Nguyễn Trần Bạt
Chủ tịch / Tổng giám đốc, InvestConsult Group
Trong đời sống hàng ngày của con người, tâm lý – trạng thái cảm hứng của con người khi hành động – đóng một vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, tâm lý là một đối tượng rất dễ bị ảnh hưởng hay nói cách khác, rất nhiều yếu tố có thể tác động tới tâm lý; trong trường hợp những thay đổi tâm lý diễn ra theo chiều hướng tiêu cực, người ta sẽ mô tả chúng như là sự biến dạng tâm lý.
Khi nghiên cứu sự biến dạng của tâm lý, chúng ta sẽ thấy rằng tham nhũng không phải là hiện tượng tiêu cực duy nhất gây ra biến dạng tâm lý nhưng nó là một trong những yếu tố gây ra những biến dạng khủng khiếp nhất, trên quy mô rộng lớn nhất, ở mức độ sâu sắc nhất và thậm chí, có thể nói, tham nhũng gây ra sự biến dạng nhân cách. Vì lý do đó, tham nhũng, với tư cách là nguồn gốc của sự biến dạng tâm lý, sẽ trở thành đối tượng nghiên cứu của bài viết này. Hy vọng rằng, những phân tích về vấn đề này sẽ có tác dụng như một lời cảnh tỉnh đối với những kẻ vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân của sự biến dạng này.
Tham nhũng và sự biến dạng từ tâm lý đồng chí đến tâm lý đồng loã
Tâm lý đồng chí là một trong những tâm lý rất căn bản vì bản chất hay mục tiêu của sinh hoạt chính trị là tìm kiếm sự đồng thuận. Bất kỳ sự đồng thuận nào cũng phải dựa trên tâm lý đồng chí tức là sự cùng chí hướng; nói cách khác, nếu không có tâm lý đồng chí làm nền tảng thì sẽ không có sự đồng thuận. Do đó, nghiên cứu tâm lý đồng chí chính là nghiên cứu điều kiện hình thành các tổ chức nói chung và các tổ chức chính trị hay các đảng chính trị nói riêng.
Tuy nhiên, không phải ở đâu tâm lý đồng chí cũng được cảm nhận và có giá trị giống nhau. Chẳng hạn, ở những môi trường không có sự cạnh tranh về chính trị, người ta sẽ không có điều kiện để đo đạc giá trị cũng như ý nghĩa của tâm lý đồng chí; ngược lại, xã hội càng dân chủ tức môi trường cạnh tranh chính trị càng gay gắt thì tâm lý đồng chí càng quan trọng bởi nó được thử thách trong sự cạnh tranh về mức độ sáng suốt chính trị giữa các đảng chính trị. Do đó, ở những quốc gia mà sự cạnh tranh chính trị diễn ra bình đẳng thì tâm lý chính trị sẽ trở thành tiêu chuẩn quan trọng nhất của việc hình thành các đảng chính trị – nó chính là dấu hiệu con người trong việc phân biệt các đảng chính trị khác nhau.
Vậy, quá trình biến dạng từ tâm lý đồng chí thành tâm lý đồng loã diễn ra như thế nào? Khi con người phấn đấu vì một lý tưởng hay một mục tiêu chính đáng thì tâm lý đồng chí là tâm lý chi phối các tập thể chính trị nghĩa là tâm lý đồng chí trở thành tâm lý cơ bản của những con người sinh hoạt trong cùng một không gian chính trị. Tuy nhiên, khi lý tưởng hay mục tiêu cao đẹp không còn nữa thì tâm lý đồng chí sẽ bị biến dạng thành tâm lý đồng loã; nói cách khác, chính tâm lý đồng chí khi thất bại sẽ trở thành tâm lý đồng loã. Như vậy, quá trình thay đổi, biến dạng từ tâm lý đồng chí thành tâm lý đồng loã gắn liền với quá trình biến dạng hay sự lạc hậu của lý tưởng chính trị và lý tưởng xã hội.
