Vị đắng khi lệ thuộc vốn vay Trung Quốc

(VEF) – Nhiều dự án của Việt Nam phải thuê nhà thầu Trung Quốc bởi một lý do “bất khả kháng”: nguồn vốn vay từ chính Trung Quốc. Và khi dự án có vấn đề về chất lượng thì các chủ đầu tư Việt Nam chỉ còn nước “ngậm bồ hòn làm ngọt”

Cái khó xử khi nhận vốn của Trung Quốc

Trung Quốc nhập vào các dự án điện chủ yếu thiết bị phụ (ảnh: L.M)

Trung Quốc nhập vào các dự án điện chủ yếu thiết bị phụ (ảnh: L.M)

Trung Quốc không phải là nước thuộc nhóm cung cấp vốn hỗ trợ phát triển ODA lớn cho Việt Nam, cũng không phải là nước bỏ vốn đầu tư trực tiếp (FDI) thuộc TOP 10 ở Việt Nam.

Nếu tính theo số các dự án FDI còn hiệu lực, hơn 20 năm qua, FDI từ Trung Quốc chỉ có 3,184 tỷ USD,  đứng thứ 14 và chiếm 4% tổng vốn FDI của 92 quốc gia, vùng lãnh thổ đã đến Việt Nam. Riêng năm 2010, Trung Quốc  đứng thứ 11 với tổng vốn 364,6 triệu USD, chỉ chiếm hơn 1% tổng vốn FDI cả năm của Việt Nam.

Thế nhưng, thực chất, dòng vốn Trung Quốc chảy vào Việt Nam lại không hề nhỏ.

Cho tới nay, chưa có bộ ngành nào thống kê cụ thể, Việt Nam đã vay bao nhiêu tiền của Trung Quốc. Chỉ thấy rằng, ở hầu khắp các ngành công nghiệp, năng lượng của Việt Nam, vốn vay ưu đãi lãi suất thấp từ Trung Quốc đang đóng vai trò rất quan trọng, chủ yếu là từ đầu mối Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc (China Eximbank).

Đơn cử như  ở ngành điện, trong tổng số 9 dự án nhiệt điện do Tập đoàn Than – Khoáng sản làm chủ đầu tư, hiện có 4 dự án vay vốn tín dụng xuất khẩu hoặc ODA của Trung Quốc.

Đó là các dự án nhiệt điện Cao Ngạn, Sơn Động, Cẩm Phả, Mạo Khê đều chủ yếu vay tín dụng xuất khẩu của ngân hàng China Eximbank. Dự án có tổng vốn đầu tư ít nhất cũng hơn 3.500 tỷ đồng. Các dự án điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cũng vay từ ngân hàng này không hề ít, ví dụ như dự án nhiệt điện Quảng Ninh 1 và 2, dự án Hải Phòng 1 và 2, dự án nhiệt điện Uông Bí mở rộng…

Mới đây nhất, 18/12/2010,  Bộ Tài chính cũng đã ký hiệp định vay 300 triệu USD với China Eximbank cho dự án nhiệt điện Vĩnh Tân 2 (2 x600MW).

Trung bình mỗi dự án điện công suất 300MW trở lên của Việt Nam có tổng vốn đầu tư trên 500 triệu USD. Nếu dự án vay từ China Eximbank thì nguồn vốn này thường chiếm khoảng 85% tổng vốn đầu tư.

Như vậy, ước tính, tổng vốn vay của Trung Quốc chỉ riêng cho ngành điện Việt Nam đã là con số hàng tỷ USD.

Không chỉ là ngành điện, nguồn tín dụng ưu đãi của Eximbank còn có mặt ở nhiều dự án trọng điểm của các ngành công nghiệp khác. Ví dụ như ngành hóa chất với dự án đạm từ than cám Ninh Bình do Tổng công ty Hóa chất Việt Nam làm chủ đầu tư, cũng sử dụng nguồn vốn 500 triệu USD theo hiệp định tín dụng xuất khẩu ký với Trung Quốc. Dự án sản xuất khuôn mẫu và trục in nhựa của Tổng công ty Nhựa Việt Nam cũng vay tín dụng ưu đãi của Chính phủ Trung Quốc trị giá 50 triệu Nhân dân tệ.

Trao đổi với PV. VEF, một lãnh đạo ở Bộ Công Thương từng chia sẻ, khi các nhà thầu Trung Quốc vào Việt Nam, nhận thấy điểm yếu là thiếu vốn, họ nhanh chóng đặt vấn đề: nếu phía Trung Quốc lo thu xếp vốn được cho dự án thì bù lại, hãy giao dự án đó để họ làm.

Với một lời đề nghị hấp dẫn như vậy thì quả thực, các chủ đầu tư Việt Nam khó lòng từ chối. Theo thông lệ quốc tế, khi đã nhận vốn vay của một nước, chủ đầu tư sẽ phải tổ chức đấu thầu hạn chế, chỉ mở thầu cho các nhà thầu nước cho vay tham gia. Đó là lý do bất khả kháng để các dự án lớn trên của Việt Nam phải chọn nhà thầu Trung Quốc và nhập khẩu lớn thiết bị, máy móc của nước này.

Trở đi mắc núi, trở lại mắc sông

Nhưng lẽ thường, sự hấp dẫn của một chính sách về vốn như vậy bao giờ cũng có tính hai mặt. Chính sách vay vốn của Trung Quốc có thể rất  thông thoáng, nhưng đôi khi, cũng có vị đắng mà các chủ đầu tư Việt Nam chỉ còn nước “ngậm bồ hòn làm ngọt”.

