Biểu tượng đa nghĩa của Thăng Long trong thơ Nguyễn Du

N.H.C.

Ngày hôm qua, 28-8, tại Resort Phương Nam (Bình Dương) đã diễn ra Hội thảo khoa học Văn học, Phật giáo với 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, do Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TP HCM và Học viện Phật giáo Viện Nam tại TP HCM đồng tổ chức. Hơn 70 báo cáo của 76 tác giả được chọn in thành một tập kỷ yếu dày dặn gần 850 trang. Báo cáo sau đây của Giáo sư Nguyễn Huệ Chi là một trong hai bài nghiên cứu được chọn đọc trong phiên toàn thể.

Bauxite Việt Nam xin hoan nghênh Ban Tổ chức đã chọn tháng 7 Âm lịch để tiến hành Hội thảo, đúng với thời điểm dời đô cách đây 1.000 năm, như đã được Đại Việt sử ký toàn thư ghi nhận. Và như thế, thì không hiểu vì lý do gì mà Đại lễ 1000 năm Thăng Long lại được các cơ quan có trách nhiệm ấn định từ ngày 1 đến ngày 10 tháng 10? Vì ngày 10 tháng 10 là ngày Giải phóng Thủ đô (10-10-1954) chăng? Nếu thế thì làm sao có thể nói là 1000 năm Thăng Long? Hơn nữa, lẽ ra, trong bối cảnh Trung Quốc đang bắt bớ đánh đập ngư dân ta, đang chiếm đóng biển đảo ta, trong bối cảnh gần 300 ngàn ha rừng bị đem cho Trung Quốc “thuê” dài hạn 50 năm, những ai có chút nhạy cảm chính trị hẳn không quyết định thời điểm Đại lễ như thế, nếu nhớ rằng ngày 1 tháng 10 là Quốc khánh nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa!

Bauxite Việt Nam

1. Muốn tìm hiểu hình ảnh Thăng Long trong thơ Nguyễn Du được thể hiện dưới các cấp độ đậm nhạt như thế nào thì trước hết phải xác định được mối quan hệ gắn bó giữa Nguyễn Du với Thăng Long sâu nặng đến mức độ nào. Ai cũng biết quê quán của Nguyễn Du là làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, trấn Nghệ An, nay thuộc Hà Tĩnh. Nhưng ông lại sinh ra giữa kinh đô Thăng Long vào thời quyền uy Lê – Trịnh đang nghiêng ngửa. Hai năm sau khi ông sinh thì Trịnh Sâm (1737-1782) lên nắm quyền, “muốn làm cuộc chấn hưng lớn về văn trị” (cải cách giáo dục) ([1]), đồng thời cũng dốc chí đánh dẹp nốt hai vụ “dấy loạn” lớn còn sót lại là Lê Duy Mật (Trấn Ninh) và Hoàng Công Chất (Hưng Hóa). Nguyễn Nghiễm (1708-1775), thân phụ Nguyễn Du, kiêm toàn văn võ, là một trong vài ba đại thần được lựa chọn cho hai chủ trương hệ trọng này. Chúa giao cho ông đem quân vào miền núi Nghệ – Tĩnh đánh đuổi Lê Duy Mật sang tận bên kia nước Lào rồi trở về tiếp tục giữ chức Tham tụng, kiêm trông coi Quốc Tử Giám, đôn đốc các vị Tế tửu, Tư nghiệp “hàng ngày đến giảng sách sử ở nhà Thái học”([2]). Mẹ Nguyễn Du là bà vợ thứ Trần Thị Tần, “đất lề quê thói” Kinh Bắc([3]) – nơi cái nôi của những làn điệu dân ca phong phú chất trữ tình.

Nguyễn Du mới lên ba đã được tập ấm Hoằng tín đại phu, Trung thành môn vệ úy, tước Thu Nhạc bá. Ông sống trong nhung lụa suốt thời tuổi nhỏ và lẽ tự nhiên, uy phong họ Nguyễn Tiên Điền lừng lẫy giữa kinh đô đã thấm vào cốt tủy, trở thành thứ vốn liếng tổng hợp – vừa gia phong vừa quốc phong mà cả gia phong và quốc phong đều thông qua văn hóa Tràng An để quy chiếu, ăn sâu bén rễ trong ông. Cái cảnh người anh trai lớn – Nguyễn Khản (1734-1786) – đậu Tiến sĩ được đích thân ông bố đứng ra gắn vào mũ bông hoa cho con lúc vua ban yến ở Lễ bộ đường (1760) không chỉ trở thành giai thoại lan truyền khắp nơi mà đối với họ Nguyễn còn là niềm hãnh diện.

Sau ngày Nguyễn Nghiễm mất (Ất Mùi, 1775), rồi mẹ đẻ ông cũng mất (Mậu Tuất, 1778), Nguyễn Du phải chuyển về ở với Nguyễn Khản, bấy giờ đang làm Tả thị lang Bộ Hình kiêm Hiệp trấn xứ Sơn Tây. Thơ Nguyễn Du tuyệt không nhắc gì đến người anh khác mẹ này dễ thường vì quá cách biệt tuổi tác, song chắc chắn trong vòng mười năm, từ tuổi 13 đến lúc trưởng thành, ông không chỉ nếm trải mọi biến cố thịnh suy trong đại gia đình mà còn vô tư đón nhận những gam màu lấp lánh của thời kỳ “bình yên vô sự”([4]) cuối cùng dưới tay chúa Trịnh Sâm, thông qua người bề tôi thân tín tài hoa rất mực Nguyễn Khản, người được chúa “thân thiết như bạn áo vải”([5]), hàng ngày giao du qua lại. “Tính Khản hào hoa, trong lâu đài mình ở không mấy khi dứt tiếng sênh ca, hoặc tiếng ngâm thơ, đánh đàn để mua vui. Người ta thường xem Khản là bậc đại thần phong lưu”([6]). Những buổi dạo thuyền giữa Tây hồ, “kẻ thị thần vệ sĩ bày hàng hóa quanh cả bốn mặt bờ hồ, nhà chúa cùng với Đặng Tuyên phi cùng ngồi trên thuyền mà Nguyễn Khản thì ngồi hầu ngang trước mặt, cùng thưởng lãm cười nói, không khác gì bạn bè người nhà”([7]); những cuộc yến tiệc đàn ca thâu đêm tại nhà riêng, một nơi cảnh trí nên thơ giáp quán Bích Câu và chùa Tiên Tích, khi con hát xướng lên những bài nhạc phủ do chủ nhân đặt lời liền “được giáo phường khắp kinh thành tranh nhau truyền tụng”… hẳn đã in hằn vào tâm trí Nguyễn Du nhiều khuôn hình rực rỡ và hứng thú nghệ thuật khó có thể phai. Đấy là dấu ấn văn hóa Thăng Long đối với Nguyễn Du ở giai đoạn thứ hai, cũng là giai đoạn quan trọng nhất: vào lúc ông bắt đầu trưởng thành.

Đến năm 1780, con trai cả Trịnh Sâm là Trịnh Tông (1763-1786) do mưu toan phế lập bị truất ngôi Thế tử thì Nguyễn Khản vốn là Tùy giảng của Thế tử cũng bị bắt giam. Khi Kiêu binh đưa Tông ra khỏi nhà ngục giành lại ngôi chúa (1782), Khản được bổ làm Thượng thư Bộ Lại và Tham tụng, song chẳng được mấy ngày đã bị Kiêu binh kéo đến phá nhà, phải bỏ trốn lên Sơn Tây, rồi vì mưu toan trấn áp bọn họ bất thành phải trốn thẳng về xứ Nghệ.