Vậy tham nhũng xuất hiện ở đâu trong lộ trình từ tâm lý từ đồng chí tới tâm lý đồng loã? Khi nghiên cứu về sự hình thành và phát triển của các tổ chức, chúng ta sẽ thấy một hiện tượng tương đối phổ biến là một đảng chính trị sẽ trở thành đảng cầm quyền sau khi đạt được những thành tựu chính trị nhất định và quá trình tha hoá thường diễn ra đồng thời với những va chạm về lợi ích, địa vị và quyền lực. Tuy nhiên, cũng chính những nghiên cứu này lại chỉ ra rằng, quá trình tha hoá là quá trình khách quan tất yếu của bất kỳ tổ chức nào và chính vì thế, nội dung khoa học quan trọng nhất của các tổ chức chính trị chính là chống lại sự tha hoá quyền lực. Đương nhiên, khi nhận ra những biểu hiện của sự tha hoá, người ta sẽ đề ra và áp dụng những biện pháp để chống lại hay ít nhất cũng nhằm giảm tốc độ của quá trình tha hoá; nhưng, mọi biện pháp đều bất lực trước hiện tượng tha hoá của các tổ chức cầm quyền nếu không có môi trường cạnh tranh. Môi trường cạnh tranh lý tưởng nhất cũng tức là môi trường duy nhất đảm bảo tính hợp lý của các tổ chức chính trị là môi trường dân chủ – ở đó, mọi tổ chức chính trị đều phải đương đầu với rủi ro là bị gạt ra khỏi các sinh hoạt chính trị của xã hội nếu không thành công trong việc ngăn chặn quá trình tha hoá của mình. Kết luận như vậy hoàn toàn đồng nghĩa rằng, ngay cả khi áp dụng các biện pháp mang tính tổ chức mà không có sự cạnh tranh chính trị thì cũng chỉ có thể kéo dài sự tồn tại hoặc làm chậm lại quá trình tha hoá của các tổ chức chính trị chứ không thể khắc phục được nó.
Quay trở lại sự biến chất của lý tưởng, có thể nói, khi lý tưởng bị biến chất thì người ta sẽ thiên về phân chia quyền lực và quyền lợi. Sự phân chia quyền lực dẫn đến sự hình thành các phe phái trong một đảng. Bàn về sự phân chia thành các phe phái trong cùng một đảng, chúng ta cần phải phân biệt giữa sự phân chia chính thống và sự phân chia không chính thống; ở đây, cũng có thể hiểu là sự phân chia công khai và sự phân chia trong bóng tối. Sự phân chia thành các phe phái trong cùng một đảng một cách công khai, xét về mặt bản chất, chính là sự đa dạng hoá của các khuynh hướng chính trị; nó sẽ tạo ra sự cạnh tranh về chính trị để chống lại sự độc quyền chân lý và do đó, nó là một yếu tố tích cực. Ngược lại, sự phân chia trong bóng tối là sản phẩm của quá trình tha hoá quyền lực; đến đây, tham nhũng bắt đầu xuất hiện như là tác nhân của sự biến dạng từ tâm lý đồng chí thành tâm lý đồng loã. Như vậy, tâm lý đồng loã không phải là tâm lý của một đảng chính trị mà là tâm lý của một phái trong đảng chính trị đã bị tha hoá.
Trong quá trình phát triển của mình, một đảng chính trị sẽ được điều chỉnh bởi hai loại tâm lý. Thứ nhất là tâm lý đồng chí tức phần còn lại của những lý tưởng chính trị chưa bị thoái hoá. Phải khẳng định rằng, ở bất kỳ tổ chức chính trị nào, phần còn lại này luôn luôn tồn tại; nếu không, đảng chính trị sẽ biến mất hoàn toàn. Nói cách khác, chừng nào một đảng chính trị còn tồn tại thì những hạt nhân hợp lý về mặt lý tưởng chính trị cũng vẫn còn tồn tại. Trong lòng bất kỳ tổ chức chính trị nào, các mặt tiêu cực và các mặt tích cực không ngừng cạnh tranh với nhau dẫn đến sự hình thành các phái chính trị như đã phân tích trong phần trước. Các phái chính trị không chính thống sẽ bị điều chỉnh bởi tâm lý đồng loã tức là tâm lý của những kẻ cùng ăn chia một vùng quyền lực, quyền lợi hoặc thậm chí một vùng chân lý – đó chính là bản chất của tham nhũng. Các phái chính trị chính thống không bị điều chỉnh bởi tâm lý đồng loã nhưng bị điều chỉnh bởi một loại tâm lý đồng chí thứ hai – đó là tâm lý đồng chí trên những khía cạnh hẹp hay tâm lý đồng chí trên những vấn đề cụ thể. Trên đây là những mô tả về những tác động của tham nhũng lên một trong những module tâm lý căn bản nhất của con người hay sự trượt từ tâm lý đồng chí tới tâm lý đồng loã.
