Bình luận của mạng Ba Sàm về Nghị định 72

Tin thứ Năm 7/8/2013:

Định vào ngày 1-9-2013 mới có thông báo chính thức với độc giả về số phận của trang Ba Sàm sẽ ra sao trước Nghị định 72 này, thế nhưng, dư luận sôi nổi quá, nhiều độc giả thân thiết liên tục hỏi han, lo lắng, lại cả trên BBC bữa kia một bài nhắc đích danh tới trang BS nhiều, hôm nay thì thêm trả lời chính thức của “nhóm tác giả” (?) – một quan chức cấp cao hơn nữa, là ông Thứ trưởng Đỗ Quý Doãn, nên … thôi thì cũng phải lên tiếng. Trước tiên là cho độc giả đỡ lo và sớm có thông tin trao đổi, mở mang dân trí, sau nữa là hầu giúp các cơ quan chức năng sớm bổ sung khiếm khuyết, sửa những sai sót yếu kém cũ cho đến mới của mình. Nhiều điều đáng bàn, nên xin đưa ra dần mỗi bữa một chút.

Trước tiên, xin lưu ý tới việc ông Thứ trưởng không biết do vô tình quên, hay muốn cố quên, cái Nghị định 97, ngay dưới triều đại của ông, cách đây đúng 5 năm, được NĐ72 nhắc tới là sẽ hết hiệu lực từ 1/9/2013, và đặc biệt là Thông tư 07 “đặc cách” giành riêng cho thế giới BLOG, đi kèm NĐ97 nhưng được ra đời sau đó 4 tháng. Ông chỉ nhắc tới NĐ55 và trước nữa là Quyết định 21.

Phải dài dòng trở lại 2 văn bản đặc biệt trên là có nhiều lý do!

Khi trang Ba Sàm vừa tròn 1 tuổi là lúc ra đời NĐ97. Ban đầu, dư luận không mấy ai quan tâm, vì nội dung của nó còn rất chung chung, ngoài 4 “nghiêm cấm” mà Điều 258 Bộ luật Hình sự cũng đã bao quát cả và ai cũng hiểu theo lệ cứ phải có thông tư thì NĐ mới được thực thi.

Kế đến, khi Thông tư 07 được ban hành, một làn sóng phản đối dấy lên, từ dư luận quốc tế, và mạng tự do, tuy chưa mạnh như bây giờ nhưng có báo cũng đã nhận xétthực tế Thông tư mới được ban hành thì đã nhận được không ít phản đối của giới blogger, cho rằng nhiều quy định dù chặt nhưng khó khả thi. Chẳng hạn, người nào có hành vi đặt đường liên kết thì người đó chịu trách nhiệm. Cụ thể, blogger khác nhảy vô blog mình comment để đặt liên kết đến thông tin xấu thì blogger đó chịu trách nhiệm chứ không thể bắt mình chịu trách nhiệm được. Các ý kiến này cho rằng quy định của Bộ không thực tế, và không hiểu hết thế giới blog”.

Đáng chú ý là báo chí nhà nước và cả chính quan chức nhà nước ‘ngành dọc” cũng đã chê bai Thông tư này. Ông Lê Mạnh Hà, khi đó là Giám đốc sở 4T TP HCM (nay là Phó Chủ tịch TP), đã lên tiếng như mỉa mai, nhưng cũng tựa một lời cáo chung cho văn bản và lối “quản lý” mơ hồ đó:“một thông tư như vậy mà muốn đi vào cuộc sống thì có lẽ lại phải có… văn bản hướng dẫn. Còn văn bản hướng dẫn đó mà chưa rõ thì lại phải… tiếp tục hướng dẫn nữa”.

Nhưng, dù đã thấy một tương lai đen tối cho Thông tư 07, trang BS cũng đã nhanh chóng tỏ ra nghiêm túc thực hiện, bằng cách ra quyết định thay đổi người quản lý, qua Kính cáo ngày 11/1/2009, tránh cho cơ quan chức năng phải bận tâm. Với quyết định này, trang BS sẽ được “quốc tế hóa”, được nằm hoàn toàn ngoài biên giới lãnh thổ VN, bởi người phụ trách không cư trú tại VN, trong khi nhà cung cấp dịch vụ blog thì đương nhiên đã thuộc quốc gia khác..