Không hiểu sao Nguyễn Du lại được đứng ngoài mọi hệ lụy. Ông vẫn đi học, năm 1783 đi thi Hương đậu tam trường, rồi kế chân người bố nuôi họ Hà giữ chức quan võ ở Thái Nguyên. Tuy thế, vận hội Lê – Trịnh bấy giờ đã đến hồi cùng. Chỉ ba năm sau, 1786, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc, phế bỏ phủ chúa, ba năm sau nữa, ra Bắc lần thứ hai đánh tan quân Thanh xâm lược, đuổi Lê Chiêu Thống (1765-1793) chạy khỏi bờ cõi, kết thúc vĩnh viễn triều đại Lê, khiến cho nhiều bề tôi nhà Lê, trong đó có Nguyễn Du, phải rời bỏ vĩnh viễn Thăng Long, long đong cùng đất cuối trời. Những biến cố đổi thay triều đại giai đoạn này tất nhiên dội mạnh vào Nguyễn Du như một cơn lốc. Và cảnh tang thương dâu bể của nơi phồn hoa đô hội thân thuộc, từ nhiều tầng bậc khác nhau, với nhiều số phận bi hài trớ trêu diễn ra trước mắt, lại cũng khía sâu vào tâm trí nhà thơ những ấn tượng khác thường, hình thành nên ở ông một cái nhìn sâu thẳm, đột xuất về phương diện triết học cũng như thẩm mỹ.

Thơ Nguyễn Du chưng cất được các loại biểu tượng khác nhau về Thăng Long trước sau đều bắt nguồn từ ba giai đoạn ảnh hưởng khác biệt nói trên của môi trường văn hóa Thăng Long mà ông đã tiếp nhận sâu nặng từ trong thực tế trải nghiệm của bản thân.

Nói đến biểu tượng Thăng Long trong thơ Nguyễn Du, phạm vi khảo sát của chúng tôi được giới hạn trong thơ chữ Hán, tức là phần thơ trữ tình, nơi cái “tôi” Nguyễn Du có điều kiện giao lưu với ngoại giới ở tư cách một chủ thể trực diện, nói như Diomède, nhà văn phạm học La-tinh sống ở thế kỷ thứ IV: “Trữ tình là những tác phẩm ở đó một mình tác giả phát ngôn”([8]), nghĩa là Thăng Long hiện ra ở đây không phải là một khách thể độc lập với Nguyễn Du mà phải thông qua chính cảm quan Nguyễn Du mới cấp cho nó một hồn cốt riêng, không tìm thấy ở những sáng tác đương thời nào khác. Điều ta chờ đợi ở Nguyễn Du chính là chỗ ấy.

Phải nói, trong những gì gửi gắm vào thơ chữ Hán Nguyễn Du, bơ vơhồi cố là hai trạng thái đi liền, được đặt ở phương vị soi thấu và tô đậm cho nhau. Giống như Chateaubriand (1768-1848), nhà văn Pháp xuất thân từ một gia đình quý tộc sa sút, giữ trọn tư tưởng bảo hoàng và xa lánh cuộc cách mạng 1789, trong gần 20 năm cô đơn cuối đời từng dành một nửa thời gian phục vụ công khai vương triều đã thất thế và một nửa còn lại thì “lặn vào trong quá khứ của chính ông”([9]), với Nguyễn Du, nỗi nhớ nhung về những gì đã rời bỏ mình nhưng mình lại không rời bỏ được chúng làm tăng thêm tình cảnh trống vắng mình đối diện với mình của nhà thơ giữa hiện tại:

Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,

Y y bất cải cựu thiền quyên.

Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc,

Vạn lý quỳnh Châu thử dạ viên.

Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán,

Bạch đầu đa hận tuế thì thiên.

(Quỳnh Hải nguyên tiêu)

(Nguyên tiêu sân vắng, nguyệt đầy trời,

Vẫn thế, thiền quyên sắc chẳng phai.

Xuân hứng một bầu ai đấy hưởng?

Quỳnh Châu muôn dặm bóng tròn soi.

Anh em tan tác nhà đâu nữa,

Năm tháng sầu vương bạc tóc rồi)(*)

(*)  Nguyễn Huệ Chi dịch, dựa trên bản dịch thơ của Đào Duy Anh. Thơ chữ Hán Nguyễn Du. Nxb. Văn học, Hà Nội, 1987. Các thơ văn trích dẫn trong bài này dựa vào: 1. Thơ chữ Hán Nguyễn Du, 1987, Sđd; 2. Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Hà Nội, 1965, Sđd.

Dễ nghĩ rằng một khi để mình chìm sâu vào trong chuỗi tâm trạng triền miên bơ vơ và hồi cố thì Thăng Long phải là hình ảnh hiện ra hàng đầu, một ám ảnh thường trực đối với nhà thi sĩ? Thế mà hình như không phải vậy. Nhiều nhà nghiên cứu đã không khỏi thất vọng bởi không xác chứng được điều đó khi đào xới vào thơ chữ Hán Nguyễn Du. Họ còn lấy làm lạ không hiểu sao Nguyễn Du không sinh ra ở Hà Tĩnh và cho đến tận những năm lênh đênh trôi nổi ở Quỳnh Hải, Thái Bình quê vợ, ông cũng chưa hoặc nếu có chỉ rất ít những tháng ngày sống ở Hà Tĩnh, song hình ảnh quê hương Hồng Lĩnh lại đi về thường xuyên trong thơ ông: Cố hương đệ muội âm hao tuyệt / Bất kiến bình an nhất chỉ thư – Em trai em gái ở nơi quê cũ hoàn toàn không có tin tức / Chẳng thấy một lá thư nào nói việc bình an” (Sơn cư mạn hứng); “Dao ức gia hương thiên lý cách – Ở nơi xa nhớ quê nhà ngoài nghìn dặm” (Mạn hứng)… Trái lại, dù chỉ mới rời bỏ Thăng Long, nhà thơ lại không có một lời nào dành cho nỗi nhớ Thăng Long ngoại trừ thời điểm ngắn ngủi ông tạt qua Thăng Long vào năm 1813 trong vai Chánh sứ nhà Nguyễn đi sang Trung Quốc, bấy giờ Thăng Long đã là Bắc thành. Cứ ngỡ như con người này rời bỏ cố đô là “lặn một hơi mất tăm” trong gần suốt 20 năm mà không ngó ngàng gì đến cảnh xưa người cũ. Với Thăng Long văn vật mà mình từng tắm trong nguồn dinh dưỡng tinh thần của nó, thi sĩ Tố Như vô tình đến thế sao?([10])

Thật ra, lần đọc kỹ thơ Nguyễn Du, mọi chuyện không hoàn toàn như nhiều người vẫn nghĩ. Lý do đầu tiên, nhìn ở mặt nổi,  là phần thơ Thanh Hiên thi tập chúng ta còn giữ được ngày nay chỉ là những bài làm vào khoảng Nguyễn Du đã ba mươi tuổi, tức là vào lúc ông giã biệt Thăng Long đã được trên 11 năm rồi([11]). Tức là những bài làm khi mới từ Thăng Long cất bước ra đi, khi mà cảm xúc hẫng hụt trước những mất mát về một nếp sống, một thói quen, một khung cảnh thân thuộc… còn tươi nguyên trong trái tim nóng hổi của nhà thơ, nếu có – mà ta tin là có – chắc chắn đã rơi rụng([12]). Đó là chỗ không may cho người đọc khi muốn tìm hiểu tâm sự Nguyễn Du với Thăng Long. Còn như sau hơn mười một năm chia cách, thì mọi nỗi nhớ nhung tất đã lắng xuống, chìm vào bề sâu, thường tình ai mà chẳng thế, “Xót thay chút nghĩa cũ càng…”. Dĩ nhiên là nhà thơ không hề quên Thăng Long, như nàng Kiều không hề quên Kim Trọng “Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng”. Nếu xem xét cho tinh, trước năm 1813 rất lâu, hình bóng chốn cố đô vẫn thấp thoáng đi về trong những dòng thơ của Nguyễn Du.

