trong nước đó. Thế nhưng, nhìn kỹ thì thấy có 3 loại uy quyền. Một là uy quyền hình thức (tức là những gì được viết trên Hiến pháp). Hai là, uy quyền thực quyền; tức là de facto authority (ai có súng trong tay). Ba là, uy quyền chính đáng mà đúng ra có nghĩa là nhân dân đồng ý chịu sự lãnh đạo.
Chúng ta đều đồng ý là độc lập rất cần thiết. Ở Việt Nam, rõ ràng là NNXHCNVN có cả uy quyền hình thức cũng như uy quyền thực sự. Những tranh cãi hiện này ở Việt Nam và hải ngoại không còn liên quan đến vấn đề độc lập nữa mà liên quan đến vấn đề chính đáng. Tức là làm sao mà Việt Nam có thể có một nhà nước mà sự chính đáng của nó là không tranh cãi được.
Đối với những người chủ yếu muốn giữ hiện trạng này thì những ý trên là quá tệ rồi vì nó có hàm ý rằng NNCHXHCNVN chưa hoàn toàn chính đáng. Theo lý luận của chủ nghĩa Lenin, thì tính chính đáng của nước CHXHCNVN đem theo giả định và lý luận rằng ĐCSVN là “chính đảng duy nhất”. Đới với họ, sự độc lập của Việt Nam phụ thuộc vào sự cai trị của ĐCSVN.
Sự thật là Việt Nam vẫn có độc lập dù có nhiều phe phái khác nhau trong nội bộ đảng. Càng có có nhiều người trong và ngoài đảng cho rằng Việt Nam có thể độc lập với một hệ thống đa đảng. Chẳng hạn, Hàn Quốc là một quốc gia độc lập mà vẫn có nhiều đảng.
Vì vậy sự độc lâp của Việt Nam chưa phải là một câu hỏi trọng tâm hiện nay. Chính vì tất cả mọi người đều cho rằng Việt Nam phải là một quốc gia không phụ thuộc vào ai cả, dù TQ hay Mỹ, để nói lên tầm ảnh hưởng của hai nước lớn này.
“Tin vui” là Việt Nam có độc lập về nhiều mặt. “Tin buồn” là việc đó đã chưa giải quyết được những vấn đề bức xúc nhất ở Việt Nam.
Tự do
Trong lúc Việt Nam chuẩn bị đón mừng ngày 2 tháng 9, tôi xin tiếp tục bàn về ý nghĩa của ba lý tưởng: Độc Lập – Tự do – Hạnh phúc. Tìm hiểu về ý nghĩa của cả ba lý tưởng nói chung và đối với Việt Nam nói riêng. Vào ngày 2 tháng 9 tôi sẽ cố gắng làm rõ mối quan hệ giữa những lý tưởng này với quan điểm cho rằng Việt Nam cần có một cuộc cải cách sâu rộng, thậm chí một diễn biến hòa bình do dân và vì dân Việt Nam, xuất phát từ những nỗ lực từ ngoài và trong bộ máy, từ trong và ngoài đảng cầm quyền.
Trong bài trước, tôi đã nêu rõ, độc lập quốc gia liên quan trực tiếp đến khái niệm uy quyền tối cao của một nhà nước. Tôi phân tích uy quyền chính đáng của bất cứ nhà nước nào phụ thuộc vào sự ưng thuận của nhân dân nước đó. Tôi khẳng định có 3 loại uy quyền. Một là sự uy quyền hình thức (tức là những gì được viết trên hiến pháp). Hai là, sự uy quyền thực quyền, tức là ‘de facto authority’ (ai có súng trong tay là người đó có uy quyền). Ba là uy quyền chính đáng có nghĩa là nhân dân chấp nhận sự lãnh đạo.
Tôi khẳng định vì những hạn chế của mô hình chính trị Lenin, chắc chắn là NNCHXHCN chỉ có uy quyền hình thức và uy quyền thực quyền. Rất khó để khẳng định là ĐCSVN có uy quyền chính đáng hay không trong khi Việt Nam chưa có cơ chế thăm dò sự ưng thuận của dân. Tôi kết thúc: “Tin vui” là Việt Nam có độc lập về nhiều mặt. “Tin buồn” là điều đó chưa giải quyết được những vấn đề bức xúc nhất ở Việt Nam. Mời bạn đọc hết bài ‘Độc Lập’ tại link này. Trong bài này chúng ta hãy đi sâu vào lý tưởng và khái niệm ‘Tự do’.
