Trong một bài trả lời trên VNExpress.net ngày 10-1-2011 vừa qua, dưới nhan đề Việt Nam không chấp nhận nền hòa bình lệ thuộc, Trung tướng Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam Nguyễn Chí Vịnh đã có những tuyên bố chắc nịch làm không ít người cảm thấy hởi lòng:
“Chúng ta đang trong thời bình, vì thế phải duy trì bằng được hòa bình và hữu nghị với các nước láng giềng. Kể cả trong thời chiến, đánh thắng cũng để tìm kiếm hòa bình, hữu nghị. Tuy nhiên, hòa bình phải gắn với độc lập tự chủ. Một nền hòa bình lệ thuộc, không bình đẳng, mất độc lập tự chủ, bị xâm phạm chủ quyền lãnh thổ thì không bao giờ chúng ta chấp nhận. Khái niệm hòa bình nếu nghĩ sâu hơn chính là động lực để xây dựng sức mạnh bảo vệ đất nước.
Hòa bình của chúng ta không phải là cầu hòa, Việt Nam không chấp nhận hòa bình lệ thuộc. Khi ta đã làm tất cả những gì có thể để gìn giữ hòa bình mà nước khác cứ muốn xâm hại lợi ích của đất nước ta thì lúc đó, thế của ta sẽ như cánh cung kéo hết, đã buông dây cung thì đó là sức mạnh vô cùng to lớn của cả dân tộc để bảo vệ Tổ quốc mình.
Chủ quyền, độc lập tự chủ trước, hòa bình sau, vì không có độc lập tự chủ, mất chủ quyền lãnh thổ thì còn gì nữa đâu mà nói hòa bình? Quyền tự quyết của một đất nước là điều quan trọng nhất. Bác Hồ nói rồi, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, mọi nỗ lực của Bác là có độc lập, tự do cho dân tộc. Có mối quan hệ giữa chủ quyền và hòa bình, muốn có hòa bình phải có chủ quyền lãnh thổ. Hai cái đó không thiếu được, tôi có một tư duy nhất quán về chuyện này. Hòa bình vừa là động lực để bảo vệ, xây dựng Tổ quốc, vừa là mục đích ta phải giữ. Nhưng chủ quyền phải được đặt lên hàng đầu” (http://vnexpress.net/GL/The-gioi/Tu-lieu/2010/10/3BA21037/).
Việc Chính phủ Việt Nam với tư cách Chủ tịch luân phiên ASEAN trong năm 2010 đã lèo lái vấn đề Biển Đông theo hướng đa phương hóa có lợi cho nước ta cũng như cho các nước Đông Nam Á có chủ quyền và lợi ích tại đây là một cố gắng thấy rõ.
Tuy nhiên, sự hào hứng cũng chỉ mới là một nửa. Mọi sự tuyên bố phải được thể hiện bằng hành động chứ không phải chỉ nằm lại trong tuyên bố, hay chỉ kiếm tìm trên bàn thương lượng rồi… đâu hoàn đấy.Về thực lực, không nên so sánh mình với Hải quân Malaysia từng đuổi tàu Ngư chính Trung Quốc phải bỏ chạy, bởi có lẽ nhà cầm quyền chúng ta có cái khó riêng mà người dân cần hết sức cảm thông. Song là người chủ thật sự của đất nước suốt đời gắn bó mạng sống của mình và gia đình, bà con chòm xóm mình với lãnh thổ lãnh hải, mọi hậu quả nặng nề mà người dân gánh chịu một khi đất nước bị xâm phạm cũng cần được nhà cầm quyền thấu hiểu và giúp đỡ cụ thể, không phải chỉ bằng những lời tuyên bố suông. Trong tình hình Biển Đông nổi sóng vì lũ hải tặc láng giềng, vùng biển của tổ tiên bị ngang nhiên cướp đoạt, ngư dân vì sinh kế dĩ nhiên phải bám lấy nguồn hải sản phong phú do kinh nghiệm lâu đời của cha ông truyền lại để đánh bắt, thế nhưng họ lại liên tiếp bị đánh giết, cướp bóc, giam cầm đến táng gia bại sản ngay trên hải phận của nước ta. Vậy mà họ chỉ được nghe những lời tuyên bố sướng tai, những lý lẽ hay ho trong các cuộc họp thượng đỉnh được báo chí hồ hởi đưa tin, trong khi trên thực tế chết chóc vẫn hoàn chết chóc, cùng kiệt càng thêm cùng kiệt, muốn trông chờ một lực lượng chuyên nghiệp của Nhà nước ứng cứu lúc cấp bách thì lại thấy lấp ló những đoàn tàu mới đây là cướp biển nay đang dương lá cờ “cứu nạn” trong những cuộc tìm kiếm chung giữa hai “đội tuần tra 4 tốt”… Họ làm sao có thể hởi lòng?
