Giới trí thức khoa bảng tìm giải pháp thiết thực cho “vấn đề dân cày” hiện đại – một vấn đề cơ bản kéo dài hàng thế kỷ nay của cuộc cách mạng Việt Nam

         Không còn là vấn đề “địa chủ và nông dân” như thời Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp đề xuất vào những năm 40 thế kỷ XX, vì bóc lột địa tô thời ấy còn dễ thở chán vạn lần hơn bây giờ, luật pháp và dự luận cũng nghiêm minh hơn hẳn bây giờ. Bây giờ đây, uy hiếp cuộc sống của nông dân lại là những chiếc vòi bạch tuộc đẻ ra từ sân sau của các cấp chính quyền, cháu chắt những đứa con từng âm thầm hoạt động trong lòng dân và từng được nông dân hết lòng che chở, nay đang quay trở lại hút hết máu mủ sinh lực của nông dân để đắp thêm vào chiếc túi vốn đã phồng căng của mình. Quyền lực tiếp tay cho loại đỉa khổng lồ hai đầu hút máu ấy. Nông dân nhiều nơi mất đất, mất nhà cửa ruộng vườn, kể cả mất mạng (xem Thông tin nóng về người dân oan tự thiêu: https://1-dot-sproxy-srv.appspot.com/www.facebook.com/photo.php?fbid=494895903921839&set=a.406285832782847.114391.100002043009988&type=1; Tin tức dân oan ngày13, 14, 15 tháng Bảy 2013: http://danoanbuihang.blogspot.com/2013/07/tin-tuc-dan-oan-ngay-13-14-15-thang-7.html; Thân phận bọt bèo của người nông dân Việt Nam: http://boxitvn.blogspot.com/2012/03/than-phan-bot-beo-cua-nguoi-nong-dan.html; Xin cho nông dân than một tiếng: http://boxitvn.blogspot.com/2013/04/xin-cho-nong-dan-than-mot-tieng.html; Uớc gì bà Yingluck Shinawatra là Thủ tướng của Việt Nam: http://boxitvn.blogspot.com/2012/03/uoc-gi-ba-yingluck-shinawatra-la-thu.html; Những túp lều dưới gốc thiên đường: https://1-dot-sproxy-srv.appspot.com/chimkiwi.blogspot.com/2013/07/nhung-tup-leu-duoi-goc-thien-uong.html, v.v.) cũng vì những chiếc vòi bất lương tha hồ tự tung tự tác, lại được những kẻ như Đỗ Caca nghênh ngáo đem súng đạn ra đè bẹp ngay mọi phản ứng tự vệ.

Nếu quả còn chút lương tri với đất nước thì không chỉ lên giọng trên diễn đàn này kia để “diễn”, mà hãy thật tâm đề xuất các chính sách cụ thể nhằm ngăn chặn bàn tay tham bạo được ngụy trang rất kỹ của kẻ bóc lột có uy quyền và cải thiện thực sự đời sống nông dân!

Đồng bào chúng ta ơi, tìm mọi cách cứu lấy nông dân.

Bauxite Việt Nam.

Tuy nhiên, có tình trạng không công bằng như doanh nhân tham gia kinh doanh xuất khẩu gạo thu nhập cao “ngất ngưởng”, mà nông dân thì nghèo xơ nghèo xác như nhiều nơi hiện nay:

Người làm ra lúa trắng tay,  

Kẻ đi buôn gạo mỗi ngày giàu thêm.

     Nông dân thiếu vốn ưu phiền, 

Để cho doanh nghiệp đem tiền đi buôn. 

[…]

Nhiều chuyên gia cho rằng, hàng năm Nhà nước phải bỏ ra hàng trăm tỷ đồng để hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp tạm trữ lúa gạo cho nông dân. Doanh nghiệp được vay vốn không phải trả lãi để mua lúa lúc giá rẻ và chờ đến khi giá cao thì bán, như vậy là doanh nghiệp được hưởng lợi “kép”, nhưng ngược lại, nông dân bị “thiệt đơn thiệt kép”.

GSTS Nguyễn Văn Luật

Tái cơ cấu nông nghiệp hướng vào lợi ích của nông dân – Tăng thu nhập thuần của nông dân?