Tự Do
Tự do. Không có lý tưởng nào gây nhiều tranh cãi hơn đối với toàn dân Việt Nam, và nó cũng là một khái niệm quan trọng nhất trong cụm từ ‘Độc lập, Tự do, Hạnh phúc’. Tự do ở Việt Nam: “không có gì quý hơn”, Hay “không có gì”? Để trả lời câu hỏi này, ta cần biết rõ Tự do là cái gì, cũng như Tự do không phải là cái gì. Thoạt tiên, lý tưởng Tự do nghe có vẻ đơn giản. Và thực sự về mặt nào đó nó cũng đơn giản thôi. Thế nhưng, Tự do cũng có nhiều mặt phức tạp, không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với toàn thế giới.
Những nhà triết học Tây phương như Hobbes, Locke, và Rousseau đều có ý tưởng về Tự do dựa vào quan điểm của họ về bản chất con người. Trước họ hơn một nghìn năm cũng có quan điểm tương tự đến từ phương Đông, như từ Khổng tử. Cũng có nhiều quan điểm về Tự do đến từ những nhân vật lịch sử – nam cũng như nữ, thuộc mọi thành phần.
Nói cho cùng, ba quan điểm của Hobbes, Locke, và Rousseau là đặc biệt quan trọng. Hobbes xem bản chất của con người là man rợ. Ông nhận xét rằng cuộc đời của con người là “cách ly, khốn khó, ác nghiệt và hung bạo, và ngắn ngủi” (“solitary, poor, nasty, brutish, and short), và vì thế xã hội nào cũng cần có một Nhà Nước Leviathan (dịch ra là con rồng biển ác) để giữ trật tự xã hội.
Mặt khác, Locke cho rằng bản chất con người là tự do. Rousseau cũng đồng tình với quản điểm này. Cả hai người đều cho rằng bất kỳ sự thống trị nào cũng phải có sự ưng thuận của dân. Thế nhưng, trong khi Rousseau cho rằng dân chúng rốt cuộc phải chấp nhận sự thống trị của một nhà nước nhân đạo thì Locke không chịu và viết rằng quyền hạn của nhà nước phải tuyệt đối đối với quyền của dân và chỉ có thể thống trị nếu có sự ưng thuận của dân.
Khi nói về Việt Nam và chủ nghĩa Lenin thì ta thấy chúng có chất bi quan của Hobbes và chất lãng mạn của Rousseau. Quan điểm của Locke thì đã bị tiêu tán, dù nó có mặt trong Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ, Quyền Con Người của Pháp, và ngay cả trong Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh cách đây đúng 68 năm.
Như thế thì thật tiếc là ở Việt Nam những lý tưởng đó đã bị phá hoại trong những ngày tháng ban đầu của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà đến bây giờ vẫn chưa được tái lập dù về hình thức thì chúng vẫn còn tồn tại.
Từ Hiến pháp 1946 đến nay, về hình thức, Việt Nam vẫn còn những lý tưởng như tự do con người, tự do hội họp, tự do báo chí, v.v… Thế nhưng từ 1946 đến nay, những lý tưởng đó đã bị tê liệt do gánh nặng của tư tưởng Lenin vốn cho rằng quyền của Đảng “tiên phong” là trên hết.
Một cái hay về xã hội chủ nghĩa (ở đây không nói gì về chủ nghĩa Lenin) là nó coi ‘công lý’ là vấn đề quan trọng. Thế nhưng, trong khi phái dân chủ xã hội tin rằng một nền kinh tế thị trường có thể được quản lý và điều tiết một cách hữu hiệu bởi một cơ chế dân chủ thì Lenin (và sau đó là Stalin, Mao và cả Hồ Chi Minh, Trường Chinh, v.v…) cho rằng một xã hôi cộng sản cần có “sự thống trị tuyệt đối của Đảng tiên phong”:
“Sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định bảo đảm sự ổn định và phát triển….”*
Đối với Lenin và những đồng chí của ông, sự thống trị tuyệt đối của ĐCS là thiết yếu. Cũng có lúc (như trong Chương trình Kinh tế mới) Lenin đã phải ôm lấy cơ chế kinh tế thị trường. Đừng nghĩ sai. Từ đảng Nhân dân Hành động (People’s Action Party) của Singapore đến Quốc Dân Đảng (Kuomintang) của Đài Loan cũng đã từng xem mô hình của Lenin là cần thiết. Hai đảng này đã chứng minh sự thống trị của một đảng theo mô hình Lenin cũng có thể liên kết chính trị và kinh tế.