Ông André Menras, một nhà báo kỳ cựu người Pháp đã vì cuộc đấu tranh thống nhất của nhân dân Việt Nam mà từng phải ngồi tù trong khám lớn của chính quyền Sài Gòn; sau này vì yêu quý dân tộc ta mà xin nhập quốc tịch Việt Nam, và xin đổi sang họ Hồ của Chủ tịch Hồ Chí Minh dưới cái tên Hồ Cương Quyết. Con người gắn bó với đấtViệt và người Việt đến cỡ ấy dễ hiểu đã xúc động đến chừng nào khi thân hành ra đảo Lý Sơn gặp người anh hùng Mai Phụng Lưu để tìm hiểu vì sao ông lại công khai từ bỏ nghề đánh bắt trên vùng biển Hoàng Sa mà trước đấy, dù bốn lần bị Hải quân Trung Quốc bắt giam cũng như tài sản đi biển bị cướp lột sạch sanh vẫn chưa bao giờ ông có ý định bỏ cuộc. Chúng tôi coi bài báo của ông André Menras trực tiếp gửi đến cho BVN là đại biểu cho một tiếng nói thứ hai, tiếng nói không hởi lòng mà không phải ai cũng trông đợi, nhưng thiết nghĩ, những ai còn giữ được sự chính trực, còn có lương tâm với nước với dân, đều cần được biết và nghiền ngẫm thật nghiêm túc. Nghĩ như vậy, chúng tôi mạnh dạn cho dịch và công bố bài báo đầy tâm huyết của người bạn da trắng mang họ Hồ và tự hào mình có dòng máu Việt trong huyết quản. Tin tức về việc chính quyền huyện đảo Lý Sơn vừa đề xuất lên cấp trên cho ông Mai Phụng Lưu được vay 300 triệu đồng với lãi suất rất thấp để đóng thuyền trở lại nghề đi biển càng thôi thúc chúng tôi sớm công bố bài báo này.
Bauxite Việt Nam
Thực sự, những ngày gần đây, tin tức từ Việt Nam không phải là thật tốt đẹp cho người Việt và bạn bè của họ trên thế giới. Tôi vừa đọc được từ tờ báo SGTT ngày 06 Tháng 01 năm 2011 rằng ông Mai Phụng Lưu, chủ sở hữu của một con tàu đánh cá ở Lý Sơn, đã phải ngừng hoạt động do thiếu tiền trả nợ, hậu quả trực tiếp của việc bọn cướp biển Trung Hoa hoành hành trên vùng biển thuộc khu vực Hoàng Sa. Đây không phải là, như người ta có thể nghĩ, một việc vặt vãnh trong số biết bao việc khác, mà là một tín hiệu báo động đèn đỏ mới và khủng khiếp, nó bật sáng lên khi sự vẹn toàn lãnh hải và lãnh thổ của Việt Nam ở vào tình thế hiểm nguy.