GSTS Nguyễn Văn Luật

               Trong mối quan hệ “ Nông dân; Nông thôn: Nông nghiệp” thì nông dân ắt là chủ thể. Vì xây dựng nông thôn, và làm nông nghiệp là do nông dân. Trong mối quan hệ “Bốn Nhà”,  đương nhiên Nhà nông đứng vị trí chủ thể, trong đó quan hệ liên kết giữa Nhà nông và Doanh nghiệp nếu có hiệu quả thì là mối quan hệ trực tiếp và thường xuyên. Nhà khoa học nghiên cứu và chuyển giao giống và kỹ thuật vào sản xuất tất nhiên phải qua nông dân. Nhà nước quản lý và hỗ trợ sản xuất nông nghiệp thi đối tượng chính vẫn là nông dân. Do đó, tái cơ cấu nhanh nền nông nghiệp bền vững cần lấy điểm xuất phát, lấy thước đo là mức độ cải thiện đời sống kinh tế xã hội của người nông dân.

Trong công cuộc tái cơ cấu nông nghiệp có nội dung trồng cây gì, nuôi con gì. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là làm thế nào để nuôi trồng có hiệu quả cao hướng về lợi ích của nông dân, và phải có khởi điểm thích hợp và bước đi vững chắc. Muốn vậy thì phải bắt đầu từ cây lúa mà đại đa số người dân gắn bó với nó suốt đời này sang đời khác (1, 2, 3). Dùng giống và kỹ thuật lúa nào để vừa phải đầu tư ít, vừa dễ bán có lời cao là mục đích sản xuất của nông dân. Người nông dân đâu có cần biết giống lúa này nọ của ai, từ đâu! Điều này có thể lý giải vì sao nông dân ĐBSCL bình quân dùng giống lúa OM trên 60%  – 70 % và giống IR50404 tới trên 21% diện tích lúa.

Tái cơ cấu nông nghiệp cần tính đến thu nhập thuần của nông hộ, trong đó có nông sản hàng hóa, như lúa gạo, trái cây, tôm cá… (Nhiều chuyên gia thường tính ngược lại, tính từ nông sản xuất khẩu, ở vùng chuyên canh lúa lớn như ĐBSCL thì chỉ quan tâm nhiều đến sản xuất lúa gạo. Trong các vùng miệt vườn trái cây cũng vậy, người làm vườn đã thực hiện chiến lược vùng chuyên canh trái cây nào đó, như bưởi năm doi, sầu riêng hạt lép… nhưng vườn đa canh VAC. Vì diện tích sản xuất lúa của mỗi gia đình lại quá nhỏ lẻ, nên muốn thu nhập cao phải luân canh tăng vụ lúa – ngô / cây đậu đỗ, lúa – tôm / cá, đa canh, phát triển ngành nghề (bảng 3, tài liệu tham khảo 1, 2, 3).

Tái cơ cấu nông nghiệp ở phạm vi vĩ mô cần xem xét ngành hàng sản xuất kinh doanh lúa / gao; rau hoa quả… nên vận hành thế nào để lợi ích hướng vào người sản xuất ra nông sản hay nông dân hiện còn bị thiệt thòi nhiều (bảng 4, 5) . Nhiều chuyên gia khuyên nông dân sản xuất theo yêu cầu của thị trường. Nông dân chỉ biết sản xuất ra để bán được cho thương lái, nghe và làm theo thương lái; nghe từ các nguồn thông tin khác mà sản xuất thì không hoặc khó bán được sản phẩm với giá thỏa đáng. Nghiên cứu dự báo thị trường nếu giúp được doanh nghiệp cũng giúp nâng cao chuỗi giá trị ngành hàng.

Y kiến của nhiều chuyên gia cũng yêu cầu Nhà nước xem xét và đầu tư cho nông nghiệp thỏa đáng. Sản xuất nông nghiệp luôn đóng góp cho GDP gần 20%; các đây hơn 1 thập kỷ, Nhà nước đầu tư lại cho nông nghiệp khoảng 13 – 14%; sau đó giảm dần nay còn khoảng trên một nửa; trong khi đất nông nghiệp bị thu hồi có đền bù ngày một nhiều.