Tâm lý bị truy đuổi về mặt tinh thần hay hồi ức về những giá trị người của những kẻ đã bị “thú hoá”
Xã hội thường quan niệm một cách đơn giản về tham nhũng như là ăn cắp. Trong bài viết này, chúng tôi xin nhắc lại rằng tham nhũng hoàn toàn không giống với ăn cắp, thậm chí cũng không thể coi ăn cắp là trạng thái bậc thấp của tham nhũng. Tại sao lại như vậy?
Trước hết, trong khi ăn cắp chỉ là một hành vi phi đạo đức của con người khi bị thúc bách bởi những nhu cầu bậc thấp thì tham nhũng là hành vi sử dụng quyền lực để chiếm đoạt. Nói như vậy để thấy tham nhũng là một hành vi gắn liền với sự tha hoá của quyền lực; nói cách khác, tham nhũng là hành vi riêng có của những kẻ được nhân dân trao cho cương vị đại diện. Thứ hai, trong khi những kẻ ăn cắp vẫn còn cảm giác lén lút khi đi ăn cắp thì những kẻ tham nhũng đã trở nên vô cảm trước những hành vi chiếm đoạt của mình. Do đó, những kẻ ăn cắp vẫn còn thừa nhận sự tồn tại của pháp luật trong khi những kẻ tham nhũng chà đạp lên nó. Thứ ba, những kẻ ăn cắp không có khả năng truyền bá những ảnh hưởng chính trị còn những kẻ tham nhũng vẫn có thể tham gia hoạt động chính trị. Nếu nói một cách thẳng thắn hơn thì điều đó có nghĩa là những kẻ tham nhũng cần và phải đi qua con đường chính trị và sử dụng sức mạnh chính trị.
Tham nhũng, vì thế, là một khoảng đen tối trong hoạt động chính trị, nó không chỉ làm mất mát quyền lợi vật chất của xã hội mà còn làm biến chất một trong những hoạt động cao quý nhất của nhân loại – đó là hoạt động chính trị. Những kẻ ăn cắp không có điều kiện để xây dựng các chính sách nhưng những kẻ tham nhũng thì bẻ gẫy chính sách, chà đạp lên nhà nước thông qua việc làm biến dạng các chính sách. Trong khi những kẻ ăn cắp phải “lao động” một cách vất vả thì những kẻ tham nhũng lại “lao động” một cách nhàn nhã; nhưng, thứ “lao động” đó của chúng đang làm băng hoại các giá trị đạo đức, gây tổn hại đến uy tín của hệ thống chính trị và nhà nước. Tội ác của những kẻ tham nhũng không đơn giản chỉ là những khối lượng vật chất bị chúng chiếm đoạt, mà chính là sự bẻ gẫy các thể chế, từ thể chế tinh thần đến thể chế chính trị, thể chế nhà nước và thậm chí làm biến dạng cả văn hoá.
Vì những tội ác như vậy, những kẻ tham nhũng luôn phải đối diện với cảm giác bị truy đuổi, ít nhất về mặt tinh thần. Những ai đã từng đọc “Những người khốn khổ” của Victor Hugo mới có thể hiểu nổi cảm giác bị truy đuổi đó đáng sợ đến mức nào. Jean ValJean chỉ ăn cắp duy nhất một chiếc bánh mỳ nhưng luôn cảm thấy mình bị truy đuổi, ngay cả khi ông ta đã trở thành thị trưởng Madolen, đã trốn vào tu viện và cố gắng sống như một con người lương thiện. Cảm giác truy đuổi ở những kẻ tham nhũng, có lẽ, còn đáng sợ gấp nhiều lần.