Người đàn ông dũng cảm và giàu kinh nghiệm này, giữa tuổi đang đầy sức vóc, đã bốn lần bị lực lượng Hải quân của “những láng giềng tốt” bắt giữ, đánh đập, giam cầm, đòi tiền chuộc, thế rồi cuối cùng đành phải khuất phục. Chữ “bất khuất” từng là biểu tượng cho đất nước này qua nhiều thế kỷ trong con mắt của thế giới, phải chăng đã từ từ biến mất trong ngôn ngữ Việt Nam?
Nhưng không phải thế, bốn mươi bốn ngày bị giam giữ mới đây cùng với đoạn kết 4 ngày đêm lang thang trong bão giông mà không có trong tay những dụng cụ đi biển, không có sự hỗ trợ thực sự nào của Hải quân Việt Nam: tất cả những điều đó vẫn không hề làm nhụt quyết tâm của ông Lưu. Khi thoát cảnh cầm tù trở về, sau nhiều lần mặt giáp mặt với cái chết, vậy mà ông vẫn tuyên bố sẽ quay trở lại biển Hoàng Sa, vì đây là khu vực đánh cá của tổ tiên mình. Bởi vì người đàn ông đáng mặt đàn ông ấy không phải là loại người chịu buông xuôi. Không như một số bạn chài ở Lý Sơn, từ bỏ đánh bắt trong các vùng biển tổ tiên để lại này mà nay Bắc Kinh muốn cướp đoạt. Không như họ, ông đã không quay về vùng biển Trường Sa, xa hơn nhưng tạm thời ít nguy hiểm hơn. Người đàn ông này là một thủy thủ của nhân dân. Với ông, lời nói có ý nghĩa và có giá trị dấn thân: làm mới nói và nói là làm. Vậy thì tại sao ông lại phải bỏ biển nếu không phải là vì sợ hiểm nguy? Có phải chỉ vì các khoản nợ vô cớ chất lên lưng ông và những khó khăn vật chất mà những khoản nợ ấy kéo tới cho gia đình ông? Tôi không nghĩ rằng sự thể lại như vậy.
Lý do thực sự để từ bỏ, ông Mai Phùng Lưu sẽ không nói, báo SGTT sẽ không thể viết ra, chẳng tờ báo Việt Nam nào khác dám viết để mà bị thu hồi ngay lập tức. Nhưng lý do ấy lại rất đơn giản, rất dễ hiểu và phải được nói ra: ông Lưu đã hoàn toàn mất lòng tin vào các bài diễn văn hay ho, các lời tuyên bố rắn rỏi cũng như điệu bộ khoa trương của các nhà lãnh đạo chính trị. Giờ đây ông thấy rõ mình bị họ bỏ rơi, bị buộc phải chấp nhận thất bại nhục nhã của cả một đời trung thành với biển. Thậm chí ông còn cảm thấy sự kiên trì chống chọi của mình có thể trở thành phiền nhiễu cho cái câu lạc bộ “4 tốt và 16 chữ vàng” của Việt Nam… – Tôi xin nói thêm và có cân nhắc kỹ, rằng ông Lưu có đủ lý do xác đáng để thấy mình bị phản bội bởi những người có nhiệm vụ bảo vệ cho ông.
Điều này thật đã hiển nhiên khi ta xét qua một số lời tuyên bố và hoạt động chính thức cần được nhắc lại ở đây:
“Trong bốn ngành kinh tế biển chỉ có ngư dân là lực lượng đặc thù phải bám biển, hoạt động trên diện rộng trong toàn bộ các vùng biển có chủ quyền lãnh thổ. Vì bản chất của ngư dân là phải bám biển nên đây là lực lượng không thay thế được, ngay cả trong tổ chức chiến tranh nhân dân trên biển. Ngoài chuyện mưu sinh của ngư dân, sự có mặt của ngư dân trên biển còn góp phần khẳng định chủ quyền và họ chính là lực lượng đang tham gia việc bảo vệ chủ quyền”. “Quỹ này sẽ hỗ trợ ngư dân gặp rủi ro khi đánh bắt xa bờ như: gặp bão tố, bị “tàu lạ” đâm chìm, bị người nước ngoài bắt và tịch thu tàu bè, ngư cụ…” (Ông Nguyễn Chu Hồi, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo tuyên bố);
“Cần có quĩ ủng hộ ngư dân đánh bắt cá ở Hoàng Sa”… “sự hỗ trợ của các tổ chức nước ngoài” (Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Ngãi).