Nhà nước và ngành nông nghiệp đã có nhiều chủ trương, như phải làm sao để đảm bảo nông dân trồng lúa lời 30%; như phong trào thi đua sản xuất nông nghiệp có thu nhập 50 triệu trên 1 ha, hay trên 1 nông hộ… Phong trào thi đua đạt những tiêu chí trên đã nhiều nơi có khi đạt được kết quả nhất định. Tuy nhiên, cũng có điểm chưa hợp lý, như thu nhập cao mà chi phí tăng làm cho lời ròng không tăng, có khi còn giảm; như khi gặp khó khăn về tiêu thụ nông sản như năm nay, người sản xuất lúa thu lởi 30% là khó! Những tổng kết thành tích về năng suất và tổng sản lượng, về lượng gạo xuất khẩu năm sau luôn cao hơn năm trước tuy cần thiết để chỉ đạo sản xuất kinh doanh, nhưng  nông dân chỉ phấn khởi khi thu nhập thuần của gia đình mình tăng.

Nhà nước ta đã có, vừa có, và chắc chắn sẽ có nhiều chủ trương chính sách  hướng về lợi ích của nông dân, nhất là nông dân sản xuất lúa, nuôi thủy sản.  Trong cuộc họp bàn giải pháp tháo gỡ khó khăn về sản xuất và tiêu thụ lúa gạo, thủy sản vùng ĐBSCL ngày 5/6/2013 vừa qua ở Cần Thơ, Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh khẳng định: “Mục tiêu tương lai là tăng hiệu quả sản xuất, cải thiện hơn nữa đời sống của người dân”. Bộ trưởng Nông nghiệp và PTNT Cao Đức Phát cũng kỳ vọng: “Phải có những điều chỉnh căn cơ để nâng chất lượng nông sản, giảm giá thành, nhằm tăng thu  nhập cho nông dân…”  Trong cuộc tiếp xúc khác, Bộ trưởng còn nói cần chuyển giao chu đáo giống và kỹ thuật cho nông dân. Nhưng khi nông dân đã làm, đã có kinh nghiệm rồi thì phải tôn trọng quyền lựa chọn của dân, như việc dùng giống nào, làm mấy vụ, cán bộ không được khuyến cáo mang tính mệnh lệnh. Cục trưởng Cục Trồng trọt, PGS Lê Quốc Doanh, vừa được bổ nhiệm làm Thứ trưởng, quan tâm cùng với các nhà khoa học ở ĐBSCL xác định giống lúa OM, ST hay giống nào có giá trị xuất khẩu cao, và triển vọng có thương hiệu quốc gia…

Ở ĐBSCL, vựa lúa lớn nhất của cả nước, hiện còn có những ý kiến thuận chiều và  trái chiều về lúa vụ 3 và sử dụng giống lúa IR50404. Dù thuận hay trái chiều đều xuất phát từ thiện chí với nông nghiệp, với nông dân (bảng 1, 2).

Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long vừa phối hợp với 13 Sở Nông nghiệp và PTNT khảo sát và thống kê việc sử dụng giống lúa. Kết quả cho thấy tỷ lệ diện tích dùng giống IR50404 ở tỉnh Đồng Tháp, nơi có nhiều cơ sở chế biến bánh bún, là 41 đến 58%; tỉnh dùng ít nhất thấy ở Bạc Liêu, Cà Mau, 6 – 9%; bình quân toàn vùng trên 21%. Còn lại là những giống tạo chọn trong nước, chủ yếu là những giống OM. Vấn đề là ở chỗ: hơn 2 thập kỷ cho đến mấy năm gần đây, có  khuyến cáo không làm, hoặc làm với khoảng 10% diện tích lúa. Lý do: doanh nghiệp cho rằng giống này cho chất lượng gạo xuất khẩu kém, nhất là ở vụ hè thu, giảm giá trị xuất khẩu. Bà con nông dân vẫn liên tục sử dụng vì vừa dễ làm và lời hơn nhiều giống  khác, vừa dễ bán cho thương lái thu gom cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo! Cần có đề tài nghiên cứu thực trạng sản xuất kinh doanh giống IR50404 trong cơ cấu giống lúa ở ĐBSCL và ý kiến tham mưu với cơ quan chức năng, và cũng việc làm vì lợi ích của nông dân.