2. Trước hết, Nguyễn Du thường nói đến Thăng Long như một địa điểm khởi phát, nơi bắt đầu cuộc hành trình “gia biến và lưu lạc” (giai đoạn thứ hai trong kết cấu truyện Nôm) của ông: “Trường An khứ bất tức – Từ Trường An ra đi chưa [lúc nào] ngừng nghỉ” (Ký giang Bắc Huyền Hư Tử). Quả thật chặng đường kể từ khi ông định “tòng vong” theo Lê Chiêu Thống rồi đi khỏi kinh kỳ (khoảng 1786) là một khúc ngoặt lớn trong cuộc đời nhà thơ, từ đỉnh cao phú quý rơi tuột xuống vực sâu cùng khổ, và kéo dài đến những mười mấy năm. Cho nên có thể nói Thăng Long trong nỗi nhớ của ông trở thành một mốc lớn đánh dấu sự đổi thay của cả một thân phận. Trên thực tế ông vẫn còn nhiều dịp trở lại Thăng Long vào thời gian này nhưng dẫu là trở lại thì tư thế của cậu Chiêu Bảy con quan Tể tướng không bao giờ có nữa, và vẻ đẹp hoa lệ quyến người của nơi ngày xưa cậu Chiêu đắm mình trong đó như cá bơi trong nước cũng không bao giờ còn nữa. Cái ý sâu xa muốn gửi vào câu thơ Trường An khứ bất tức / Từ Trường An ra đi chưa [lúc nào] ngừng nghỉ là như thế đấy – đi là đi hẳn. Và điểm khởi đầu của một phân ly “đứt ruột” trong đời mỗi người (Đoạn trường thay lúc phân kỳ) kiểu này bao giờ cũng có vai trò quan trọng (hãy liên hệ đến mấy câu thơ của Giả Đảo 賈島 đời Đường: Khách xá Tinh Châu dĩ thập sương / Quy tâm nhất dạ ức Hàm Dương / Vô đoan cánh độ Tang Càn thủy / Khước vọng Tinh Châu thị cố hương. Tạm dịch: Lưu lạc Tinh Châu đã chục năm / Sớm hôm lúc nào cũng nhớ quê quán Hàm Dương / Bỗng nhiên lại phải vượt sông Tang Càn / Ngoảnh nhìn lại thì Tinh Châu đã trở thành quê cũ – Độ Tang Càn).

Người xưa muốn gợi nhớ cái nơi mình phải vĩnh viễn chia lìa còn có cách viện đến con số đo đếm về khoảng cách. Nguyễn Du cũng không khác, ông không những nói rằng mình bắt buộc phải rời bỏ Thăng Long đi miết, mà còn muốn nói số phận khiến cho mình ngày một thêm xa hút Thăng Long: “Nam khứ Tràng An thiên lý dư – Đi khỏi Tràng An về phía Nam hơn nghìn dặm rồi” (Sơn cư mạn hứng). Cần nhớ đây là một không gian nghệ thuật chứ không phải không gian thực hữu, về mặt tâm lý khái niệm “thiên lý” nói lên một chặng đường rất xa xôi, khó mà mong còn quay lại được, nhưng nó còn có giá trị hoán dụ sự cách biệt thời gian đằng đẵng. Quả là lúc bấy giờ nhà thơ đã xa cách Thăng Long đến mười một năm có lẻ. Thăng Long trong ý niệm của ông không còn là một địa danh có thể với tới, nó đã tách ra ngoài số phận của ông. Nhà thơ đã dồn vào hai chữ Tràng An cả một nỗi đau.

Một nhận xét nữa là trong thơ mình, mỗi khi nói đến địa danh Tràng An, ở phần kế tiếp bao giờ Nguyễn Du cũng nhắc đến quê hương Hồng Lĩnh. Bài Sơn cư mạn hứng mở đầu là: Nam khứ Tràng An thiên lý dư thì hai câu kết: Cố hương đệ muội âm hao tuyệt (Em trai em gái ở nơi làng cũ vắng bặt tin tức); bài Ký giang Bắc Huyền Hư Tử mở đầu: Trường An khứ bất tức thì ngay câu thứ hai đã viết: Hương tứ tại thiên nha (Nỗi niềm quê hương vẫn ở tận cuối trời). Có hiện tượng trên chứng tỏ, trong lòng Nguyễn Du vào giai đoạn “thập tải phong trần”, Thăng Long và Hồng Lĩnh chính là hai địa điểm nhớ thương sâu nặng nhất. Và hình như, trên những điểm dừng chân trong hơn mười năm trôi nổi thì sự trớ trêu bắt ông cứ phải đứng ở giữa hai đầu nỗi nhớ, một phía là nơi mình vội vàng từ bỏ, không kịp ngoái đầu trở lại, và phía kia là nơi mình đang mong tìm về nương náu, nhưng cũng còn ở đâu tít tắp chưa thể nào mường tượng ra. Thử hỏi hai địa điểm đó có ý nghĩa gì mà trở thành những lực hút đồng đều để trái tim Nguyễn Du phải lắc qua lắc lại theo kiểu quả lắc đồng hồ như kia? Hãy liên hệ đến bài thơ Qua đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan: “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc / Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”. Thì ra là thế, đối với nhà nho, một quan hệ liên hoàn đã thành ước lệ trong tâm tưởng là nước bao giờ cũng đi đôi với nhà: Gia vong quốc phá hữu thân lưu (Nguyên Hiếu Vấn 元好問 – Kim); Quốc phá gia vong dục hà chi? (Trương Hoàng Ngôn 張煌言 – Thanh). Vậy là trong thơ Nguyễn Du, Thăng Long sở dĩ gắn chặt với Hồng Lĩnh như một cặp song trùng vì Hồng Lĩnh là cố hương mà Thăng Long là cố quốc – đây không chỉ là một cột mốc ly biệt của nhà thơ nữa mà còn là tượng trưng cho cái nước đã mất trong tâm hồn ông. Bởi thế, nhiều lúc ông thay luôn Thăng Long bằng chữ “quốc” hay “cố quốc”: “Thập tải phong trần khứ quốc xa – Trải gió bụi mười năm, bỏ nước đi xa” (U cư, II); Cố quốc hồi đầu lệ – Quay đầu nhìn lại nước cũ, nước mắt tuôn rơi (Độ Long Vĩ giang). Chính chỗ này là chìa khóa để ta hiểu ra một bài thơ khác của Nguyễn Du trực tiếp nói về Thăng Long mà không hề dùng đến một từ Thăng Long hay Trường An nào cả: bài Bát muộn – Xua nỗi buồn

Thập tải trần ai ám ngọc trừ,

Bách niên thành phủ bán hoang khư.

Yêu ma trùng điểu cao phi tận,

Trỉ uế càn khôn chiến huyết dư.

Tang tử binh tiền thiên lý lệ,

Thân bằng đăng hạ sổ hàng thư.

Ngư long linh lạc nhàn thu dạ,

Bách chúng u hoài vị nhất lư.

(Mười năm bụi bặm dơ thềm ngọc,

Thành phủ trăm năm nửa bỏ hoang.

Chim bọ nhỏ nhoi bay biệt xứ,

Đất trời tanh thối xót sa trường.

Quê nhà trong loạn, lệ ngàn dặm,

Bầu bạn bên đèn, thư mấy hàng.

Lặng lẽ đêm thu rồng cá vắng,

Nỗi lòng u uất vẫn vương mang)(*)

(*)  Đào Duy Anh dịch. Thơ chữ Hán Nguyễn Du. 1987, Sđd.