Vẫn biết là các lời tuyên bố như thế không phải là từ những người có trách nhiệm rất cao trong Đảng và Nhà nước vốn rất kiệm lời trong việc phát biểu công khai những vấn đề này, ngoại trừ Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết khi lên tiếng tại đảo Bạch Long Vĩ. Rất có thể những lời trích dẫn kia là thành thực vào lúc chúng được phát ngôn. Nhưng với kinh nghiệm, thì cũng phải thấy cho hết nhẽ, rằng những lời nói đó đều gắn liền mật thiết với phương pháp “đánh trống bỏ dùi”.
Tôi sẽ tránh làm độc giả nhớ đến những lời tuyên bố lặp đi lặp lại của Bộ Ngoại giao Việt Nam, sau mỗi cuộc tấn công xâm lược của Trung Quốc, lại khẳng định như một điệp khúc nhàm chán về chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa với “người đồng chí tốt” của mình, kẻ vẫn làm đui làm điếc, và cứ tiếp tục lặng lẽ ra đòn thật tồi tệ chống lại tất cả những ông Luu người Việt vẫn còn dám ngẩng cao đầu kiếm sống trong nhân phẩm trên biển và trên các hòn đảo của tổ tiên họ.
Cũng nên nhớ lại tình tiết bi thảm khi chúng ta bặt tin tức của ông Lưu và 9 bạn đồng hành của ông – ấy là lúc họ được người anh em “Mười sáu chữ vàng” rộng lòng trả cho họ được tự do vào ngay giữa trận bão. Nhân dịp này, các nhà chức trách Việt Nam còn có màn trình diễn hay ho hơn nữa: sau hơn 3 ngày chơi trò ú tim thảm hại, giới chức cấp trung ương đá quả bóng trách nhiệm về cho cấp vùng, rồi mấy ông này lại chỉ xuống cấp địa phương, và cấp này than van về sự bất lực của họ vì thiếu phương tiện, các nhà hoạch định chính sách quốc gia bí ẩn nhân đó liền tìm thấy không có cơ hội nào tốt hơn để mời gọi bọn cướp biển kiêm cai ngục Trung Quốc cùng tìm kiếm tìm những người mất tích.
Và cuối cùng, trong cuộc đua của hội giả trang này, Việt Nam đã dám – cả gan đến tuyệt đỉnh – tự mình phiêu lưu trên không gian hàng hải riêng của mình với giấy phép do Trung Quốc cấp; và rồi lại là người Trung Quốc có công tìm ra và cứu vớt những người mất tích. Cảm ơn, vô cùng cám ơn, các đồng chí! Vụ này thật đáng được dâng tặng một bó hoa đẹp giống như bó hoa tặng cho Thuyền trưởng Trung Quốc của chiếc tàu hộ vệ tên lửa XIANGFAN hồi sáng 3 /12 khi nó cập cảng Tiên Sa thăm «hữu nghị» thành phố Đà Nẵng.
Vinh dự thay Hải quân Trung Quốc, tội nghiệp thay những ngư dân Việt Nam. “Ông anh! Chào mừng ông anh đã xông vào nhà tôi qua cửa lớn chính anh đã phá toang! Cho phép tôi giới thiệu với ông anh đây là vợ tôi… “. Mong sao khi họ đụng nhau trong vùng biển Hoàng Sa của Việt Nam, hai bên “đối tác tốt” sẽ không quên ném một bó hoa khác xuống biển để tưởng nhớ các ngư dân và những thủy thủ của miền Trung Việt Nam đã chết chìm bởi tay những “con tàu hữu hảo” trong những đêm đen và những ngày đỏ máu. Những con người đầy bản lĩnh và dũng cảm như ông Lưu sao lại có thể tham gia được vào tấn hài kịch buồn thảm đó?