Thế nhưng thực tế này liên quan đến Tự do như thế nào? Xin thưa: ở nước nào, nhà nước, dù lên cầm quyền bằng những phương tiện bạo động hay bất bạo động, dù quyết định bằng một quá trình độc tài hay dân chủ, quyết định những giới hạn của quyền Nhà Nước và trách nghiệm của dân.
Rất tiếc cho Việt Nam và các nước chủ nghĩa Lenin khác là họ đã lấy mô hình mà trong đó quyền của Đảng và Nhà Nước là tuyệt đối, và chẳng tôn trọng những quyền con người trong ý nghĩa phổ biến của nó.
Về lý tưởng, sự biện minh cho quyền lực tuyệt đối của nhà nước dựa vào một giả định sâu sắc và có vấn đề – đó là chỉ có ĐCS mới có thể bảo vệ được những lợi ích khách quan của nhân dân.
Giả định đó có phần tích cực, dù nó cực kỳ có tính tự phục vụ và nguy hiểm là nhà nước và ĐCS có thể đảm bảo công lý. (Trên thực tế, lịch sử cho thấy quản lý kinh tế tập trung thiếu khả thi). Mặt tiêu cực của nó là ở tất cả những nước theo chủ nghĩa Lenin thì đảng và nhà nước coi nhân dân là trẻ con, ngu dốt, không đầu óc.
Trong tình thế này thì những quyền hình thức về ngôn luận và hội họp hoàn toàn là một trò hề. Từ đó chúng ta thấy một sự mâu thuẫn cơ bản: một khi bất kỳ nhà nước nào, dù Liên Xô hay Việt Nam hiện nay, có quyền tuyệt đối thì họ không có cách nào để bảo đảm lợi ích khách quan của nhân dân.
Có hai quan điểm về Tự do có liên quan xin đề cập. Một là “Tự do negative” (tức là quyền cá nhân không bị vi phạm). Nó có nghĩa là nhà nước không được vị phạm quyền của ai cả bởi vì ai cũng có những quyền như nhau. Khái niệm này xuất phát từ chủ nghĩa tự do (liberalism) vốn cho rằng nhân dân cần có tự do đối với nhà nước.
Tức là giới hạn của quyền lực nhà nước nên được cụ thể hóa bởi nhân dân. Mặt khác khái niệm ‘Tự do “positive” (tiếng anh là “positive freedom”) ám chỉ nhân dân thực có đủ năng lực để làm những điều họ muốn, họ cần. Về lý thuyết, xã hôi chủ nghĩa cần có một Đảng tiên phong để bảo đảm những quyền tự do tích cực này.
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy kinh tế thị trường có vấn đề đối với loại tự do này (thí dụ bạn có tự do về ngôn luận nhưng vì không có việc làm nên bạn cũng được tự do để sống dưới gầm cầu).
Nhưng mặt khác nền kinh tế tập trung hóa thường không hiệu quả, và cuối cùng cũng không hiệu quả đối với cả hai loại tự do nói trên. Vậy có thể nói dù Việt Nam có cơ chế thị trường, cơ chế chính trị không đủ hữu hiệu để đẩy mạnh cả hai thứ tự do này.
Hãy trở về Việt Nam và xem hiện nay dưới cơ chế thị trường những tự do positive của người dân là khá hơn dù sự mất công bằng càng nghiêm trọng. Trong khi đó thì những “tự do negative” gần như là không có hay chỉ có với những giới hạn khắt khe. Rõ rằng tình trạng này là lạc hậu.
Khi thanh niên ở thủ đô, ngay nơi cụ Hồ từng phát biểu về Tự do, đã bị công an đánh đập tàn tệ, thì ý nghĩa của Tự do ở Việt Nam là như thế nào vậy? Khi những ai muốn báo chí Việt Nam cổ động cho trách nhiệm giải trình của chính phủ bị bỏ tù và bị hành hạ như súc vật thì đó là Tự do chưa? Ở thời điểm này, điều duy nhất mà cụ Hồ nói mà chúng ta nên nhớ đến chính là : “Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng tự do hạnh phúc thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì.”
Hiện nay toàn dân Việt Nam đang tìm cách để người dân Việt Nam được sống tự do một cách thực sự. Và tôi cũng như nhiều bạn của Việt Nam thực sự hy vọng toàn dân Việt Nam sẽ thành công.
J.L.
Nguồn:
http://xinloiong.jonathanlondon.net/2013/08/30/doc-lap-tu-do-hanh-phuc/