Bốn câu sau nói về nhà và hoàn cảnh hiện tại của bản thân thì bốn câu đầu tất nói về nước. “Ngọc trừ” chính là bệ ngọc thềm rồng nơi cung vua phủ chúa, còn “thành phủ” hẳn không thể là đâu khác ngoài Hoàng thành của nhà Lê. “Sa trường tanh thối” có phần chắc là ông đang nói đến cuộc chiến tranh quyết liệt giữa quân đội Tây Sơn và đại binh Tôn Sĩ Nghị ngay giữa Thăng Long. Chính cuộc chiến thần tốc năm 1788 đã khiến tác giả từ nơi xa hình dung ra Thăng Long là một bãi chiến trường máu me, bệ ngọc thềm rồng thâm nghiêm đều vấy bẩn, lâu đài thành quách dựng lên mấy trăm năm một nửa trở thành gò hoang. Dùng hình ảnh đàn chim nhỏ bé bay vù đi hết, ông muốn tự nhắc với lòng rằng nơi đấy, cả một cái tổ ấm mà cha ông mình từng nương tựa, ngỡ là bền vững nghìn thu([13]), thì nay đã tan tác. Âm vang chiến cuộc mà người viết không trực tiếp chứng kiến rõ ràng khúc xạ mạnh vào tư tưởng nghệ thuật của ông, cộng thêm những định kiến khó gỡ về sự đổ vỡ của gia đình, triều đại, góp phần đẩy cảm hứng về Thăng Long của Nguyễn Du đến những ấn tượng chết chóc: “Trỉ uế càn khôn chiến huyết dư – Đất trời nhơ nhớp, những đám máu trong cuộc chiến vẫn còn rơi rớt lại”. Cũng dễ hiểu thôi, một Thăng Long đã chết vì Thăng Long được đồng nhất với nước, mà nước đây là nước của vua Lê chúa Trịnh – nước có còn đâu nữa. Ấn tượng ngấm sâu đến nỗi mãi sau này khi đã làm quan với nhà Nguyễn, trên đường ngược xuôi công cán, gặp một người thất thểu từ xa đi đến, chưa cần hỏi, nhà thơ đã đoan chắc đấy phải là người Thăng Long. Đứng về thi pháp mà nói, có vẻ  như đây là cái nhìn loại hình hóa của Nguyễn Du về một Thăng Long những năm sóng gió cuối Lê đầu Nguyễn – một Thăng Long bị tàn phá như một định mệnh, một Thăng Long tha hóa về mọi mặt không sao cưỡng lại, từ hào hoa phong nhã rơi thẳng xuống bần hàn:

Hữu nhất nhân yên lương khả ai,

Phá y tàn lạp, sắc như khôi.

Tỵ nhân đãn mịch đạo bàng tẩu,

Tri thị Thăng Long thành lý lai.

(Ngẫu hứng, V)

(Có một người kia thật đáng thương,

Nón xơ, áo rách, sắc xanh vàng,

Tránh người cố né bên đường lủi,

Biết khách từ Thăng Long mới sang)(*)

(*)  Đào Duy Anh dịch. Thơ chữ Hán Nguyễn Du. 1987, Sđd.

Phác họa người mà cũng là một cách Nguyễn Du tự họa, tự ngẫm lại mình trên cả một chặng đường dài lầm lũi, ăn nhờ ở đậu khắp nơi. Ý nghĩa song quan của hình ảnh Thăng Long về phương diện này đã nâng thơ ông lên một tầm khái quát rất cao!

3. Mặc dù vậy, trong lòng Nguyễn Du vẫn chưa bao giờ phai nhạt một Thăng Long vàng son. Tuy không phải thường xuyên song hễ có dịp là những gì đã lùi sâu vào ký ức nhà thơ lại bất chợt sống lại. Ấy là lúc ông đứng trước bến Giang Đình nơi quê nhà, bến sông mà Nguyễn Nghiễm từng cho thuyền ghé vào trong ngày hưu trí. Nguyễn Du có trực tiếp đón mừng cái ngày “áo gấm về làng” đó của bố mình hay không thì ta không rõ. Song những nét phóng bút trong bài thơ lại có một giá trị chồng lấn kỳ lạ, vừa là cảnh võng lọng rộn rịp của Nguyễn Nghiễm tại quê hương, cũng vừa là cảnh hoa lệ nơi dinh thự người bố ở Thăng Long mà nhà thơ được thấy hàng ngày – nếu không thế đã không có hai câu kết gợi một liên tưởng bất ngờ, gieo vào người đọc cái tình điệu vấn vương không sao dứt:

Ức tích ngô ông tạ lão thì,

Phiêu phiêu bồ tứ thử giang my.

Tiêu chu kích thủy thần long đấu,

Bảo cái phù không thụy hạc phi.

Nhất tự y thường vô mịch xứ,

Lưỡng đê yên thảo bất thăng bi.

Bách niên đa thiểu thương tâm sự,

Cận nhật Trường An đại dĩ phi.

(Giang Đình hữu cảm)

(Nhớ thuở tiên nghiêm cáo lão về,

Bên sông rộn rịp ngựa liền xe.

Khúc rồng cuộn sóng thuyền tiên lướt,

Cánh hạc vờn mây lọng gấm che.

Từ nếp xiêm ý chìm khuất bến,

Để sầu cây cỏ ngập tràn đê.

Trường An cũng trải nhiều dâu bể,

Gẫm cuộc trăm năm lắm não nề)(*)

(*)  Quách Tấn dịch. Thơ chữ Hán Nguyễn Du. 1987, Sđd.

Đáng lạ hơn nữa, trong một bài thơ làm thời kỳ đã ra làm quan với nhà Nguyễn, Nguyễn Du bỗng mơ về cái thời trẻ trung ở Thăng Long. Ông nhớ đến một người đẹp, cô bạn hàng xóm, đã cùng ông đi hái sen ở hồ Tây. Một Nguyễn Du khác lạ bỗng đâu hiện về làm mờ hẳn Nguyễn Du già nua trước mắt. Sự xuất hiện bất thần của cô bạn gái được nhà thơ gợi tả thông qua cái bóng của cô lung linh dưới mặt nước khiến cho cảnh vật chợt bừng sáng, thời gian đảo ngược từ dĩ vãng trở thành hiện tại:

Khẩn khúc thù điệp quần,

Thái liên trạc tiểu đĩnh.

Hồ thủy hà xung dung,

Thủy trung hữu nhân ảnh.

Thái thái Tây hồ liên,

Hoa thực cụ thượng thuyền.

Hoa dĩ tặng sở úy,

Thực dĩ tặng sở liên.

(Mộng đắc thái liên)

(Thắt chặt quần cánh bướm,

Hái sen thuyền nhỏ bơi.

Nước hồ sen trong vắt,

Trong nước có bóng người(*)

Hồ Tây hái, hái sen,

Hoa, gương đều bỏ thuyền.

Hoa tặng người mình sợ,

Gương tặng người mình quen)(**)

(*)  Đào Duy Anh dịch. Thơ chữ Hán Nguyễn Du. 1987, Sđd.

(**) Phạm Khắc Khoan – Lê Thước dịch. Thơ chữ Hán  Nguyễn Du. 1965, Sđd.

Hoa dĩ tặng sở úy / Thực dĩ tặng sở liên – Hoa để tặng người mình sợ / Quả để tặng người mình thương”,  nếu đặt hai câu thơ này vào những mối quan hệ nhân sinh phức tạp giữa cuộc đời rộng lớn thì dung lượng triết lý mà nó chứa đựng đáng làm cho ta phải kinh ngạc, nhưng trong phạm vi bài thơ đang nói, hình như không hàm chứa cái triết lý tàn nhẫn ấy. Cả “sợ” và “thương” đều chính là thương, và đấy là cách làm dáng tu từ ý nhị và thơ mộng hiếm có của Nguyễn Du trước một sắc đẹp mà ông hẳn từng phải mềm lòng. Hai khúc kế tiếp của bài thơ lại một lần nữa nói đến ấn tượng đột ngột người con gái đem đến cho tác giả ở cái tiếng cười chợt vang động sau hoa, chính nó là “sợi tơ” của ngó sen cứ vấn vương hoài trong ông suốt bấy nhiêu năm, cho mãi đến tận lúc đang đắm vào giấc mộng:

Kim thần khứ thái liên,

Nãi ước đông lân nữ.