Tôi đã từng đau đớn trải nghiệm cảnh những người ngư dân bị bỏ rơi (1). Tôi đã biết thế nào là sức ỳ của một bộ máy hành chính và chính quyền tại Việt Nam, họ hành động trái ngược hẳn với những lời tuyên bố, họ kiểm soát và ngăn trở mọi giúp đỡ thực sự, họ để mặc cho ngư dân không có chút hy vọng ở ngày mai, phải đơn thương độc mã đối diện với lũ yêu tinh Trung Quốc. Tôi vẫn còn giữ y nguyên một vài trong số những lời của một ông già ở An Vinh âu sầu nói nhỏ vào tai tôi trước khi tôi rời Lý Sơn: «Mấy năm nay bọn Tàu đã hoàn toàn làm chủ cả đảo lẫn biển. Rồi đây đến lượt Trường Sa và không chừng cả… Lý Sơn».
Sao người ta có thể bán rẻ tình hữu nghị của nhân dân Việt Nam cho những kẻ ngược đãi họ, trấn lột họ, và công nhiên làm nhục họ như vậy? Sao người ta có thể khom mình chiều theo một nền hòa bình kiểu Trung Hoa và để mặc cho chết dần từng chiến sĩ cuối cùng giữ gìn hòa bình vùng biển và đảo Việt Nam? Vì những mặc cả bí mật gì vậy? Cần phải chấm dứt ngay thứ ngôn ngữ nước đôi chỉ có lợi cho những kẻ xâm lược và cần phải chọn cách nói của sự thật và sự minh bạch. Phải chọn giữa một bên là những tàu chiến Trung Quốc và quân giết người đang xâm nhập vùng biển Việt Nam và một bên là an ninh của ngư dân miền Trung đang kiếm tìm phương tiện sinh sống chính đáng duy nhất của mình.
Khi ông Lưu phải từ bỏ việc đánh cá ở Hoàng Sa sau hơn ba mươi năm hoạt động trong vùng biển này, trong khi Chính phủ Việt Nam không cần tính đến hàng tỷ đồng để kỷ niệm 1000 năm Thăng Long song lại không moi đâu ra 600 triệu đồng trả các khoản nợ cho con người yêu nước dũng cảm ấy và để ông ta chìm đắm lạnh lẽo vào cảnh đói nghèo nhục nhã, thì chúng ta phải đặt ra câu hỏi: Ông Lưu liệu có bỏ cuộc nếu người ta trả các khoản nợ giúp ông? Ông Lưu liệu có bỏ cuộc nếu người ta cho phép đồng bào ông ở trong nước và nước ngoài trả các khoản nợ giúp ông và cho phép gửi đến ông những lá thư bày tỏ tấm lòng thông cảm? Cuối cùng, trách nhiệm về những hậu quả của việc bỏ cuộc này thuộc về ai? Ai đáng phải gánh lấy sự xấu hổ vì chuyện đó?
Khi nhà bị dột, đặt mấy cái chậu dưới từng máng nước vẫn không ngăn được tình trạng tồi tệ hơn. Chúng ta phải lợp lại mái nhà thôi.
Vào đêm trước Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam, sau những vụ Bauxite, vụ [Huỳnh Ngọc Sĩ nhận hối lộ của] PCI, vụ Vedan, vụ InnoGreen, vụ Vinashin v.v., sự kiện Mai Phụng Lưu còn đặt ra một lần nữa hai câu hỏi vô cùng quan trọng:
1) Các nhà lãnh đạo Việt Nam có còn ý chí và dũng cảm nhận mang trên vai mình và mang trong danh dự cả vận mệnh của quốc gia và tài sản của nhân dân?
2) Nếu một số người trong họ còn có ý chí và lòng dũng cảm ấy, thì hệ thống chính trị-kinh tế hiện tại liệu có cho phép họ làm được điều đó?