Lúa vụ 3 phần lớn là vụ thu đông, nhưng có khi là vụ hè thu ở nơi chỉ làm vụ đông xuân, xuân hè và hè thu; lại có nơi bà con nông dân trồng mầu vụ đông xuân có lời hơn làm lúa, sau đó mới làm hè thu và thu đông. Cho nên diện tích vụ thu đông lớn hơn diện tích 3 vụ lúa. Năm qua, diện tích lúa thu đông là 685 ngàn ha, diện tích 3 vụ lúa chưa đầy 500 ngàn trong tổng số 3,8 triệu ha gieo trồng. Một tổng kết 11 năm lúa thu đông hay vụ 3 ở tỉnh An Giang do nguyên PCT tỉnh Lê Minh Tùng thực hiện cho thấy năm 2000 diện tích lúa vụ 3 đạt 21.000 ha; năm 2011 là 133.723 ha; sản lượng từ 96.526 ha lên 762.687 ha. So với vụ hè thu, chỉ có 2 năm 2005, 2006 đạt năng suất lúa kém vụ hè thu, còn đều cao hơn! Ở địa phương khác cũng có nơi có khi năng suất vụ thu đông cao hơn, cũng có nơi thấp hơn. Cũng như việc sử dụng giống lúa IR50404, chúng ta cần tôn trọng sự lựa chọn của nông dân. Trong sản xuất, nếu bà con gặp khó khăn gì thì cán bộ liên quan cần giúp bà con tháo gỡ, chứ không cứ thấy khó là cấm như Thủ tướng Chính phủ đã có lần chỉ đạo.

Nông dân ĐBSCL có tập quán sản xuất nông sản hàng hóa. Nếu bà con thấy, hoặc chỉ nghĩ rằng trồng cây này có lời hơn cây kia, đã chặt bỏ cây này trồng cây mới; lên liếp ruộng lúa để làm vườn hay hạ thấp đất vườn gieo cấy lại lúa. Bà con nông dân đều biết rằng trồng lúa với diện tích nhỏ lẻ manh mún sao có thể làm giàu được, trừ số ít trang trại tích tụ được ruộng đất Trồng rau mầu, như ngô (bắp), đậu đỗ…,vừa rất khó bán, vừa khó vận chuyển và bảo quản. Chỉ khi có doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm, chế biến hoặc xuất tươi, thì những ý kiến thiện chí giảm vài triệu ha lúa chuyển sang trồng mầu, hay nuôi tôm cá mới có thể thành hiện thực.

Nói chung, nông dân thụ hưởng ưu đãi từ những chính sách, những sự chỉ đạo sản xuất chưa được là bao, chưa tương xứng, mà  thường “đọng” lại ở doanh nghiệp, ở thương lái lúa. Mặt khác, cũng cần thông cảm với doanh nghiệp phải hoạt động kinh doanh, phải thu hồi vốn cho Nhà nước. Tuy nhiên, có tình trạng không công bằng như doanh nhân tham gia kinh doanh xuất khẩu gạo thu nhập cao “ngất ngưởng”, mà nông dân thì nghèo xơ nghèo xác như nhiều nơi hiện nay:

Người làm ra lúa trắng tay,  

Kẻ đi buôn gạo mỗi ngày giàu thêm.

     Nông dân thiếu vốn ưu phiền, 

Để cho doanh nghiệp đem tiền đi buôn.    

Nhiều chuyên gia cho rằng, hàng năm Nhà nước phải bỏ ra hàng trăm tỷ đồng để hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp tạm trữ lúa gạo cho nông dân. Doanh nghiệp được vay vốn không phải trả lãi để mua lúa lúc giá rẻ và chờ đến khi giá cao thì bán, như vậy là doanh nghiệp được hưởng lợi “kép”, nhưng ngược lại, nông dân bị “thiệt đơn thiệt kép”… Nhà nước trợ giá các đầu vào cơ bản cho sản xuất phân bón như điện, than, khí đồng hành nhưng khi sản xuất còn chưa đủ đáp ứng nhu cầu thì doanh nghiệp lấy lý do phân bón có thể bị buôn lậu để nâng giá bán ngang bằng.

 

N.V.L.

Nguồn: https://1-dot-sproxy-srv.appspot.com/bongbvt.blogspot.com/2013/07/nong-dan-thiet-on-thiet-kep.html

This entry was posted in Nông Thôn. Bookmark the permalink.