Vào dịp cuối năm 2010 sắp kết thúc này, hồ sơ Biển Đông đã bớt nóng bỏng sau khi nhiệt độ có thể nói là đã đạt đỉnh điểm vào khoảng tháng 7, tháng 8 vừa qua. Nguyên nhân tạo ra căng thẳng là các hành động của Trung Quốc đã phô trương manh mẽ hơn tham vọng chủ quyền tại Biển Đông : liên tiếp tập trận thị uy và nâng vùng biển Đông lên hàng “lợi ích cốt lõi”, tiếp tục dùng võ lực áp đặt chủ quyền, với Việt Nam là đối tượng thúc ép chủ chốt vì bị coi là cản lực đáng kể nhất . Hành động của Trung Quốc đã khiến Việt Nam thúc đẩy mạnh mẽ hơn tiến trình quốc tế hóa vấn đề Biển Đông trong lúc Hoa Kỳ càng lúc càng xác định quyết tâm nhập cuộc.
Trong bài tham luận đọc tại hội nghị khoa học về Biển Đông lần thứ hai tổ chức ở Thành phố Hồ Chí Minh tháng 11 vừa qua, giáo sư Carl Thayer, chuyên gia về Việt Nam thuộc Học viện Quốc phòng Úc đã phân tích kỹ các diễn biến đã khiến cho tình hình Biển Đông bị khuấy động. Một trong những yếu tố được giáo sư Thayer nêu bật chính là những cuộc thao diễn quân sự của Hải quân Trung Quốc đã dẫn đến phản ứng của Hoa Kỳ.
Sau khi chính thức tiết lộ đòi hỏi chủ quyền của mình thông qua tấm bản đồ gồm 9 đường gián đoạn, được gọi nôm na là đường lưỡi bò, bao trùm gần như toàn bộ vùng Biển Đông vào giữa năm 2009, ngay từ đầu năm 2010, Hải quân Trung Quốc đã bất đầu phô trương cơ bắp với một loạt những cuộc tập trận rầm rộ, trên các vùng biển chung quanh, đặc biệt là Biển Đông, qua đó cho thấy khả năng vươn tới những nơi rất xa xôi ở tận phía Nam.
Thoạt đầu là cuộc tập trận vào tháng 4, huy động cả ba hạm đội của Trung Quốc là Bắc Hải, Đông Hải và Nam Hải. Điều khiến giới quan sát chú ý là quy mô rộng lớn của địa bàn diễn tập. Trong cuộc tập trận này, tàu chiến của Trung Quốc đã vượt qua rặng đảo Okinawa, thông qua kênh đào Bashi, thực hiện các bài tập bắn đạn thật ở phía bắc Philippines, trước khi bọc xuống vùng eo biển Malacca.
Chuyên gia phân tích hải quân Gary Li, được giáo sư Carl Thayer trích dẫn đã ghi nhận : « Cuộc tập trận này chứng tỏ rằng Hải quân Trung Quốc bắt đầu đạt được một tính linh hoạt cao hơn trước trong việc triển khai lực lượng đồng thời trên mặt biển, dưới mặt nước và trên không. Họ cũng tự tin hơn trước khi di chuyển lực lượng trên một khoảng cách xa hơn nhằm bảo vệ các đòi hỏi lãnh thổ của họ tại Biển Đông. »
Điều đáng chú ý về cuộc tập trận tháng 4 đó là các đơn vị thuộc hai hạm đội Bắc Hải và Đông Hải đã được điều động xuống khu vực phía Nam, nơi từ trước đến nay là địa bàn hoạt động của riêng hạm đội Nam Hải. Điều đó có nghĩa là Hải quân Trung Quốc đã dự phòng khả năng là khi cần thiết có thể rút hai hạm đội ở phía Bắc và phía Đông xuống tăng cường cho phía Nam. Còn hạm đội Nam Hải của Trung Quốc hiện đang được hiện đại hóa với việc lần đầu tiên một tàu ngầm hạt nhân loại Jin và tàu đổ bộ được triển khai đến căn cứ Hải quân trên đảo Hải Nam. Trung Quốc dự kiến sẽ triển khai thêm tàu ngầm hạt nhân đến nơi này, vốn đã là căn cứ cho các tàu chiến và tàu ngầm tàu ngầm thông thường.