Tuy nhiên, cảm giác truy đuổi đó, thực ra, là một dấu hiệu tích cực; nó cho thấy những kẻ tham nhũng vẫn còn có cảm giác tội lỗi, vẫn còn nuối tiếc những giá trị người hay nói đúng hơn, vẫn còn nhớ về và trân trọng khoảng thời gian đã từng là người. Chúng tôi cho rằng hoàn toàn không quá lời khi nói như vậy bởi dẫu chỉ tham nhũng một lần thôi, con người đã tự nguyện cống nạp mình, cống nạp những giá trị người cao quý trong mình, cống nạp những phẩm hạnh của mình cho quỷ sứ; hay nói theo một cách khác, con người đã tự nguyện và chủ động “thú hoá” những giá trị của mình. Và hàng đêm, khi đối diện với sự truy đuổi tinh thần đó, những kẻ tham nhũng lại bị dày vò bởi ý nghĩ “Liệu ta có thể quay trở lại làm người không? Và nếu như ta không thể quay trở lại làm người thì những đứa con của ta có thể quay trở lại làm người hay không trong khi nhân cách, trí tuệ và hoài bão của chúng đang được nuôi dưỡng bằng những đồng tiền nhơ bẩn?“. Bản thân sự dày vò đó đã là hình phạt khủng khiếp nhất đối với những kẻ tham nhũng và do đó, nhiệm vụ của chúng ta không phải là chống tham nhũng bằng các biện pháp hình sự thông thường mà phải chống tham nhũng bằng cách xây dựng một cơ chế có khả năng khuếch đại sức mạnh của cảm giác bị truy đuổi đó.
Như trong phần trước đã phân tích, những kẻ ăn cắp hoàn toàn khác với những kẻ tham nhũng; trong khi những kẻ ăn cắp còn biết quy phục trước sức mạnh của đạo đức thì những kẻ tham nhũng đã trở nên vô cảm trước những giá trị đạo đức. Thứ duy nhất khiến những kẻ tham nhũng khiếp hãi là những con thú mạnh hơn. Nhưng, liệu con người có thể sống và cảm thấy hạnh phúc hay không khi để tồn tại và tránh khỏi móng vuốt của những con thú nhỏ, họ phải nương tựa vào những con thú mạnh hơn. Con người không thể và không được phép làm như vậy bởi nếu không, họ sẽ biến mình trở thành miếng mồi của những con thú mạnh hơn. Tuy nhiên, con người cũng không thể tiêu diệt những con thú bởi ngay khi con người tiêu diệt những con thú thì con người cũng không còn là con người nữa. Vậy, phải chăng con người đã hoàn toàn bất lực trước hiện tượng tham nhũng và những kẻ tham nhũng?