Trung Quốc nhập vào các dự án điện chủ yếu thiết bị phụ (ảnh: L.M)

Trung Quốc nhập vào các dự án điện chủ yếu thiết bị phụ (ảnh: L.M)

Một chuyên gia trong ngành cắt nghĩa với VEF rằng, ngân hàng của Trung Quốc – với tư cách là người thẩm định hồ sơ vay vốn, có quyền kiểm duyệt các điều kiện kỹ thuật trong dự án. Điều kiện đó liệu thích hợp với các nhà thầu của nước họ không? Từ đó, họ có quyền đòi hỏi phải hạ thấp một số tiêu chí để các nhà thầu Trung Quốc có cơ hội tham gia thì mới cho vay vốn.

Với kinh nghiệm 30 năm trong ngành điện, vị chuyên gia này phân tích, giả dụ hiệu suất lò hơi nhiệt điện trong hồ sơ mời thầu một dự án nhiệt điện than, nếu chỉ nâng lên 1% để đảm bảo chất lượng, thì ngay lập tức, hàng loạt các nhà thầu Trung Quốc sẽ bị rớt vì không đạt yêu cầu. Nhưng, chỉ cần hạ 1% hiệu suất lò hơi theo đề nghị của Ngân hàng Trung Quốc, giá thành máy móc, thiết bị đã giảm tới 20-30% . Vì yếu tố kinh tế đó, thông thường, cả bên đi vay và bên cho vay đều chấp nhận.

Một đặc điểm khác, theo vị chuyên gia này quan sát, trong hồ sơ mời thầu các dự án nhiệt điện, nếu chú trọng chất lượng, bao giờ cũng có câu,“yêu cầu thiết bị G7 hoặc chất lượng tương đương”. Nhưng với nhiều dự án nhiệt điện mà vay vốn Trung Quốc thì thường, những dòng chữ ghi điều kiện như vậy sẽ bị gạch bỏ. Đến khi dự án đi vào triển khai, chủ đầu tư Việt Nam sẽ vô cùng khó xử khi rơi vào tình huống phải chấp nhận các thiết bị kém chất lượng một cách miễn cưỡng.

Vị chuyên gia giám sát kỹ thuật tại một dự án nhiệt điện chia sẻ, căn cứ để giám sát chất lượng thiết bị nhập cho dự án chỉ có duy nhất 1 tờ giấy do nhà thầu cung cấp với tiêu đề  “QUALITY CERTIFICATE”, gọi là phiếu chất lượng. Nhưng, hình thức trình bày và  nội dung thông tin lại rất sơ sài.

Ở tờ phiếu chất lượng này, chỉ có tên thiết bị, nhà máy sản xuất, mã số đóng gói, mã số đặt hàng và dòng chữ đề thiết bị đã đạt chuẩn của nhà máy…, không có thông tin căn cứ theo một tiêu chuẩn quốc tế, quốc gia nào. Phần ký xác nhận phiếu, lúc là giám đốc nhà máy ở Trung Quốc, lúc là một cán bộ thay mặt giám đốc ký.

Vị kỹ sư tại dự án này nhận định, các phiếu này giống như phiếu xuất xưởng. Nó đơn giản tới mức chẳng cần in phiếu ở Trung Quốc mà có thể in ra ngay tại công trường Việt Nam như một loại văn bản thông thường.

Trong khi đó, hợp đồng ký với nhà thầu Trung Quốc thường chỉ ghi, thiết bị đến công trường phải có “phiếu chất lượng”, nhưng không mô tả rõ, phiếu chất lượng ấy như thế nào. Rốt cục, khi các tài liệu chứng nhận chất lượng chỉ vỏn vẹn có thế, chính những người gác cửa về chất lượng dự án trở nên tù mù, bó tay để thẩm định thiết bị, và chỉ khi nhà máy vận hành, phát sinh trục trặc mới biết thiết bị … kém cỡ nào.

Ban đầu, các giám sát viên có thể từ chối không nghiệm thu thiết bị kém chất lượng, nhưng rồi xảy ra tranh luận với nhà thầu và những áp lực từ nhiều phía… cộng với việc nhà máy lại vay vốn của chính Trung Quốc, các giám sát kỹ thuật của Việt Nam sẽ buộc “phải” nghiệm thu công trình dù chưa đạt yêu cầu. Bởi theo vị chuyên gia này, nếu không nghiệm thu thiết bị, vấn đề giải ngân vốn của dự án cũng gặp khó khăn.

Thực tế này cũng đã xảy ra với nhiệt điện Cao Ngạn cách đây 3 năm. Mặc dù nghiệm thu bàn giao cho chủ đầu tư rồi, nhưng nhà máy này đã phải hoạt động trong tình trạng vừa chạy, vừa sửa chữa, cải tiến tiếp.

Từng trả lời trên VEF, Vụ trưởng Vụ Công nghiệp nặng, Bộ Công Thương cho rằng, phải tăng cường khâu giám sát thiết bị của Trung Quốc đến công trường, nhưng những câu chuyện trên đã cho thấy, khi chủ đầu tư lại là người đi vay của phía nước nhà thầu thì mọi sự thật khó. Việc nhận bàn giao nhà máy điện hay không đã biến thành câu chuyện trở đi mắc núi, trở lại mắc sông.

P. H.

Nguồn: http://vef.vn/2011-01-07-vi-dang-khi-le-thuoc-von-vay-trung-quoc

This entry was posted in Đảng CSVN, kinh tế, Trung Quốc. Bookmark the permalink.