Đến cuối tháng 7, một cuộc tập trận hải quân rầm rộ nhất từ trước đến nay đã lại được tiến hành ở Biển Đông, và một lần nữa kết hợp cả ba hạm đội Bắc, Đông và Nam Hải, với hàng chục tàu chiến thuộc loại hiện đại nhất của Hải quân Trung Quốc.
Gần đây nhất, vào đầu tháng 11, đến lượt Thủy quân lục chiến Trung Quốc tập trận trong vùng biển Đông, với 100 chiến hạm, tàu ngầm và máy bay, cùng với 1.800 binh lính. Như để phô trương thêm thanh thế, vào tháng 8, một chiếc tàu lặn của Trung Quốc đã cắm một lá cờ của nước này xuống đáy Biển Đông để chứng minh chủ quyền.
Về các động thái quân sự của Trung Quốc, giáo sư Thayer nhận định : « Các cuộc tập trận nhằm chứng tỏ rằng Trung Quốc hiện đã có khả năng triển khai lực lượng vượt qua rặng đảo thứ nhất để đến chuỗi đảo thứ hai. Thông điệp gởi đi rất rõ ràng : Trung Quốc đã có năng lực triển khai một lực lượng hải quân hùng hậu trong một thời gian dài trong vùng quần đảo Trường Sa và sâu xuống phía nam ».
Sức ép đối với Việt Nam : ngư dân và lệnh cấm đánh cá
Song song với việc tập trận thị uy, Trung Quốc đã làm cho tình hình Biển Đông căng thẳng bằng những hành động cũng rắn thô bạo nhằm khẳng định chủ quyền của họ, đặc biệt là nhắm vào ngư dân Việt Nam. Ngay từ năm ngoái 2009, báo chí Việt Nam đã ghi nhận việc Trung Quốc bắt giữ hoặc tịch thu 30 chiếc tàu đánh cá Việt Nam cùng với 433 ngư dân. Các hành động này tiếp diễn, thậm chí gia tăng trong năm nay, nhất là tại vùng quần đảo Hoàng Sa, nơi đã bị Trung Quốc chiếm giữ từ năm 1974 đến nay.
Điểm qua báo chí Việt Nam, riêng trong 3 tháng đầu năm nay, đã có 30 vụ tàu đánh cá Việt Nam bị Trung Quốc bắt giữ cùng với hơn 200 ngư dân. Nghiêm trọng nhất là trường hợp 107 người Việt Nam thuộc tỉnh Quảng Ngãi bị giam giữ trong vòng hai tháng. Một bản tin khác nêu lên con số hôn 30 tàu thuyền đánh cá Việt Nam bị chận bắt trong nửa cuối tháng Sáu. Đến tháng 10, lại có một thông tin của hãng thông tấn Đức DPA xác đinh rằng « trong những tháng gần đây, hàng trăm tầu cá Việt Nam bị Trung Quốc bắt giữ trong vùng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Điểm đáng lưu ý là trong nhiều vụ, phía Trung Quốc đã buộc các ngư dân nộp phạt, qua đó cho là họ đã vi phạm luật lệ trên lãnh thổ Trung Quốc, cho dù những vùng hoạt động của tàu thuyền đánh cá Việt Nam không hề được công nhận là thuộc chủ quyền Trung Quốc. Vấn đề buộc các nước khác chấp nhận các đòi hỏi chủ quyền của họ trên Biển Đông còn được Bắc Kinh thể hiện qua việc đơn phương ban hành lệnh cấm đánh cá trên một khu vực rông lớn ở Biển Đông. Để buộc các nước khác tuân thủ lệnh này, Trung Quốc đã cử càng lúc càng nhiều tầu gọi là Ngư chính đến khu vực.