Sự “quốc tế hóa”, rồi cả “tập thể hóa” (chứ không còn là “trang thông tin điện tử cá nhân”) của trang BS còn được tiếp tục thể hiện 2 lần nữa.Lần thứ nhất là qua Kính báo thay đổi tạm thời, ngày 1/10/2012. Lần thứ hai sau khi bị tin tặc cướp trang ngày 8/3/2013, phải thay đổi địa chỉ nhiều lần, được chính thức thông báo của Biên tập viên – điều hành hoàn toàn trang BS, người cũng đã “được” tin tặc tiết lộ danh tính là đang định cư ở nước ngoài.

Kết cục là: suốt 5 năm qua, NĐ97 và Thông tư 07 dường như đã bị lãng quên, chẳng thấy nó “khả thi” hay được “thực thi” ra sao,  ít ra là với giới BLOG. Tưởng buồn, nhưng thực tế là đáng mừng cho xã hội.      .

Thế rồi, NĐ72 đã được ra đời. Ngoài một số “tham vọng” mới, rất đáng được mổ xẻ, thì như thể đang có một cuộc “rượt đuổi”, kéo dài suốt 5 năm qua, một điều khoản mới rất độc đáo hình như ít ai quan tâm, nhưng lại rất gần với quyết định của trang BS từ 5 năm trước, và có thể cả sự hiện hữu của nhiều web, blog, trang Facebook khác hiện nay. Cái “độc đáo” đó được gói gọn trong Điều 22: Cung cấp thông tin công cộng qua biên giới, với lời bỏ ngỏ rằng nó sẽ phải được Bộ 4T quy định cụ thể, mà có lẽ còn phải kèm theo cả Nghị định về xử lý vi phạm trên Internet, như Thứ trưởng Lê Nam Thắng cho biết, rồi thông tư kèm NĐ này, và v.v.  (Mời độc giả theo dõi tiếp bình luận vào sáng mai).

 

Tin thứ Sáu 8/8/2013:

Tiếp theo bình luận sáng qua về Nghị định 72.

Điều 22. Cung cấp thông tin công cộng qua biên giới. 1. Các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài khi cung cấp thông tin công cộng qua biên giới có người sử dụng tại Việt Nam hoặc có truy cập tại Việt Nam cần tuân thủ các quy định của pháp luật của Việt Nam. 2. Bộ Thông tin và Truyền thông quy định cụ thể về cung cấp thông tin công cộng qua biên giới.

Nội dung trên cho thấy có lẽ riêng loại hình này phải có hẳn một thông tư, hoặc sẽ chiếm dung lượng đáng kể trong một thông tư hướng dẫn thi hành NĐ72 (tương tự Thông tư 07 kèm NĐ97 cách đây 5 năm). Như vậy, do chưa có “quy định cụ thể” về khái niệm, đối tượng nào nằm trong diện “cung cấp thông tin công cộng qua biên giới”, nên chỉ xin đưa ra những gợi ý, riêng về đối tượng là “cá nhân”, hầu giúp cho cơ quan soạn thảo văn bản sắp tới.

“… Cá nhân nước ngoài”: có vẻ như nhắm đến các chủ thể “ngoại” đang hoạt động ở VN. Nhưng như vậy chưa đủ và rõ, mà có thể sẽ phải được hiểu đó là những đối tượng đang ở nước ngoài, hoặc đang sinh sống lâu dài ở VN (bao gồm cả nhân viên ngoại giao các nước), bao gồm: + người gốc Việt và không phải gốc Việt đang mang quốc tịch không phải VN; + người gốc Việt vẫn mang quốc tịch VN nhưng được định cư lâu dài ở nước khác; + người gốc không phải VN nhưng đã được vào quốc tịch VN; + và người không có quốc tịch.