Bất tri lai bất tri,

Cách hoa văn tiếu ngữ.

Cộng tri lân liên hoa,

Thùy giả lân liên cán.

Kỳ trung hữu chân ty,

Khiên liên bất khả đoạn.

(Mộng đắc thái liên)

(Sớm nay đi hái sen,

Hẹn với cô nhà bên.

Đến lúc nào chẳng biết,

Cách hoa nghe cười lên(*)

Hoa sen ai cũng ưa,

Cuống sen nào ai thích.

Trong cuống có tơ mành,

Vấn vương không thể dứt)(**)

(*)  Đào Duy Anh dịch. Thơ chữ Hán Nguyễn Du. 1987, Sđd.

(**) Phạm Khắc Khoan – Lê Thước dịch. Thơ chữ Hán  Nguyễn Du. 1965, Sđd.

Thủ pháp chồng lấn, hay cách hình dung gương mặt qua cái bóng in dưới nước, tiếng nói vang động sau bụi hoa… của cả hai bài thơ đều là biểu hiện của một Thăng Long hoài niệm. Nguyễn Du đã có một giấc mơ đẹp, nói cách khác trong lòng ông vẫn tồn tại vẻ đẹp trinh nguyên về Thăng Long mà thực tế phũ phàng suốt bao năm tháng không thể nào xóa đi. Hình ảnh cô bạn láng giềng biết đâu chẳng là mối tình đầu của nhà thơ, gần như là một vầng sáng linh động duy nhất, ngời lên giữa cả một tập thơ phủ đầy bóng tối. Chỉ thế thôi cũng đủ thấy Thăng Long với Nguyễn Du là cả một món nợ lòng sâu nặng.

4. Tuy nhiên, phải đến năm 1813, trở lại Thăng Long trong vai một vị Chánh sứ, trước khi đi sang Trung Quốc, Nguyễn Du mới thật sự huy động được bao nhiêu kỷ niệm dồn nén để trở về đối diện với một Thăng Long hiện thực trong thơ mình. Cảm xúc đột ngột bừng dậy, ngổn ngang trăm mối, và trạng thái o ép giữa hưng phấn và mặc cảm giúp ngòi bút ông có lúc trở nên xuất thần. Ở hai bài thơ Thăng Long có lẽ làm vào khoảng một vài ngày đầu mới đến, “lòng bồi hồi suốt đêm chẳng ngủ” (Quan tâm nhất dạ khổ vô thụy), cảm hứng lớn nhất của nhà thơ là sự ngỡ ngàng trước mọi đổi thay. Suốt đêm chẳng ngủ thường thì vì lạ nước lạ nhà, ở Nguyễn Du là tâm thế “dường quen dường lạ”. Nhà thơ chọn một điểm nhấn về cái cảm giác bất nhất giữa hai không gian tâm lý đang xung đột trong ông. Không gian vũ trụ và không gian lịch sử thì vẫn thế, Thăng Long vẫn là Thăng Long xưa, núi sông hùng vĩ y nguyên không có gì khác; thế nhưng cứ nhìn vào đâu cũng thấy lạ, bởi không gian chính trị – xã hội đã hoàn toàn khác trước: phố phường tồn tại hàng nghìn năm nay là con đường quốc lộ, còn cung điện vua Lê chúa Trịnh thì một tòa thành của triều đại mới đã mọc lên. Rất kín đáo, Nguyễn Du hé lộ trái tim rướm máu của mình:

Tản lĩnh, Lô giang tuế tuế đồng,

Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long.

Thiên niên cự thất thành quan đạo,

Nhất phiến tân thành một cố cung.

(Thăng Long, I)

(Núi Tản, sông Lô vẫn núi sông,

Bạc đầu còn được thấy Thăng Long.

Nghìn năm dinh thự thành quan lộ,

Một dải tân thành lấp cố cung)(*)

(*) Quách Tấn dịch. Thơ chữ Hán Nguyễn Du. 1978, Sđd.

Chưa hết. Cùng với sự thay đổi của không gian, thời gian cũng khía những mũi dao tàn nhẫn. Người đẹp quen biết nhau thuở nào thì đã “tay bồng tay bế”, bạn bè cùng vui chơi lúc trẻ đã già lão hết cả. Trở lại Thăng Long những tưởng sẽ hòa nhập lại vào thế giới thân thuộc cũ nhưng rốt cuộc nhà thơ vẫn chỉ “một mình”:

Tương thức mỹ nhân khan bão tử,

Đồng du hiệp thiếu tẫn thành ông.

Quan tâm nhất dạ khổ vô thụy,

Đoản địch thanh thanh minh nguyệt trung.

(Thăng Long, I)

Người đẹp thuở xưa nay bế trẻ,

Bạn chơi thuở nhỏ thảy thành ông.

Thâu đêm chẳng ngủ lòng thêm bận,

Địch thổi trăng trong tiếng não nùng)(*)

(*) Quách Tấn dịch. Thơ chữ Hán Nguyễn Du. 1978, Sđd.

Qua tâm trạng ngậm ngùi của người trở về chốn cũ mà không còn nhận diện ra “cố nhân”, bài thơ Thăng Long cho thấy sự mất mát về phía Nguyễn Du trong ngày hội ngộ là một gánh nặng quá tải. Khổ thơ thứ hai lặp lại gần y nguyên những hình ảnh trong khổ thơ thứ nhất không phải chỉ là một lặp lại đơn điệu. Nó là một thủ pháp nhằm tái xác nhận những gì nhà thơ còn ngờ ngợ, băn khăn, chưa thật tin ở tai mắt mình. Ông đang tự hỏi: có thật thế không? Nhưng còn ghi ngờ gì nữa, “ánh trăng xưa soi trên tòa thành mới”, “những đường ngõ mở thông ra bốn phía”, “tiếng đàn sáo có xen những âm thanh lạ tai”… đấy đều là dấu hiệu mỉa mai của một Thăng Long đã bị thời gian “lạ hóa”. Âm điệu buồn bã, nhuốm màu hoài cổ của bài thơ khiến người nghe càng thêm thấm thía những lý lẽ khắc nghiệt mà cuộc sống dạy cho tác giả, những chân lý đắng cay về một cái gì không thể làm lại, không thể đi lại con đường đã đi. Bên cạnh đó, còn có dư vị ngậm ngùi của một chiêm nghiệm từ khách thể chuyển vào chủ thể. Thì ra thời gian cũng va xiết ngay con người mình mà ông không nghĩ tới, cứ tưởng mình vẫn là cái “tôi” trọn vẹn của quá khứ trong khi Thăng Long thì đã thay đổi. Đâu có thế! Nhìn lại mình, chính ông cũng đã trở thành một hiện hữu khác lạ, không giữ được “hình hài” xưa nữa rồi: “Thế sự phù trầm hưu thán tức / Tự gia đầu bạch diệc tinh tinh – Thôi đừng than thở chuyện đời chìm nổi / Mái tóc mình cũng đã bạc lốm đốm” (Thăng Long, II). Nỗi đau của nhà thơ da diết sâu sắc hơn khi ông nhận ra mình giữa dòng chảy cuộc đời. Thăng Long và ông, đôi bạn cố tri đã thành những người không quen biết.