Tôi đồ chừng rằng chẳng có ai trong những người tham dự đại hội dám đặt các câu hỏi này ra và có thể tự do trả lời những điều đó. Đối với tôi – một quan sát viên khiêm nhường, chỉ cần một câu trả lời thôi: Đã hoàn toàn đến lúc phải thay đổi. Phải thực sự thay đổi vì lợi ích của Việt Nam.
Để kết luận cho bài viết cay đắng này, xin bạn đọc cho phép tôi gửi đến ông Mai Phụng Lưu, đến gia đình ông và đến các bạn ngư dân của ông ở Lý Sơn và các nơi khác, đến tất cả những ai vẫn còn dám đi ra vùng biển Việt Nam ở Hoàng Sa, sự ngưỡng mộ của tôi trước lòng dũng cảm của họ. Trong tình hình bi thảm hiện tại, tôi coi họ là những đại diện xứng đáng cho nhân dân Việt Nam.
8-1-2011
HCQ
Nguyễn Huệ Chi dịch
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
(1) «Hoàng Sa: sếp đi vắng !» Bauxite Việt Nam 05/10/2010.
****
Nguyên văn tiếng Pháp (những câu tiếng Việt trong bài là do tác giả để nguyên, không chuyển ngữ):
Chaque fois qu’un pêcheur abandonne la mer, le Vietnam perd un peu de son territoire
André Menras Ho Cuong Quyet
Décidément, ces derniers temps les nouvelles du Vietnam ne sont pas très bonnes pour les Vietnamiens et leurs amis dans le Monde. Je viens d’apprendre par le journal SGTT du 06 01 2011 que M. Mai Phụng Lưu, patron d’un équipage de pêcheurs de Ly Son a dû arrêter son activité faute d’argent pour payer les dettes, conséquences directes de la piraterie chinoise dans la région d’Hoang Sa. Ce n’est pas, comme on pourrait le croire, un fait divers parmi tant d’autres mais un nouveau et terrible clignotant rouge qui s’allume en position danger pour l’intégrité territoriale du Vietnam.
Cet homme de courage et d’expérience, dans la force de l’âge, quatre fois capturé, frappé, détenu, rançonné par la marine de guerre des « bons voisins » a dû finalement se soumettre. Le mot «bất khuất» après avoir été pendant des siècles le symbole de ce pays aux yeux du Monde, disparaîtrait-il lentement de la langue vietnamienne ? Pourtant, les quarante quatre jours de la dernière détention avec en conclusion 4 jours et nuits d’errance sans instruments de navigation dans la tempête, sans véritable soutien de la marine vietnamienne: tout cela n’avait pas entamé la détermination de M. Lưu. A son retour de captivité, après avoir maintes fois regardé la mort en face, il avait même déclaré qu’il reprendrait la mer vers Hoang Sa parce que cette zone de pêche est celle de ses ancêtres. Car l’homme n’est pas du genre à baisser les bras. Il n’a pas, comme un certain nombre de ses amis pêcheurs de Ly Sơn, renoncé à pêcher dans ces eaux ancestrales que Pékin veut confisquer. Il ne s’est pas, comme eux, tourné vers la zone de Truong Sa, plus lointaine mais provisoirement moins dangereuse. Cet homme est un marin du peuple. Pour lui, les mots ont un sens et valeur d’engagement: il fait ce qu’il dit et dit ce qu’il fait. Alors, pourquoi a-t-il renoncé si ce n’est pas par peur du danger ? Est-ce seulement à cause des dettes injustement accumulées sur son dos et les difficultés matérielles qu’elles entraînent pour sa famille ? Je ne le crois pas.