Xin được trả lời ngay rằng, vẫn còn có một liều thuốc khác để kìm chế hiện tượng tham nhũng – đó là xây dựng nền dân chủ. Chính nền dân chủ chứ không phải chế độ độc tài mới là công cụ hữu hiệu để ngăn chặn sự phát triển của hiện tượng tham nhũng. Sự độc tài tự thân nó đã gắn liền với sự tha hoá quyền lực; đến lượt mình, nó sẽ không chỉ bắt đầu một hiện tượng tham nhũng mà còn khiến tham nhũng phát triển ở những quy mô lớn hơn với những mức độ trầm trọng hơn. Một số người đưa ra biện pháp công khai hoá nhưng chúng tôi hoàn toàn không tán đồng. Công khai hoá là gì? Công khai hoá là phủ lên tất cả những kẻ tham nhũng thứ ánh sáng ban ngày, thứ ánh sáng của sự trong sạch và những giá trị người cao quý và khiến tất cả chúng cùng lúc nhận ra rằng mình không phải là đối tượng duy nhất đã bị thú hoá, rằng quanh mình có không ít những kẻ đã bị thú hoá và nếu tập trung hết thảy những kẻ đã bị thú hoá lại, chúng sẽ có sức mạnh ghê gớm – sức mạnh của sự huỷ diệt. Do đó, nội dung khoa học của chương trình chống tham nhũng là phải chỉ ra thời điểm và mức độ công khai hoá thích hợp; nếu không, chính sự công khai hoá đó sẽ dồn những kẻ bị thú hoá vào đường cùng, chúng sẽ trở nên dữ tợn hơn bao giờ hết bởi sự hành hạ và tra tấn của nỗi sợ và để tồn tại, chúng sẽ quay lại truy đuổi con người. Chính sách ân xá kinh tế cũng không phải là một biện pháp hiệu quả trong việc kiềm chế tham nhũng; nó chỉ là giải pháp để cứu nguồn vốn của xã hội và hợp thức hoá những giá trị đã bị “thú hoá”; nghĩa là, vì lợi ích của con người, chúng ta đã phải hợp thức hoá những giá trị đã “thú hoá” và tạo điều kiện cho những giá trị từng bị “thú hoá” đó quay trở lại đời sống. Chính sách ân xá kinh tế, do đó, chỉ giải quyết được phần nào những thất thiệt về mặt vật chất mà tham nhũng gây ra chứ không thể khắc phục được nó. Vì thế, chúng ta sẽ không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc xây dựng nền dân chủ như một trong những cơ chế kiềm chế tham nhũng và làm trong sạch lại những giá trị đã bị “thú hoá”.
Tuy nhiên, quá trình dân chủ hoá không thể diễn ra nhanh chóng. Lịch sử nhân loại đã chứng minh mọi nhà nước độc tài đều sụp đổ. Vì sự phát triển của xã hội loài người mà các thể chế dần dần được thay bằng thể chế dân chủ; quá trình dân chủ hoá đời sống loài người là một quá trình kiên nhẫn của lịch sử và những nghiên cứu xoay quanh quá trình kiên nhẫn ấy đã đưa đến kết luận: nền dân chủ là cơ chế duy nhất có thể khắc phục tất cả các hiện tượng tiêu cực, trong đó có hiện tượng tham nhũng.
Cảm giác mất niềm tin vào những người đại diện, sự biến dạng của tâm lý sở hữu và một tương lai không thể dự báo
Trong một xã hội lành mạnh, nhân dân luôn luôn tự hào về người đại diện của mình; họ sẵn lòng trang bị cho người đại diện của mình tất cả mọi thứ để những người đại diện có thể làm tốt nhiệm vụ của mình. Nhưng, đáng buồn thay khi mà những người đại diện lại lợi dụng cương vị đại diện của mình để chiếm đoạt không chỉ những giá trị vật chất mà cả những giá trị tinh thần của người dân. Sự chiếm đoạt đó càng trở nên phổ biến bao nhiêu thì nhân dân càng mất niềm tin vào những người đại diện bấy nhiêu. Họ cảm thấy niềm tin của mình bị xúc phạm và với thời gian, niềm tự hào sẽ dần dần mai một và thậm chí, biến mất hoàn toàn. Nhưng, đó mới chỉ là niềm tự hào đối với những người đại diện cụ thể. Điều gì sẽ xảy ra khi người đại diện đó chính là nhà nước? Điều gì sẽ xảy ra khi nhân dân không còn tin vào thể chế chính trị? Điều gì sẽ xảy ra khi nhân dân không còn tin rằng dân tộc mình có khả năng sống lành mạnh và xã hội mình đang sống có thể có một tương lai lành mạnh? Câu trả lời là, nhân dân sẽ đi tìm một tương lai khác.