5. Trong hai bài thơ còn lại của chùm thơ nói về Thăng Long ở chuyến đi năm 1813, Nguyễn Du dành để nói về người Thăng Long, đúng hơn là ông cụ thể hóa Thăng Long vào một phương diện quan trọng nhất. Đáng ngẫm nghĩ là cả hai bài đều chỉ nói đến một hạng người thường bị rẻ rúng: người ca kỹ. Vì sao ông chú ý nhiều đến họ? Ta chưa hiểu. Giông tố đã ập xuống tầng lớp thượng lưu của Thăng Long làm cho tất cả bỗng sẩy đàn tan nghé, Nguyễn Du đâu có lạ. Tuy nhiên thân phận những con người thượng đẳng kia ra sao ông không một lần nhắc đến. Thi nhân hình như không muốn đứng ra làm chứng nhân tự nguyện cho lớp người cao sang thất thế này. Nhưng ông lại là bạn của những người con hát. Thật lạ lùng. Ông không hạ mình xuống để thương vay mà thật sự tìm thấy mình trong họ. Xét cho kỹ, qua thái độ sẻ chia hào phóng với người đồng cảnh, ông sớm tự ý thức được bẩm chất nghệ sĩ của mình “Phong vận kỳ oan ngã tự cư – Nỗi oan lạ của người phong nhã ta tự thấy có mình trong ấy” (Độc Tiểu Thanh ký). Giữa khung trời cô đơn của một Kinh thành Thăng Long đã trở thành đất lạ, chỉ còn họ với ông còn là người tri kỷ, còn chứng giám tấm lòng cho nhau. Có cái tình thân quen đến mức sâu nặng mới làm cho cả hai bên xúc động bật khóc khi gặp lại; về phần ông cũng vụt nhớ lại giọng hát êm ái thuở người đẹp còn mặc tấm áo hồng:

Hồng tụ tằng văn ca uyển chuyển,

Bạch đầu tương kiến khốc lưu ly.

(Ngộ gia đệ cựu ca cơ)

(Đã từng nghe giọng ca uyển chuyển khi nàng phất ống tay

áo hồng,

Đầu bạc gặp nhau đây khóc vì nỗi lưu ly)

Có nhà phê bình để ý đến hai màu sắc tương phản trong bài thơ: ống tay áo hồng và mái đầu bạc, nói lên sự khác biệt giữa xưa và nay, nhưng là khác biệt không theo lẽ thường mà sau một biến cố hung hiểm – bị chiến tranh vò nhàu([14]). Chúng tôi nghĩ, điều Nguyễn Du nhấn mạnh không chỉ có thế mà ông còn muốn gợi nhắc sự trái ngược của những con người bề ngoài tưởng như bị phong ba bão táp nhấn chìm (bạc tóc) nhưng bên trong vẫn vẹn nguyên trái tim nồng thắm (áo hồng). Nhà thơ đã cố gắng vượt qua phần nào “nội dung thuần túy chủ quan”([15]) của hình thức thơ trữ tình để hướng về phía khách thể mà ghi khắc, theo những quy tắc ước lệ của thơ ca cổ điển vốn chưa cho phép ông từ bỏ chúng:

Phúc bồn dĩ hỹ nan thu thủy,

Đoạn ngẫu thương tai vị tuyệt ti.

(Ngộ gia đệ cựu ca cơ)

(Chậu đã lật úp rồi khó mà thu lại được nước,

Ngó sen đã gãy thương ôi, tơ vẫn không dứt)

Nói về tình nghĩa của người ca kỹ cũ của em, nhưng chính Nguyễn Du đã đề cập đến một quan hệ tinh thần rộng lớn hơn cả chuyện riêng tư của em mình. Qua biểu tượng người ca kỹ, nhà thơ vụt nhìn ra giữa Thăng Long những thứ quý giá chưa mai một:

Kiến thuyết giá nhân dĩ tam tử,

Khả liên do trước khứ thì y.

(Ngộ gia đệ cựu ca cơ)

(Nghe nói gả về người khác đã được ba con,

Thương thay vẫn còn mặc chiếc áo ngày đi lấy chồng)

Phải chăng ông muốn mượn chiếc áo để kín đáo hé lộ một điều gì đấy, nó là Thăng Long cái đẹp và sự chung thủy, vẫn còn cất giấu nơi người và cảnh của mảnh đất mà khi vừa mới gặp lại ông chưa kịp nhận ra? “Ông đã làm cho những áng thơ về Thăng Long của mình vượt ra ngoài mạch văn hoài cổ đơn thuần để trở thành tiếng nói đầy yêu thương con người”([16])

7. Bài thơ Ngộ gia đệ cựu ca cơ kể cũng chỉ mới là một “bước đệm” để Nguyễn Du đạt đến đỉnh cao nhất trong chùm thơ cảm xúc Thăng Long với tuyệt phẩm Long thành cầm giả ca. Cũng gặp lại một người con hát khác, ở bài này, Nguyễn Du dùng thể thơ trường thiên câu ngắn câu dài để thả sức hồi cố, đặt xưa và nay sát bên nhau như một tương quan đối sánh([17]). Bài thơ tập trung ánh sáng rọi vào số phận trớ trêu của một người phụ nữ tài sắc, cũng là hiện thân của tài hoa cốt cách Thăng Long. Cũng giống như nàng Kiều, cô Cầm trong bài cũng được Nguyễn Du hết lời ca ngợi. Nhưng khác với nàng Kiều – nhân vật hư cấu, người gảy đàn ở Long thành là người có thật nên sức mạnh của ngòi bút Nguyễn Du là biết chọn một cách trình bày đặc tả, làm hiển lộ đến sửng sốt những phẩm chất đắt giá của nàng. Nàng vốn là người con hát vô danh, nhờ sở trường một tài đàn tuyệt kỹ từ thượng giới đến trần gian không ai sánh được – ngón đàn chỉ có trong cung cấm của nhà Lê – nên nghiễm nhiên được cả Thăng Long thán phục gọi tên là Cầm. Mấy câu thơ vào đầu, nhà thơ dùng những dòng ngắn, nhịp đi từ tốn như kiểu “trích ngang lý lịch”, rồi đột nhiên mạch thơ vút lên, kéo dài ra 9 chữ không hề ngắt, đưa người đọc đạt đến ngay đỉnh cao của sự ngất ngây trước cái tài trời phú:

Long thành giai nhân,

Tính thị bất kỳ thanh.

Độc thiện Nguyễn cầm,

Cử thành chi nhân dĩ Cầm danh.

Học đắc tiên triều cung trung cung phụng khúc,

Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất danh.

(Long thành cầm giả ca)

(Người đẹp Long thành,

Họ tên không ai rõ.

Riêng thạo ngón đàn cầm,

Người trong thành biết tên Cầm từ đó.

Học được khúc cung phụng trong cung cấm triều xưa,

Khúc tuyệt xướng nức danh trời người chưa dễ có)(*)

(*)  Nguyễn Huệ Chi dịch. Thơ chữ Hán Nguyễn Du. 1987, Sđd. Từ đây trở xuống, các đoạn trích bài Long thành cầm giả ca đều cùng một người dịch.

Ta chú ý cách phối hưởng âm thanh của tác giả: câu thơ 9 chữ thứ nhất ông dụng ý đưa vào một chuỗi vần ung: cung trung cung phụng và câu 9 thứ hai đưa vào một chuỗi âm t-th: tự thị thiên thượng, hai chuỗi hợp âm như thế bắt thính lực người nghe bất giác mường tượng đến tiếng đàn của cô Cầm. Với tài đàn vô song, cô Cầm xuất hiện trước mắt nhà thơ vào một đêm vui bên hồ Giám lúc Nguyễn Du đến thăm người anh giữa thời buổi tao loạn chưa yên. Nhưng mặc cho thời thế ra sao, tác giả đã bị chinh phục ngay bởi không khí và âm thanh tràn ngập đêm vui, trong đó hình bóng có sức hút hồn chính là người đẹp. Sự kết hợp hài hòa giữa nhan sắc rực rỡ và bản tính hồn nhiên đầy quyến rũ khiến người nghe ai cũng phải mê đắm:

Dư ức thiếu thì tằng nhất kiến,

Giám hồ hồ biên dạ khai yến.

Kỷ thì tam thất chính phương niên,

Hồng trang yểm ái đào hoa diện.