Phản ứng của Việt Nam trước các hành động kể trên thường là công khai lên tiếng phản đối, xác định trở lại chủ quyền của mình, và yêu cầu Trung Quốc thả các tàu thuyền và ngư dân khi họ bị bắt giữ. Tuy nhiên, giáo sư Thayer cũng ghi nhận một phản ứng mạnh mẽ bất thường :
« Tháng 3, tại quần đảo Trường Sa, tàu đánh cá của Trung Quốc báo động là họ bị tàu đánh cá Việt Nam sách nhiễu và cầu cứu. Trung Quốc cử hai tàu ngư chính từ Hải Nam đến tiếp cứu. Thế nhưng khi đến nơi, hai chiếc tàu này đã tàu đánh cá Việt Nam bao vây. Trung Quốc đã phải ra lệnh cho chiến hạm của Hạm đội Biển Đông tham gia tập trận gần đấy đến giải cứu. Nhưng khi các chiến hạm này đến hiện trường thì toàn bộ đoàn tàu đánh cá Việt Nam đã đi mất. Tàu chiến của Hải quân Trung Quốc sâu đó đã bỏ neo ngoài khơi đảo Chữ Thập (Fiery Cross Reef) trước khi tiếp tục hành trình về phía nam để tiến hành tập trận ở vùng phía Đông eo biển Malacca ».
Trong năm 2010, vùng quần đảo Hoàng Sa đã nổi lên thành điểm nóng ở biển Đông sau khi Trung Quốc có những động thái nhằm khai thác vùng bị họ lấn chiếm này trên bình diện kinh tế và du lịch.
Vào đầu năm, Việt Nam đã phải tái khẳng định chủ quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa sau khi Trung Quốc loan báo kế hoạch phát triển du lịch tại quần đảo Hoàng Sa. Đến tháng 5, Việt Nam lại lên tiếng một lần nữa khi Trung Quốc cho hải quân hộ tống tàu thăm dò địa chấn MV Western Spirit đến khảo sát vùng ngoài khơi đảo Tri Tôn cũng như tại ba lô thăm dò dầu khí của Việt Nam mang ký hiệu 141, 142 và 143. Việc Trung Quốc thực hiện các công trình trên đảo Tri Tôn cũng đã bị Việt Nam chính thức phản đối và yêu cầu đình chỉ ngay hoạt động.
Phản ứng cứng rắn từ phía Mỹ
Sau cùng, trong năm 2010, tình hình Biển Đông cũng sôi động hẳn lên với sự kiện Bắc Kinh nâng vùng biển Đông lên hàng “lợi ích quốc gia cốt lõi” khiến cho rất nhiều nước quan ngại trong đó có Hoa Kỳ. Washington đã tranh thủ cơ hội thúc đẩy mạnh mẽ hơn tiến trình dấn thân sâu hơn vào vùng Đông Nam Á thông qua vấn đề Biển Đông.
Trước tiên hết, trong lãnh vực quân sự, Hoa Kỳ từ nhiều năm nay đã tỏ ý quan ngại trước đà vươn lên của quân đội Trung Quốc, nhất là trong lãnh vực hải quân, đe dọa ưu thế mà Mỹ đang nắm giữ. Một cách kín đáo, Hoa Kỳ đã cho triển khai gần 2 phần ba trong số 53 chiếc tiềm thủy đỉnh thuộc loại tấn công nhanh qua vùng Thái Bình Dương, đặt căn cứ tại Trân Châu Cảng, trên đảo Hawaii và tại đảo Guam.
Sau đợt tập trận biểu dương lực lượng của Hải quân Trung Quốc vào tháng 4, đến khoảng cuối tháng 6, đầu tháng 7, quân đội Mỹ đã cho ba chiếc tầu ngầm thuộc loại hiện đại của mình xuất hiện đồng thời tại ba địa điểm trong đó có chiếc USS Ohio, xuất hiện tại Subic Bay ở Philippines. Chiếc Ohio thuộc loại tiềm thủy đỉnh đã được cải tiến để mang theo một hỏa lực hùng hậu bao gồm 154 chiếc hỏa tiễn tuần tiểu Tomahawk.