Nhưng, điều ấy chưa hẳn đã đáng sợ bằng sự biến dạng của tâm lý sở hữu. Sở hữu là một khái niệm nhân văn và là khái niệm riêng có của con người và xã hội loài người. Nó cũng là một trong những khái niệm có chất lượng nhất để nói đến nền văn minh và xã hội càng văn minh thì khái niệm sở hữu càng rõ rệt và minh bạch. Nguợc lại, tham nhũng là dấu hiệu của xã hội không văn minh hay xã hội thú; chính bởi trong xã hội thú không có khái niệm sở hữu nên những kẻ bị thú hoá mới dễ dàng đến vậy trong việc chiếm đoạt những giá trị của người khác. Sự chiếm đoạt ấy rõ ràng đã làm biến dạng tâm lý sở hữu; nhưng, đó mới chỉ là tầng thứ nhất của vấn đề. Phân tích sự biến dạng của tâm lý sở hữu, chúng ta sẽ nhận ra sự biến dạng của tâm lý tích luỹ bởi khi tâm lý sở hữu đã bị biến dạng thì tâm lý tích luỹ, chắc chắn, cũng sẽ bị biến dạng theo. Tích luỹ là gì? Tích luỹ là một cách thức mà con người chuẩn bị cho tương lai. Tuy nhiên, dưới tác động của tham nhũng, tâm lý tích luỹ đó bị méo mó đi. Làm sao có thể tích luỹ để chuẩn bị cho tương lai khi ngày ngày, người ta đang chà đạp lên khái niệm sở hữu và như thế, rõ ràng tương lai không được hoạch định một cách kỹ càng. Con người sẽ làm gì trước những ám ảnh về một tương lai như vậy? Con người sẽ đi tìm một tương lai khác.
Cuối cùng, chúng ta có gì? Chúng ta có một tương lai không thể dự báo. Như đã phân tích trong phần trước, khi nhân dân không còn tin vào hệ thống chính trị hay nhà nước, khi nhân dân không cảm thấy tương lai của mình được đảm bảo bằng một sự tích luỹ lành mạnh thì họ sẽ tin vào một nhà nước trong tương lai. Điều đó có nghĩa rằng họ sẽ đi tìm một cuộc cách mạng. Khi nhân dân đi tìm một cuộc cách mạng thì tương lai của dân tộc sẽ cực kỳ đen tối bởi tương lai đó gắn với những di chứng của cách mạng tức là gắn với những loạn lạc, bất trắc và đổ nát. Tham nhũng, do đó, không chỉ huỷ hoại lòng tin vào những người đại diện mà còn huỷ hoại cả tâm lý tin tưởng vào cuộc sống bởi một dân tộc mà năng lực tham nhũng mạnh hơn cả năng lực phát triển thì dân tộc ấy chắc chắn sẽ không có tương lai. Và nếu chúng ta không kịp thời ngăn chặn sự phát triển của hiện tượng tham nhũng, chúng ta sẽ phải đối mặt hoặc với một cuộc cách mạng hoặc sự trốn chạy của nhân dân trong quá trình họ đi tìm một tương lai khác.
Những phân tích về tác hại của tham nhũng đã đưa chúng ta đến kết luận, xây dựng thể chế dân chủ chính là lời kêu gọi vĩ đại nhất và nhân đạo nhất để phục vụ nhân loại; những kẻ cố tình trì hoãn quá trình này phải hiểu rằng sự trì hoãn của họ sẽ tất yếu dẫn đến những chuỗi biến dạng khủng khiếp hơn nữa và sự biến dạng đáng sợ nhất là cảm giác bất lực của con người trong việc ngăn chặn quá trình thú hoá những giá trị người còn lại. Chúng ta buộc phải khẳng định như thế vì một tương lai có thể dự báo – ở đó, con người sẽ được giải phóng sức mạnh kiến tạo của họ.
Kết luận
Khi miêu tả cảm giác của một nhân vật buộc phải giết một kẻ lưu manh vì hắn ta đã giết một người lương thiện, Victor Hugo đã thốt lên rằng “Thực ra, nỗi ân hận vì giết đi một con người, dù chỉ là một kẻ lưu manh vẫn lớn hơn niềm vui vì được giết người để phục vụ nhân loại“. Chúng tôi muốn mượn những lời lẽ đó để khẳng định thêm một lần nữa rằng, dân chủ và chỉ có dân chủ như là thể chế hoàn hảo nhất của con người mới là liều thuốc đặc trị với hiện tượng tham nhũng – ở đó, những con người lương thiện đang ngày đêm “người hoá” những phần đã bị thú hoá trong những kẻ tham nhũng.
N. T. B.