Đà nhan hám thái tối nghi nhân,

Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến.

(Nhớ xưa ta đã một lần trông,

Hồ Giám đang đêm mở tiệc nồng.

Tuổi nàng lúc ấy vừa ba bảy,

Áo hồng óng ánh mặt đào hồng.

Ngà say yểu điệu mê hồn khách,

Một tay đàn dậy suốt năm cung)

Và khi tiếng nhạc trong tay nàng ngân lên thì dường như đất trời lay đảo, âm thanh phát ra có mãnh lực của sấm sét gió mưa, tiếng hạc ngâm trong trẻo giữa trời cao và tiếng chàng Trang Tích ngâm nga nhớ nước Việt trong lúc đau ốm. Nguyễn Du cực tả tiếng đàn kỳ diệu của nhân vật bằng những câu thơ giãn ra hết cỡ, sự lặp âm lặp vần, vấn trắc chát chúa xen vần bằng êm ả, lại được vận dụng rất đắt, tạo nên cả một dàn hợp xướng kỳ thú:

Hoãn như sơ phong độ tùng lâm,

Thanh như song hạc minh tại âm.

Liệt như Tiến Phúc bi đầu toái tích lịch,

Ai như Trang Tích bệnh trung vi Việt ngâm.

Thính giả my my bất tri quyện,

Tận thị Trung Hòa đại nội âm.

(Khoan như tiếng gió giữa rừng thông lướt thổi,

Trong như tiếng hạc lưng chừng trời u tối.

Mạnh như tiếng sét làm bia Tiến Phúc vỡ tan,

Buồn như Trang Tích ốm đau nằm ngâm ngợi.

Người nghe quên mệt nghe bồn chồn,

Ấy khúc nhạc điện Trung Hòa trong đại nội)

Hơi thơ dồn dập của Nguyễn Du tự nó đã biểu trưng cho sức mạnh của tiếng đàn. Hình ảnh hào hứng của quan tướng Tây Sơn trong tiệc đặt vào khúc thứ tư của bài thơ là một sự hoàn kết sinh động, như một màn kịch nhiệt náo làm bằng chứng không lời cho sự chuyển hóa tinh vi từ bại thành thắng của tài hoa Thăng Long, văn hóa Thăng Long, và nhất là ẩn ý cái văn hóa quý phái của vương triều nhà Lê mà cô Cầm sở đắc, vốn tưởng như đã phải nem nép trước võ nghệ bách chiến bách thắng của đội quân đến từ phương Nam, thì thực ra vẫn giữ nguyên vị thế cao sang của nó, chinh phục được cả những chàng trai trẻ vốn chưa từng biết “bại” là gì – Và đó là một hệ quy chiếu khác trong cách nhìn thắng/bại của nhà văn hóa Nguyễn Du:

Tây Sơn chư thần mãn tọa tận khuynh đảo,

Triệt dạ truy hoan bất tri bão.

Tả phao hữu trịch tranh triền đầu,

Nê thổ kim tiền thù thảo thảo.

Hào hoa ý khí lăng vương hầu,

Ngũ Lăng thiếu niên bất túc đạo.

Tính tương tam thập lục cung xuân,

Hoạt tố Tràng An vô giá bảo.

(Khanh tướng Tây Sơn trên tiệc đều ngất ngây,

Trắng đêm không chán cuộc vui say,

Tả hữu tranh nhau cùng gieo thưởng,

Bạc tiền như đất ném liền tay.

Hào hoa át hết bậc vương giả,

Bọn trẻ Ngũ Lăng đâu sánh tày.

Ba sáu cung xuân dồn hết lại,

Đúc nên vật báu Tràng An này)([18])

Nguyễn Du thực đã mô tả được cái kiêu sa phú bẩm của Thăng Long văn vật nghìn xưa qua chân dung tràn trề sức sống của cô Cầm. Một người con gái như là cái vưu vật trời cho của cả vùng đất Tràng An danh tiếng đáng lẽ phải được yêu chiều và hạnh phúc. Điên đảo thay, sóng gió thời cuộc đã vần nàng đến tận đáy. Sau hai mươi năm phiêu dạt vì biến loạn, cái kẻ chỉ dám đứng khuất trong bóng tối để được chiêm ngưỡng người đẹp ngày nào nay trở lại trong tư cách một ông quan Chánh sứ thì một sự thật phũ phàng đập vào mắt không thể tin nổi:

Tuyên phủ sứ quân vị dư trọng mãi tiếu,

Tịch trung ca kỹ giai niên thiếu.

Tịch mạt nhất nhân phát bán hóa,

Nhan sấu thần khô hình nhược tiểu.

Lang tạ tàn my bất sức trang

Thùy tri tiện thị thành trung đệ nhất diệu.

(Nay quan Tuyên phủ vì ta mở cuộc chơi,

Ca kỹ trong tiệc đều xinh tươi.

Cuối chiếu một nàng tóc đốm bạc,

Mặt gầy, sắc võ hình nhỏ nhoi.

Phờ phạc đôi mày không tô điểm,

Ai hay chính người kỳ diệu bậc nhất Kinh đô

thuở đương thời)

Hãy chú ý kết cấu của khổ thơ này là vần trắc. Từ một câu dài 9 chữ tiếp liền 4 câu 7 chữ rồi lại buông ra một câu 9 chữ. Một tiếng thở dài nghẹn lại ở trong họng. Điều Nguyễn Du muốn chỉ ra là sức tàn phá gớm ghê của một thời bão táp, đã dập vùi bao nhiêu cái hay cái đẹp mà truyền thống Thăng Long nhiều đời chưng cất nên, mà một cô Cầm nhìn thấy nhãn tiền chỉ là bằng chứng trong muôn một. Nguyễn Du thừa nhận sức mạnh tàn phá này thật khủng khiếp, nó cuốn băng đi hết, chỉ riêng một chút tài còn giữ được ở cái cô Cầm tàn tạ đang ngồi trước mắt cũng đã là chuyện bẽ bàng đến phải xé lòng:

Cựu khúc tân thanh ám lệ thùy,

Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi.

Mãnh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự,

Giám hồ tịch trung tằng kiến chi.

(Khúc xưa trong trẻo thầm rơi lệ,

Lặng nghe từng tiếng lòng đau xé.

Thốt nhiên bừng dậy chuyện hai chục năm qua,

Chuyện bên hồ Giám còn như vẽ)

Nguyễn Du muốn nâng lên thành một triết lý chung về số phận những con người tiêu biểu cho cái tài. Chỉ một mình nhà thơ – người trở lại – mới nhận ra tiếng đàn trác tuyệt ngày nào. Giữa một xã hội dửng dưng, hãnh tiến, duy có hai con người mang trong mình những vết thương không hàn gắn nổi kia là hiểu được nhau. Có lẽ vì vậy trong bài thơ này, Nguyễn Du xót thương cho cuộc đời tàn tạ của cô Cầm – người phụ nữ Thăng Long tài sắc, cũng là khóc cho những tài hoa Thăng Long đã bị vùi dập, và khóc cho cả cuộc đời phong trần lận đận của chính mình. Sâu bên trong, một cách lấp lửng mơ hồ, ông còn muốn vãn hồi danh dự cho chút di sản tinh thần của triều đại Lê đã mất. Trong cuộc đối diện đàm tâm với người ca kỹ bất hạnh, Nguyễn Du càng hiểu đó mới chính là giá trị thật của Thăng Long, cái giá trị bị lãng quên bởi người đời bạc bẽo, riêng có ông mới nhận chân lại được nó. Và không chỉ thế. Qua việc xây dựng hình tượng đa nghĩa của một cô Cầm, nhà thơ vô tình hay hữu ý còn gợi dậy những vấn đề thời cuộc tưởng đã chìm sâu vào ký vãng mà kỳ thực trước mắt ông vẫn đang hiển hiện – trong đó có cả sự kiện trời long đất lở từng bắt ông im hơi lặng tiếng trong suốt bấy nhiêu năm: cơ nghiệp lẫy lừng một thuở của Tây Sơn:

Thành quách suy di nhân sự cải,

Kỷ xứ tang điền biến thương hải.

Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong,

Ca vũ không di nhân sự tại.

(Thành quách đổi thay người chuyển dời,

Bãi biển nương dâu biết mấy nơi,

Cơ nghiệp Tây sơn tiêu tán sạch,

Luống còn một người con hát thôi).

Cô Cầm là biểu tượng mất và còn của giá trị Thăng Long trong chiêm nghiệm xuyên thời gian.

*    *    *

Có thể nói Nguyễn Du là một con người trong tâm hồn vốn có nhiều đa đoan, phức tạp. Nếu xuất hiện giữa cuộc đời là ông quan đúng mực, kín tiếng, “thật thà đi theo nhà Nguyễn”([19]), thì từ miền khuất khúc của nội tâm, ông vẫn không thôi trăn trở, vẫn không ngớt tra vấn cách hành xử của chính mình. Loại người như ông người ta thường gọi là “trời đày”, không chịu bằng lòng với cái mình có, không ngừng bắt mình đối thoại với thực tế mà lý trí đã buộc mình phải hiển nhiên thừa nhận, thông qua sự trỗi dậy mơ hồ của một thứ lương tri phản kháng luôn ẩn náu trong tiềm thức (André Gide), mong hướng tới một cái gì mà chính mình dường không tự hiểu. Cũng như điều cần có ở bất kỳ ai mang tư chất trí thức, cái tạng con người Nguyễn Du không cho phép một cách hành xử khác, hành xử khác đi là đồng nghĩa với sự tự hủy. Trong cuộc hành hương trở về với Thăng Long, Nguyễn Du cũng đã tra vấn lương tri thầm kín của mình và đáp số ông tìm ra là: món nợ tình cảm của nhà thơ đối với Thăng Long hóa ra chưa bao giờ trả hết. Ít nhiều, ông là dạng tính cách xa gần của Chateaubriand, một con người ““giữa hai thế kỷ, giống như hợp lưu của hai dòng sông”: giữa nền cộng hòa và chế độ quân chủ, giữa nghi ngờ và lòng tin, giữa hoài niệm và sự dự báo” ([20]).

N. H. C.


([1]) (2) Đại Việt sử ký tục biên. Nguyễn Kim Hưng và Ngô Thế Long dịch. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991; tr. 314. Về sau Nguyễn Nghiễm được thăng lên chức Đại tư đồ, tước Xuân Quận công, Bình Nam tả tướng quân.

([3]) Nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.

([4]) ([5]) Phạm Đình Hổ. “Nhà họ Nguyễn Tiên Điền”. Vũ trung tùy bút. Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến dịch. Nxb. Văn hóa (Viện Văn học), Hà Nội, 1960; tr. 151.

([6]) Hoàng Lê nhất thống chí. Nguyễn Đức Vân – Kiều Thu Hoạch dịch. Nxb. Văn học, Hà Nội, 1964; tr. 59.

([7]) Phạm Đình Hổ. “Nhà họ Nguyễn Tiên Điền”. Vũ trung tùy bút. Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến dịch.. 1960, Sđd; tr. 151-152.

([8]) “Lyrique = les œuvres où seul parle l’auteur”. Dẫn theo Oswald Ducrot – Tzvetan Todorov. Dictionnaire encyclopédique des sciences du langage. Edition du Seuil, Paris, 1972; tr. 198.

([9]) “Il plonge dans son passé” – Cách dùng chữ của Patrick Berthier khi nói về Chateaubriand. Encyclopædia Universalis. 2004.

([10]) Xem Hoài Nam. Nguyễn Du với kinh thành Thăng Long. Tạp chí Người đại biểu nhân dân 30.IX.2009. “Cho đến nay vẫn chưa tìm được bằng chứng để nói rằng Nguyễn Du có viết về Thăng Long trước năm 1786. Chuyện chỉ diễn ra sau đó gần 30 năm: năm 1813, Nguyễn Du được thăng Cần Chánh điện đại học sĩ và được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh. Lúc này Thăng Long trở thành một chặng trên sứ trình của ông, và chỉ đến lúc này Thăng Long mới in dấu trong thơ ông bằng bốn bài mở đầu tập Bắc hành tạp lục”. Ở dưới, chúng tôi sẽ cho thấy, trước 1786 thì quả chưa tìm thấy bài nào, tuy nhiên, thơ Nguyễn Du đã nói đến Thăng Long khá lâu trước năm 1813.

([11]) Tạm tính từ 1786 như Trương Chính. Còn nếu tính từ năm ông lên Thái Nguyên giữ chức quan võ của bố nuôi (khoảng 1783) thì đã 14 năm.

([12]) Xét số lượng thơ hiện còn trong hai tập Thanh Hiên tiền tậpThanh Hiên hậu tập là 65 bài (không kể bài Phản chiêu hồn nói về Khuất Nguyên và bài Biện Giả nói về Giả Nghị rất dễ từ Bắc hành tạp lục lẫn sang) có thể thấy phần thơ mất đi ở hai tập này phải là con số không nhỏ. Xem thêm Trương Chính. “Lời giới thiệu” Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Hà Nội, 1965, Sđd.

([13]) Sau khi đã bỏ Thăng Long, khi đi qua dinh Vị Hoàng, Nguyễn Du có một lời chiêm nghiệm: “Cổ kim vị kiến thiên niên quốc – Xưa nay chưa thấy nước (triều đại) nào bền vững nghìn năm” (Vị Hoàng dinh).

([14]) Hoài Nam. Nguyễn Du với kinh thành Thăng Long. Tạp chí Người đại biểu nhân dân, 2009, Bài đã dẫn.

([15])  Hegel. Mỹ học. “Thơ trữ tình”. Phan Ngọc dịch. Nxb. Văn học, Hà Nội, 2005; tr. 995.

([16]) Phạm Ngọc Lan. “Nguyễn Du và Thăng Long”. Gương mặt văn học Thăng Long. Trung tâm Văn miếu Quốc Tử Giám xb, Hà Nội, 1964; tr. 567.

([17]) Cũng vì lý do này, theo chúng tôi nếu chuyển thể sang song thất lục bát hay lục bát khi dịch bài thơ sẽ không nói được hết giá trị tư tưởng thẩm mỹ của tác giả. Bản dịch dưới đây của chúng tôi cố gắng bám sát nguyên thể chính vì lẽ đó.

([18]) Nhà phê bình Hoài Thanh trong bài Tâm tình Nguyễn Du qua một số bài thơ chữ Hán trên Tạp chí Văn nghệ tháng 3-1960 cho rằng hai câu “Hào hoa ý khí lăng vương hầu / Ngũ Lăng thiếu niên bất túc đạo” là “hai câu rõ ràng có giọng kính phục” tướng tá Tây Sơn, nhưng chúng tôi nghĩ hơi khác, nhìn theo mạch thơ của cả bài thì khổ nào cũng chỉ để ngợi ca tài sắc cô Cầm; riêng đoạn này 4 câu trên nói về tướng tá Tây Sơn, 4 câu dưới nói về cô Cầm, nên đó là lời ca ngợi vẻ hào hoa của chính cô Cầm.

([19])  Hoài Thanh. Tâm tình Nguyễn Du qua một số bài thơ chữ Hán. Tạp chí Văn nghệ, 1960, bài đã dẫn.

([20]) ““entre deux siècles, comme au confluent de deux fleuves” (Mémoires d’outre-tombe, XLIV, VIII): entre la république et la monarchie, entre le doute et la foi, entre le souvenir et la prédiction”. Patrick Berthier. Encyclopædia Universalis, 2004, Sđd

N.H.C.

This entry was posted in văn hoá and tagged . Bookmark the permalink.