Đối với giáo sư Thayer hành động này không phải là ngẫu nhiên mà là một quyết định « phô trương sức mạnh hải quân có tính toán ».
Hai mũi tiến công quốc phòng và ngoại giao của Mỹ
Nhưng phản ứng được chú ý nhiều nhất của Mỹ là trên bình diện chính trị ngoại giao, với hai mũi tấn công đến từ bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates và Ngoại Trưởng Mỹ Hillary Clinton.
Tại Hội Nghị An Ninh Châu Á Thái Bình Dương mang tên Đối thoại Shangi La ở Singapore vào tháng 6, dù không nêu đích danh Trung Quốc, Bộ Trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates đã tỏ ý lo ngại về nguy cơ Biển Đông trở thành một khu vực mà “những tranh chấp lãnh thổ có thể đe dọa đến quyền tự do lưu thông trên biển và việc phát triển kinh tế khu vực”. Ông Gates đã dẫn chứng bằng các hành động bất bí của Trung Quốc nhắm vào các tập đoàn dầu khí Mỹ làm ăn với Việt Nam : “Hoa Kỳ chống lại mọi hành động nhằm hù dọa các công ty Mỹ hay bất cứ quốc gia nào đang có hoạt động kinh tế chính đáng tại khu vực này”.
Theo ông Robert Gates, mục tiêu của Mỹ rất rõ ràng. Đó là duy trì một vùng biển ổn định, tự do lưu thông, phát triển kinh tế tự do và không bị cản trở. Bộ Trưởng quốc phòng Mỹ đã nhắc lại lập trường cố hữu của Hoa Kỳ là không chọn phe nào trong cuộc tranh chấp lãnh thổ và kêu gọi các bên giải quyết bất đồng bằng các phương pháp hòa bình và theo luật pháp quốc tế.
Gần hai tháng sau, tại Diễn đàn An ninh khu vực Asean ARF, đến lượt ngoại trưởng Hillary Clinton lên tiếng ngày 23/7, xác định “lợi ích quốc gia” của Mỹ bao gồm : “Quyền tự do hàng hải, quyền tiến vào các vùng biển chung của châu Á, và sự tôn trọng luật lệ quốc tế tại khu vực Biển Đông”. Về các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, cũng như ông Gates trước đó, bà Clinton nhắc lại lập trường cố hữu là không bênh phía nào. Thế nhưng theo bà, Hoa Kỳ chống lại việc đe dọa dùng võ lực và hy vọng là các bên tìm ra được một giải pháp ngoại giao cho vấn đề.
Điều đáng nói là phát biểu của Ngoại trưởng Mỹ đã được hơn một chục nước trong đó có Việt Nam tán đồng khiến cho ngoại trưởng Trung Quốc mất bình tĩnh và phản ứng tức tối.
Thế nhưng quan điểm của Mỹ, bảo vệ quyền tự do thông thương tại Biển Đông như kể trên đã được cả ông Gates lẫn bà Clinton nhắc lại trong hai Hội nghị vào tháng 10 tại Hà Nội, trước đại diện của 18 nước châu Á Thái Bình Dương trong Hội Nghị Các Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng, rồi Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á.
Về phần Trung Quốc, sau những phát biểu gay gắt vào tháng 7 và 8, nước này sau đó đã có phần dịu giọng hơn, một thái độ hòa hoãn được thấy rõ tại hai hội nghị tháng 10 tại Hà Nội.
Theo giới quan sát, Việt Nam đã thành công trong vai trò chủ tịch Asean khi nêu được vấn đề Biển Đông tại các hội nghị quốc tế mà mình chủ trì từ tháng 7 đến tháng 11, và lại được nhiều nước ủng hộ. Đây cũng là một yếu tó nổi bật liên quan đến Biển Đông trong năm 2010.
T. N.