“Cung cấp thông tin công cộng qua biên giới”. Đây là một khái niệm rất phức tạp và đa dạng cho loại hình “cung cấp thông tin công cộng” trên mạng Internet. Bởi vì để hội đủ điều kiện “qua biên giới”, nó có thể phải bao gồm các đối tượng: + đang ở nước ngoài nhưng có blog sử dụng mạng xã hội của VN, hoặc lập trang web thuộc nhà cung cấp trong lãnh thổ VN; + đang ở VN nhưng có blog (bao gồm cả trang trên Facebook), trang web thuộc nhà cung cấp không phải ở VN; + đang ở VN nhưng lại trong cơ quan ngoại giao nước ngoài;  + tuy nhiên, nếu thuộc ba loại vừa nêu, nhưng lại không có “người sử dụng tại VN” hoặc không có người “truy cập tại VN” thì có thuộc diện điều chỉnh của Điều 22 không, điều này cần nêu rõ trong thông tư sắp tới.

“Có người sử dụng/ truy cập tại VN”. Đây cũng lại là một khái niệm khó xác định. Việc lập blog, trang web là quyền ở người lập, nhưng việc “có người sử dụng tại VN” hay có người “truy cập tại VN” hay không thì lại không tùy thuộc người lập. Việc xác định có hay không và mức độ, số lượng người sử dụng, truy cập một blog, trang web nào đó thì được coi là “có” không phải điều là đơn giản.

Như vậy dường như một chủ thể phải hội đủ đồng thời cả 2 điều kiện vừa nêu trên thì mới thuộc phạm vi điều chỉnh của NĐ72. Cụ thể, nếu chỉ có hành vi “cung cấp thông tin công cộng qua biên giới” mà lại không xác định được là có “người sử dụng tại VN” hay “có truy cập tại VN” hay không thì cũng không thể là đối tượng của NĐ72.

– Quyền định đoạt, sở hữu phương tiện “cung cấp thông tin công cộng”. Tức là những “người nước ngoài” thuộc diện điều chỉnh của thông tư sắp tới, khi “cung cấp thông tin công cộng qua biên giới” đương nhiên phải thông qua các blog, web; thế nhưng quyền sở hữu của họ với các công cụ này đến đâu thì được chấp nhận, coi như là “của” họ? Các blog, web đó phải là do họ lập ra từ đầu, hay có thể cả những blog, web được cho, tặng, bán, nhờ trông coi, có người khác lập và điều hành hộ, v.v. ? Bằng cách nào để xác thực những hình thức “sở hữu” đó?

– Trong khi chưa có “quy định cụ thể” thì những  trang thông tin cá nhân, trang thông tin tổng hợp đã từng hoặc lúc này đưa ra tuyên bố là mình thuộc loại “nước ngoài”“xuyên biên giới” thì vẫn phải chờ đợi văn bản hướng dẫn để được quyết định “số phận”.

– Một chữ “cần” (chứ không phải là “phải“) đáng chú ý trong câu “Các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài … cần tuân thủ các quy định của pháp luật của Việt Nam”.  Nó có thể được hiểu như một lời khuyên, không phải là một yêu cầu bắt buộc.

Chỉ sơ qua một số gợi ý nêu trên cũng đủ thấy riêng Điều 22 cũng có thể làm cho NĐ72 này chưa thể “đi vào cuộc sống” được, mà nó còn phải chờ thêm một Thông tư hướng dẫn, hoặc một thông tư riêng cho loại đối tượng “… qua biên giới”, chưa nói tới phải có “nghị định về xử phạt vi phạm trên Internet”, và thêm nữa (xin được trình bày tiếp vào sáng mai).

 

Tin thứ Bảy 9/8/2013:

Xin bình tiếp về Nghị định 72, với những lỗ hổng, mù mờ và bước thụt lùi, ít nhất là trong kỹ thuật soạn thảo văn bản luật, so với NĐ97vốn đã như bị chìm nghỉm suốt 5 năm qua..