La vraie raison du renoncement, M. Mai Phụng Lưu ne la dira pas, SGTT ne pourra pas l’écrire, ni quelqu’autre journal vietnamien sous peine de retrait immédiat. Mais elle est simple, facile à comprendre et doit être dite: M. Lưu a définitivement perdu confiance dans les beaux discours, les fermes déclarations et les gesticulations des dirigeants politiques. Il se sent par eux abandonné, forcé à accepter l’humiliante défaite de toute une vie de fidélité à la mer. Il sent même que son acharnement à résister devient peut-être gênant pour le club vietnamien des « 4 bons et 16 en or »…J’ajoute en pesant mes mots qu’il aurait toutes les bonnes raisons de se sentir trahi par ceux qui ont le devoir de le protéger.
Ceci est évident à l’examen de quelques déclarations et actions officielles qu’il faut rappeler ici :
“Trong bốn ngành kinh tế biển chỉ có ngư dân là lực lượng mà đặc thù phải bám biển, hoạt động trên diện rộng trong toàn bộ các vùng biển có chủ quyền lãnh thổ. Vì bản chất của ngư dân là phải bám biển nên đây là lực lượng không thay thế được, ngay cả trong tổ chức chiến tranh nhân dân trên biển. Ngoài chuyện mưu sinh của ngư dân, sự có mặt của ngư dân trên biển còn góp phần khẳng định chủ quyền và họ chính là lực lượng đang tham gia việc bảo vệ chủ quyền”. “Quỹ này sẽ hỗ trợ ngư dân gặp rủi ro khi đánh bắt xa bờ như: gặp bão tố, bị “ tàu lạ” đâm chìm, bị người nước ngoài bắt và tịch thu tàu bè, ngư cụ…” (Ông Nguyễn Chu Hồi, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo tuyên bố)
“Cần có quĩ ủng hộ ngư dân đánh bắt cá ở Hoàng Sa”…“sự hỗ trợ của các tổ chức nước ngoài”. (Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Ngãi).
Certes, ces déclarations ne viennent pas des très hauts responsables du Parti et de l’Etat qui, sur ce point, mis à part le Président Nguyễn Minh Triết à Bạch Long Vĩ, sont restés très économes de leurs propos publics. Il se peut même que les paroles citées plus haut aient été sincères au moment où elles ont été prononcées. Mais il faut bien constater à l’expérience qu’elles relèvent de la méthode «đánh trống bỏ dùi».
J’épargnerai au lecteur le rappel des déclarations répétées du ministère des affaires étrangères Vietnamien réaffirmant comme une rengaine après chaque agression chinoise la souveraineté sur Hoang Sa et Truong Sa à son «bon camarade» qui fait la sourde oreille et continue de distribuer tranquillement les mauvais coups contre tous les M. Lưu vietnamiens qui osent encore relever la tête pour gagner dignement leur vie sur la mer et les îles de leurs ancêtres.
Rappelez-vous aussi le tragique épisode où nous étions sans nouvelles de M. Luu et 9 de ses compagnons généreusement libérés en plein typhon par le frère des « 16 en or ». A cette occasion, les autorités vietnamiennes ont fait mieux encore dans le spectacle: après plus de 3 jours de cache-cache déplorables où les responsables au niveau central renvoyaient la balle à ceux du niveau régional qui à leur tour interpellaient le niveau local qui lui-même déplorait son impuissance faute de moyens, les décideurs occultes de la nation n’ont rien trouvé de mieux que d’inviter les pirates-geôliers chinois à une recherche commune des disparus. Et finalement, au cours de cette mascarade où le Vietnam osait- suprême audace !- s’aventurer sur son propre espace maritime avec l’autorisation chinoise, c’était aux chinois que revenait le mérite d’avoir retrouvé les disparus et de les avoir sauvés. Merci, grand merci, camarades ! Cela valait bien un beau bouquet de fleurs comme celui offert au capitaine chinois du tàu hộ vệ tên lưả XIANGFAN hồi sáng 3 /12 khi nó cập cảng Tiên Sa thăm «hữu nghị» TP Đà Nẵng. Honneur à la marine de guerre chinoise, malheur aux pêcheurs vietnamiens. « Grand frère, bienvenue dans ma maison dont tu as enfoncé la porte ! Permets-moi de te présenter mon épouse… ». En croisant dans les eaux vietnamiennes de Hoang Sa, j’espère que les deux « bons partenaires » n’ont pas oublié de jeter un autre bouquet de fleurs à la mer en la mémoire de tous pêcheurs et tous les marins du Centre Vietnam qui ont péri coulés par les bateaux amis dans les nuits sombres et les jours sanglants. Comment des hommes de caractère et de courage comme M. Lưu peuvent-ils vivre cette triste comédie?