+ Trong cả Điều 1Điều 2 của NĐ72 về Phạm vi điều chỉnhĐối tượng áp dụng đều không nêu rõ ràng về các hoạt động và đối tượng là “tại Việt Nam” như NĐ97 từ 5 năm trước. Sự khác thường này còn liên quan tới Điều 22 ” xuyên biên giới” mà sáng qua đã bình luận, dễ làm ta nghĩ đến “tham vọng” của cơ quan quản lý dường như muốn quản cả hoạt động và đối tượng “cung cấp thông tin công cộng” từ ngoài lãnh thổ VN khi “có người sử dụng/ truy cập tại VN”.  .

“Tham vọng” trên càng rõ hơn khi trong Điều 2 NĐ72 này không có đoạn quan trọng như NĐ97, là “trong trường hợp các Điều ước quốc tế liên quan tới Internet mà Việt Nam ký kết và gia nhập có quy định khác với Nghị định này thì áp dụng quy định của Điều ước quốc tế”..

Có điều, các tác giả của NĐ72 hình như đã quên rằng ngay trong những lời mở đầu bản NĐ, họ đã viết rằng: “… Căn cứ Luật công nghệ thông tin ngày 29 tháng 6 năm 2006”. Họ “quên”, vì ngay Điều 2 của Luật Công nghệ thông tin đã “khoanh” Đối tượng áp dụng chỉ là “tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức cá nhân nước ngoài tham gia hoạt động ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin tại Việt Nam”. Như vậy cái sự “quên” đó có thể được gọi là vi phạm “luật mẹ” mà NĐ72 căn cứ vào, là Luật công nghệ thông tin hay không?.

Chưa hết, “luật mẹ” đó còn có cả quy định mà NĐ72 đã như lờ đi là “Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó” (Điều 3. Áp dụng Luật công nghệ thông tin)..

+ Và … vẫn còn nữa “tham vọng”, với dấu hiệu không những muốn qua mặt “luật mẹ” mà còn tự mâu thuẫn với chính mình, trong NĐ72. Trong Điều 20. Phân loại trang thông tin điện tử, có đoạn “4. Trang thông tin điện tử cá nhân là trang thông tin điện tử do cá nhân thiết lập hoặc thiết lập thông qua việc sử dụng mạng xã hội để cung cấp, trao đổi thông tin …”. Ở điều này, có lẽ nhiều người đọc, nhiều báo, và cuối cùng là cả các quan chức Bộ 4T qua các cuộc phỏng vấn đã tự suy diễn rằng nó bao gồm cả các blog, các trang dưới dạng “mini blog” trên Facebook và các mạng xã hội khác. Thế nhưng, họ đã “quên” rằng trong Luật công nghệ thông tin, “trang thông tin điện tử” đã được “khoanh” rất rõ là chỉ những website, tại Điều 4. Giải thích từ ngữ, mục 17, mà hoàn toàn không nhắc tới “blog” hay các trang được lập trên mạng xã hội. Thêm nữa, ngay trong chính NĐ72, trong Điều 3. Giải thích từ ngữ, mục 21 cũng ghi rõ “trang thông tin điện tử” là các website, có nghĩa không bao gồm các dạng blog..

Còn nhiều nữa những điều cần được mổ xẻ, đến độ không khéo số phận của NĐ72 này sẽ được quyết định nhanh, chứ không phải đợi tới khi có thông tư hướng dẫn như người anh số 97 của nó. Có điều, không rõ là Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Tư pháp có dám “thổi còi”, để bổ sung NĐ này vào danh sách dài bất tận lẫy lừng thế giới, chưa từng có trong lịch sử VN, với 4.178 văn bản ít nhiều vi phạm luật, được đánh giá bằng ngôn từ khéo léo rằng “chưa đảm bảo tính hợp pháp”, chỉ tính riêng từ đầu 2013 đến nay? (Xin được tiếp tục vào sáng mai).

 

Nguồn: Ba Sàm

 

 

This entry was posted in phản biện. Bookmark the permalink.