J’ai déjà fait personnellement la douloureuse expérience de l’abandon des pêcheurs (1). J’ai mesuré la force d’inertie d’une administration et d’un pouvoir politique vietnamiens qui, contrairement à ses déclarations, contrôlent et empêchent toute aide réelle, laissent les pêcheurs seuls face à l’ogre chinois, sans espoir de lendemain. Je garde encore dans ma mémoire les quelques mots que m’avaient glissé, le cœur gros, un vieil homme de An Vinh avant mon départ de Ly Sơn: «Mấy năm nay bọn Tàu đã hoàn toàn làm chủ cả đảo lẫn biển. Rồi đây đến lượt Trường Sa và không chừng cả… Lý Sơn».
Comment peut-on brader ainsi l’amitié du peuple vietnamien à ceux qui le maltraitent, le dépouillent et le déshonorent aux yeux du Monde? Comment peut-on se plier à une paix chinoise en laissant périr un à un les derniers combattants pacifiques de la mer et des îles vietnamiennes. Pour quel marchandage secret ? Il faut cesser ce double langage qui ne profite qu’aux agresseurs et choisir celui de la vérité et de la clarté. Il doit choisir entre les navires de guerre chinois intrus et tueurs dans les eaux vietnamiennes et la sécurité des pêcheurs du Centre en quête de leur seul moyen d’existence légitime.
Quand M. Luu doit abandonner la pêche à Hoang Sa après plus de trente ans d’activité dans ces eaux alors que l’Etat vietnamien qui ne compte pas les milliards pour fêter les 1000 ans de Thang Long ne trouve pas 600 millions de dongs pour payer les dettes de ce brave pêcheur patriote et le laisse froidement sombrer dans l’humiliante misère, il faut se poser les questions: M. Luu aurait-il abandonné si on avait payé ses dettes? M. Luu aurait-il abandonné si on avait permis à ses compatriotes dans tout le pays et à l’étranger de payer ses dettes, de lui envoyer des messages de sympathie ? Finalement, à qui revient la responsabilité des conséquences de cet abandon ? Qui doit en porter la honte ?
Quand la maison prend l’eau, placer des bassines sous chaque gouttière n’empêche pas la situation d’empirer. Il faut changer le toit.
A la veille du XIème Congrès du PCV, après les affaires Bauxite, PCI, Vedan, Innogreen, Vinashin v v…, l’évènement Mai Phụng Lưu pose encore une fois deux questions centrales :
1) Les dirigeants vietnamiens ont-ils la volonté et le courage de porter au-dessus d’eux et honorablement le destin de la nation, propriété du peuple ?
2) Si certains d’entre eux avaient cette volonté et ce courage, le système politico-économique actuel leur permettrait-il de le faire ?
Je doute que les congressistes osent poser ces questions et puissent y répondre librement. Pour moi, modeste observateur, une seule réponse s’impose: Il est grand temps de changer. Changer vraiment pour le bien du Vietnam.
En conclusion de cet article amer, que le lecteur me permette d’adresser à M. Mai Phụng Lưu, à sa famille et à ses amis pêcheurs de Ly Son et d’ailleurs, à tous ceux qui osent encore sortir dans les eaux vietnamiennes de Hoang Sa, toute mon admiration pour leur courage. Dans cette tragique situation, je les considère comme de dignes représentants du peuple vietnamien.
(1) «Hoàng Sa: sếp đi vắng!» Bauxite VN 05/10/2010.